Chùa Thiên Mụ – Chốn Tâm Linh Vãn Cảnh Hữu Tình Đẹp Nhất Huế

Chùa Thiên Mụ – Linh thiêng ngôi cổ tự xứ Huế

Chùa Thiên Mụ là một trong những ngôi chùa cổ xưa nhất, nơi đây ghi dấu sự ra đời cho câu chuyện về vị chúa Nguyễn đầu tiên của xứ Đàng Trong.

Thành phố Huế từ trước đến nay vốn nổi danh quy tụ nhiều danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử, đền chùa cổ kính luôn khiến cho du khách nhớ mãi khó quên.

Có thể nói, ngôi chùa này không những đẹp, rất thiêng mà còn gắn liền với câu truyện truyền thế xưa ơi là xưa. Hãy cùng tìm hiểu và khám phá về ngôi cổ tự này nhé !

Tương truyền, khi Nguyễn Hoàng làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa, ngài đã đích thân đi xem xét địa thế vùng đất Thừa Thiên để làm cơ sở, chuẩn bị mưu đồ mở mang bờ cõi, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này.

Một lần nọ ông dạo chơi bên bờ Sông Hương bắt gặp một ngọn đồi nhỏ, nhô ra khỏi dòng nước xanh uốn khúc, thế đất nhìn lại như một con rồng quay đầu nhìn về.

Vô cùng kinh ngạc vì vị trí độc lạ ở nơi đây, Nguyễn Hoàng hỏi thăm người dân địa phương thì mới biết ngọn đồi này mang danh Hà Khê .
Cũng khá kỳ lạ khi ngài nghe người dân nhắc về hình ảnh một bà lão mặc áo đỏ, quần lục Open trên đồi vào đêm hôm và nói với mọi người rằng :

Từ đó, nơi đây mang danh Thiên Mụ Sơn, tức là núi Thiên Mụ.

Như bắt nhịp với ý nguyện của người dân nơi đây với tư tưởng của Chúa Nguyễn Hoàng sau đó đã cho xây dựng ngôi chùa Thiên Mụ trên đồi, chính diện hướng ra Sông Hương đặt tên Thiên Mụ Tự, tức là chùa Thiên Mụ.

Đó chỉ là truyền thuyết còn trên thực tế thì nơi đây vốn đã tồn tại một ngôi chùa của người Chàm, ngôi chùa này được Dương Văn An, bấy giờ là Quan nhà Mạc nhắc đến vào năm 1553 trong sách Ô Châu Cận Lục, ông cũng là tác giả của cuốn sách lịch sử địa lý nổi tiếng này.

Nhưng mãi cho đến năm 1601 với quyết định của chúa Nguyễn Hoàng thì ngôi chùa này mới chính thức được xây dựng.

Theo sự phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa Thiên Mụ được xây dựng và phát triển quy mô hơn trong thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725).

Đến năm 1710, chùa Thiên Mụ đúc một chiếc chuông lớn có khắc một bài minh trên đó.

Về sau, chừng hơn bốn năm, Chúa lệnh cho thay thế sửa chữa lại chùa cùng với nhiều khu công trình đồ sộ khách như điện Đại Hùng, điện Thiên Vương, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thuyết Pháp, nhà Thiền …
Tuy nhiên, có lẽ rằng là do sự bào mòn của thời hạn, dịch chuyển lịch sử vẻ vang mà nhiều khu công trình trong số đó không còn nữa .
Chúa Nguyễn đã từng đích thân viết bài văn bia nói về việc thiết kế xây dựng lại khu công trình kiến trúc ở nơi này .
Ông còn ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích của Hòa thượng Thạch Liêm. Người đã có công lớn trong việc giúp vị chúa Nguyến này chấn hương sự tăng trưởng của Phật giáo ở Đàng trong .
Tấm bia được đặt trên sống lưng một bức tượng rùa đá rất lớn, trang trí đơn thuần nhưng hoa tiết cực kỳ tinh xảo .

Quy mô được mở rộng, cảnh đẹp tự nhiên động lòng người khiến cho chùa Thiên Mụ từ đó cho đến ngày hôm nay trở thành ngôi cổ tự lộng lẫy nhất ở xứ Đàng Trong.

Năm tháng trôi đi, biết bao dấu tích của thời gian khắc lên ngôi chùa Thiên Mụ thiêng liêng như là nơi đây đã từng được dùng để làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788) rồi nó lại được trùng tu dưới thời của các triều vua nhà Nguyễn.

Mãi đến năm 1844, dịp mừng bát thọ, tức là sinh nhật thứ tám mươi của bá Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, bà của vua Thiệu Trị và là vợ của vua Gia Long, chùa Thiên Mụ đã được đức vua cho xây dựng với quy mô lớn hơn.

Điển hình là xây tháp Từ Nhân, nay gọi là Tháp Phước Duyên, xây thêm đình Hương Nguyện và cho dựng, tôn tạo lại hai tấm bia có đề văn thơ của đức vua.

Tháp Phước Duyên có thể nói là biểu tượng của ngôi chùa Thiên Mụ. Xét về chiều cao thì nó cao hơn 21m, bao gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước của ngôi chùa.

Mỗi tầng tháp Thiên Mụ đều thờ tượng Phật. Có cầu thang hình xoắn ốc lên đỉnh tháp ở bên trong, tượng Phật bằng vàng trước đây được đặt và thờ ở đây.

Ngay phía trước ngôi tháp Phước Duyên này chính là đình Hương Nguyện.

Chùa Thiên Mụ nằm trong top 20 danh lam thắng cảnh nổi tiếng của đất Kinh kỳ, gắn liền với bài thơ Thiên Mụ chung thanh do đích thân đức vua Thiệu Trị sáng tác và ghi vào bia đá dựng gần cổng chùa.

Vào năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con nối dõi, đức vua kiêng kị từ “Thiên” phạm húy trời nên cho đổi tên thành “Linh Mụ”. Sau này, mãi cho đến năm 1869 thì nhà vua mới lại dùng tên Thiên Mụ như trước.

Do đó, trong dân gian người ta truyền lưu cái hai danh gọi, thích dùng tên nào thì gọi tên đó .

Sự tàn phá của thiên nhiên đã khiến cho chùa Thiên Mụ bị thiệt hại rất lớn.

Đó là trận bảo khủng khiếp ở năm 1904 đã khiến cho vô số công trình của chùa bị hư hỏng, gần như không thể chỉnh sửa, tu bổ lại được, trong số đó đình Hương Nguyện bị sụp hoàn toàn.

Các đợt trùng tu lớn nhỏ về sau, chùa Thiên Mụ mới dần khôi phục lại như thuở ban đầu.

Ngoài các công trình kiến trúc như tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm cùng bia đá, chua đồng,….. thì chùa Thiên Mụ của ngày hôm nay vẫn còn sở hữu vô số cổ vật quý báu, không chỉ về mặt lịch sử mà còn mang tính chất nghệ thuật.

Tất cả các bức tượng như tượng phật Di Lặc, tượng Hộ Pháp, tượng Tham Thế Phật, tượng Thập Vương… và những hoành phi câu đối đều minh chứng ghi dấu thời vàng son đã qua nơi Chùa Thiên Mụ.

Trong khuôn viên của chùa Thiên Mụ là cả một công trình vườn tượng rực rỡ.

Chùa Thiên Mụ có hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam là Ông. Đào tấn, hòn non bộ được đặt gần chiếc xe ô tô là di vật của vị cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi ông châm lửa tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo cảu chế độ Ngô Đình Diệm vào năm 1963.

Phía cuối khu vườn chính là mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì lừng danh của chùa Thiên Mụ, người đã cổng hiến cả cuộc đời mình cho các hoạt động ích đạo, giúp cho đời.

Nằm bên bờ sông Hương mộng mơ của miền Trung đầy nắng và gió, chùa Thiên Mụ với các công trình kiến trúc cổ kính đã góp phần điểm tô cho bức tranh thiên nhiên xứ Huế thêm duyên dáng, tràn đầy tình thơ ý hóa.

Tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân vang như linh hồn của vùng đất cố đô, vang vọng mãi theo dòng thời gian, theo dòng nước chảy của sông Hương đi qua trước Kinh Thành rồi xuôi về biển, đọng lại trong lòng du khách phương xa là nỗi niềm vươn vấn chốn Thiền Kinh, nỗi niềm của Huế xưa.

Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh