Ōsaka (thành phố) – Wikipedia tiếng Việt

Đối với những định nghĩa khác, xem Osaka ( xu thế ) Tòa nhà chọc trời Umeda Thuỷ cung Kaiyukan

Thành phố Ōsaka (大阪市 (Đại Phản thị), Ōsaka-shi?); viết gọn là 大阪, Ōsaka, [oːsaka] (nghe) là đô thị quốc gia trong Kinki của Nhật Bản. Nó là thành phố trung tâm hành chính của phủ Ōsaka, phần lớn nhất của vùng đô thị Keihanshin và là thành phố lớn thứ hai ở Nhật Bản với dân số 19 triệu người – trong top các thành phố có dân cư cao nhất. Thành phố Ōsaka nằm ở vùng Kinki trên đảo Honshu, ngay cửa sông Yodo trên vịnh Ōsaka. Osaka sẽ tổ chức Expo 2025.[3] Thị trưởng hiện tại của Osaka là Ichiro Matsui.[1]

Ōsaka
Osaka (Chinese characters).svgOsaka trong kanjitrong
Tên tiếng Nhật
Kanji

大阪

Hiragana おおさか
Katakana オオサカ

Ōsaka vốn dĩ đã là TT thương mại của Nhật Bản và giờ đây nó là TT công nghiệp và hải cảng chính, trái tim của vùng đô thị Kansai .

Ōsaka có nghĩa là “ngọn đồi lớn” hoặc “độ dốc lớn”. Không rõ khi nào cái tên này trở nên nổi bật hơn Naniwa, nhưng bằng chứng bằng văn bản lâu đời nhất cho tên này có từ năm 1496.

Tên bằng chữ Kanji là 大阪, nhưng viết lại thành 大坂 cho đến năm 1870, khi những đảng phái cho Minh Trị Duy tân đổi khác nó, có vẻ như để tránh chữ Hán thứ hai bị hiểu sai là 士反, có nghĩa là ” cuộc làm mưa làm gió của samurai “. Điều này nhu yếu trong cách đánh vần sang chảnh lúc bấy giờ, tên cũ đó phải được sử dụng rất cẩn trọng. Chữ Hán cũ vẫn còn được sử dụng nhưng rất hạn chế, thường là trong toàn cảnh lịch sử dân tộc, nhưng trong tiếng Nhật thì chữ Hán 阪 hay đứng một mình, đề cập đến thành phố Osaka hoặc tỉnh Osaka .

Thời tiền sử đến thời Kofun[sửa|sửa mã nguồn]

Một số dấu hiệu cư trú sớm nhất của con người ở khu vực Osaka là ở Morinomiya ruins (森ノ宮遺跡, Morinomiya iseki) bao gồm các gò vỏ, hàu biển và bộ xương người bị chôn vùi từ thế kỷ thứ VI – thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Người ta tin Thể loại:Bài viết dùng ngôn ngữ mập mờ[bởi ai?] ngày nay, khu vực Uehonmachi bao gồm một vùng đất bán đảo với một vùng biển nội địa ở phía đông. Trong thời Yayoi, cư dân thường trú trên đồng bằng phát triển khi việc trồng lúa trở nên phổ biến.[4]

Đến thời Kofun, Osaka đã tăng trưởng thành một cảng TT liên kết khu vực với khu vực phía tây của Nhật Bản. Số lượng lớn những ngôi mộ ngày càng lớn hơn được tìm thấy ở đồng bằng Osaka được coi là dẫn chứng của sự tập trung chuyên sâu quyền lực tối cao chính trị, dẫn đến sự hình thành của một nhà nước. [ 4 ] [ 5 ]

Thời Asuka và Nara[sửa|sửa mã nguồn]

Kojiki ghi lại rằng trong năm 390 – 430 sau Công nguyên có một hoàng cung hoàng gia ở Osumi, thời nay là Q. Higashiyodogawa, nhưng nó hoàn toàn có thể là một nơi ở của hoàng gia thứ cấp hơn là một thủ đô hà nội. [ 6 ]In 645, Thiên hoàng Kōtoku xây Cung điện Naniwa Nagara-Toyosaki nơi thời nay là Osaka [ 7 ] và dời đô từ Asuka ( tức Nara ) về Ōsaka, biến nó thành thủ đô hà nội của Nhật Bản. Khu vực lúc bấy giờ gồm cả thành phố Ōsaka, vốn có tên gọi là Naniwa ( viết là 難波, 浪華 hay 浪花 ), và lúc bấy giờ ở Ōsaka vẫn có một phường tên là Naniwa ( 浪速 ) và Namba ( 難波 ). [ 8 ] Naniwa được Thiên hoàng Temmu xây dựng năm 683, trên vùng đất mà giờ đây là phường Hōenzaka thuộc Osaka. Mặc dù Hà Nội Thủ Đô đã được chuyển lại đến Asuka ( tại tỉnh Nara thời nay ) vào năm 655, Naniwa luôn luôn là đường link có tính sống còn, cả trên bộ lẫn dưới biển, giữa Yamato ( tỉnh Nara thời nay ), Nước Hàn và Trung Quốc. [ 4 ] [ 9 ]Những điều tra và nghiên cứu lịch sử vẻ vang cho rằng người Yamato ( người Nhật ) đã đến cửa sông Yodo lần đầu vào năm 663. Vào thế kỉ thứ 7 và 8, có khi Naniwa là nơi xây hoàng cung của một vài thiên hoàng. Thành phố này cũng là một trong những hải cảng tiên phong có sự giao lưu văn hoá và kinh tế tài chính với nhà Đường ở Trung Quốc .Naniwa đã được công bố trở lại Thành Phố Hà Nội vào năm 744 theo lệnh của Thiên hoàng Shōmu và duy trì như vậy cho đến năm 745, khi Tòa án Hoàng gia chuyển trở lại Heijō-kyō ( nay là Nara ). Đến cuối thời Nara, vai trò cảng biển của Naniwa đã từ từ bị xóa nhòa bởi những khu vực lân cận, nhưng nó vẫn là một TT của sông, kênh và giao thông vận tải đường đi bộ giữa Heian-kyō ( Kyoto ngày này ) và những điểm đến khác .

Thời Heian đến Edo[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1496, Phật tử Jodo Shinshu đã xây dựng tổng hành dinh, chùa Ishiyama Hongan-ji trên những hoàng cung Hoàng gia Naniwa cũ đã bị phá huỷ. Năm 1570, Oda Nobunaga vây hãm ngôi chùa này vào năm 1570. Các nhà tu hành ở đầu cuối phải bỏ chùa đi vào năm 1580. Ngôi chùa đã bị Toyotomi Hideyoshi san bằng để lấy chỗ xây thành tháp của mình, thành Ōsaka năm 1583 .

Osaka từ lâu đã được coi là trung tâm kinh tế chính của Nhật Bản,[10] với tỷ lệ lớn dân số thuộc tầng lớp thương gia (xem Bốn tầng lớp của xã hội). Trong suốt thời Edo (1603-1867), Osaka đã phát triển thành một trong những thành phố lớn của Nhật Bản và trở lại vai trò như một hải cảng sống quan trọng. Văn hóa phổ biến của nó[11] có liên quan chặt chẽ với ukiyo-e ‘trong thời Edo. Đến năm 1780, việc phát triển song song với nền văn hoá đô thị của Kyōto và Edo, Osaka cũng có những nhà sản xuất bunraku và kabuki đặc trưng, và một cộng đồng nghệ thuật sống.[12] Vào năm 1837, Ōshio Heihachirō, một cấp bậc thấp samurai, đã dẫn đầu một cuộc nổi dậy của nông dân để đáp lại sự không sẵn lòng của thành phố trong việc hỗ trợ nhiều gia đình nghèo và đau khổ trong khu vực. Khoảng một phần tư của thành phố đã bị san bằng trước khi các quan chức của tướng quân dập tắt cuộc nổi loạn, sau đó Ōshio tự sát.[13] Osaka được chính phủ của Bakufu mở cửa ngoại thương chung với Hyōgo (hiện tại là Kobe) vào ngày 1 tháng 1 năm 1868, ngay trước khi Chiến tranh Boshin và Minh Trị Duy tân xảy ra.[14]

Không có tài liệu rõ ràng về việc cái tên Ōsaka thay thế sửa chữa tên Naniwa, nhưng những tài liệu viết tay cũ nhất có Open cái tên này, khoảng chừng những năm 1496, được tìm thấy trong chùa Ishiyama Hongan-ji. Lúc đó, tên này được phát âm là Ōzaka. Dần dần, âm ” z ” phát âm nhẹ dần, đồng thời âm ” o ” ( ō ) dài cũng phát âm ngắn đi .

Cư dân Osaka đã rập khuôn trong văn học Edo từ khoảng vào thế kỷ 18. Jippensha Ikku vào năm 1802 miêu tả người Osaka là keo kiệt. Năm 1809, thuật ngữ xúc phạm “Kamigata zeeroku” được cư dân Edo sử dụng để mô tả cư dân của khu vực Osaka về thói tính toán, sự sắc sảo, thiếu tinh thần công dân và sự thô tục của phương ngữ Osaka. Các nhà văn Edo đã xem “zeeroku” là những người học việc ngoan cố, keo kiệt, tham lam, háu ăn và dâm dục. Ở một mức độ nào đó, cư dân Osaka vẫn bị các nhà quan sát Tokyo kỳ thị theo cách tương tự như ngày nay, đặc biệt là về sự háu ăn, được chứng minh trong cụm từ, “Cư dân Osaka ăn cho đến khi họ ngán” (大阪は食倒れ, “Ōsaka wa kuidaore”).[15]

Thế kỷ XIX đến nay[sửa|sửa mã nguồn]

Khu vực Sennichimae năm 1916Đô thị vương quốc được xây dựng [ 16 ] vào năm 1889 theo pháp lệnh chính phủ nước nhà, với diện tích quy hoạnh khởi đầu là 15 km², ngày này thuộc Q. Chūō và Nishi. Sau đó, thành phố đã trải qua ba lần mở rộng lớn để đạt được quy mô hiện tại là 223 km². Osaka là TT công nghiệp của chủ nghĩa tư bản ở Nhật Bản. Nó được biết đến như thể ” Manchester phương Đông “. [ 17 ]Sự công nghiệp hóa nhanh gọn đã lôi cuốn nhiều người nhập cư Nước Hàn. [ 18 ] Hệ thống chính trị đa nguyên với sự tập trung chuyên sâu vào việc thôi thúc công nghiệp hóa và hiện đại hóa. [ 19 ] Tỷ lệ biết chữ cao và mạng lưới hệ thống giáo dục tăng cao, tạo ra một những tầng lớp trung lưu có sở trường thích nghi về văn học và chuẩn bị sẵn sàng tương hỗ nghệ thuật và thẩm mỹ. [ 20 ] Năm 1927, General Motors quản lý và vận hành một xí nghiệp sản xuất gọi là Osaka Assembly cho đến năm 1941, sản xuất xe Chevrolet, Pontiac, Oldsmobile và Buick, được quản lý và vận hành và có những nhân viên cấp dưới Nhật Bản. [ 21 ] Tại thành phố gần đó Ikeda ở tỉnh Osaka là văn phòng trụ sở của Daihatsu, một trong những đơn vị sản xuất xe hơi truyền kiếp nhất của Nhật Bản .Giống như châu Âu và châu Mỹ, Osaka có những khu ổ chuột cùng thất nghiệp và bần hàn. Tại Nhật Bản, chính quyền sở tại thành phố lần tiên phong ra mắt một mạng lưới hệ thống xóa đói giảm nghèo tổng lực, được sao chép một phần từ những quy mô của Anh. Các nhà hoạch định chủ trương Osaka nhấn mạnh vấn đề tầm quan trọng của việc phát hành và tương hỗ lẫn nhau là cách tốt nhất để chống lại bần hàn. Điều này giảm thiểu ngân sách của những chương trình phúc lợi. [ 22 ]Trong Thế chiến II, Osaka bị oanh tạc vào năm 1945 bởi Không quân Quân đội Hoa Kỳ như một phần chương trình không kích vào Nhật Bản. Vào ngày 13 tháng 3 năm 1945, tổng số có 329 máy bay ném bom hạng nặng Boeing B-29 Superfortress đã tham gia cuộc đột kích trên không vào Osaka. Theo một tù nhân cuộc chiến tranh người Mỹ bị giam trong thành phố, cuộc không kích gần như cả đêm và hủy hoại 65 km² diện tích quy hoạnh thành phố. Hoa Kỳ đã ném bom thành phố một lần nữa vào tháng 6 năm 1945 và một lần nữa vào ngày 14 tháng 8, một ngày trước khi Nhật Bản đầu hàng. [ 23 ]nhà nước đã ra sắc lệnh công nhận Ōsaka là đô thị cấp vương quốc vào ngày 1 tháng 9 năm 1956 .
Osaka nhìn từ vệ tinhPhía tây của thành phố giáp vịnh Osaka và trọn vẹn bị bao bởi hơn mười thành phố vệ tinh, toàn bộ đều ở tỉnh Ōsaka. Thành phố chiếm diện tích quy hoạnh lớn hơn ( khoảng chừng 13 % ) so với bất kể thành phố hoặc làng nào khác trong tỉnh Osaka. Khi thành phố được xây dựng vào năm 1889, nó chiếm khoảng chừng diện tích quy hoạnh thời nay là những phường Chuo và Nishi, chỉ 15,27 km² rồi ở đầu cuối thời nay lan rộng ra ra thành 222,30 km², trong đó lớn nhất là lần lan rộng ra 126,01 km² vào năm 1925. Điểm cao nhất của Osaka là ở Tsurumi-ku cao 37,5 mét và điểm thấp nhất là ở Nishiyodogawa-ku thấp so với mực nước biển – 2,2 mét. [ 24 ]

Osaka nằm trong khu vực khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Köppen Cfa), với bốn mùa rõ rệt. Mùa đông thường ôn hòa, với tháng giêng là tháng lạnh nhất có nhiệt độ trung bình là 9,3 °C. Thành phố hiếm khi thấy tuyết rơi trong mùa đông. Mùa xuân ở Osaka bắt đầu ôn hòa, nhưng cuối cùng lại nóng và ẩm. Nó cũng có xu hướng là mùa ẩm ướt nhất của Osaka, với tsuyu (梅雨, tsuyu, “mưa xuân”) – xảy ra từ đầu tháng 6 tới cuối tháng 7.[25] Mùa hè rất nóng và ẩm ướt. Vào tháng 8, tháng nóng nhất, nhiệt độ cao trung bình hàng ngày đạt 33,5 °C, trong khi nhiệt độ thấp vào ban đêm trung bình thường dao động khoảng 25,5 °C. Mùa thu ở Osaka chứng kiến ​​một xu hướng mát mẻ, với phần đầu của mùa giống với mùa hè trong khi phần sau của mùa thu giống với mùa đông. Lượng mưa rất nhiều, với mùa đông là mùa ít mưa nhất, trong khi lượng mưa hàng tháng đạt đỉnh vào tháng 6 với mùa mưa “tsuyu”, thường kết thúc vào giữa đến cuối tháng 7. Từ cuối tháng 7 đến hết tháng 8, nhiệt độ và độ ẩm của mùa hè và lượng mưa giảm đi một chút. Osaka trải qua một đợt mưa thứ hai vào tháng 9 và đầu tháng 10, khi các xoáy thuận nhiệt đới, bao gồm cả bão xuấ hiện đến từ phía nam hoặc tây nam.

Dữ liệu khí hậu của Osaka, Osaka (1981-2010)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Cao kỉ lục °C (°F) 19.0 23.7 24.2 30.7 32.7 36.1 38.0 39.1 36.2 32.9 27.2 23.6 39,1
Trung bình cao °C (°F) 9.5 10.2 13.7 19.9 24.5 27.8 31.6 33.4 29.3 23.3 17.6 12.3 21,1
Trung bình ngày, °C (°F) 6.0 6.3 9.4 15.1 19.7 23.5 27.4 28.8 25.0 19.0 13.6 8.6 16,9
Trung bình thấp, °C (°F) 2.8 2.9 5.6 10.7 15.6 20.0 24.3 25.4 21.7 15.5 9.9 5.1 13,3
Thấp kỉ lục, °C (°F) −7.5 −6.5 −5.2 −2.6 3.5 8.9 14.8 13.6 10.4 3.0 −2.2 −4.5 −7,5
Giáng thủy mm (inch) 45.4
(1.787)
61.7
(2.429)
104.2
(4.102)
103.8
(4.087)
145.5
(5.728)
184.5
(7.264)
157.0
(6.181)
90.9
(3.579)
160.7
(6.327)
112.3
(4.421)
69.3
(2.728)
43.8
(1.724)
1.279,0
(50,354)
Lượng tuyết rơi cm (inch) 1
(0.4)
1
(0.4)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
0
(0)
1
(0.4)
3
(1,2)
% độ ẩm 61 60 59 59 62 68 70 66 67 65 64 62 64
Số ngày giáng thủy TB

( ≥ 0.5 mm )

6.6 7.2 11.3 10.0 11.0 12.2 11.1 7.6 10.3 8.7 7.2 6.5 109,8
Số ngày tuyết rơi TB 5.0 6.3 2.3 0.0 0.0 0.0 0.0 0.0 0.0 0.0 0.0 1.9 15,5
Số giờ nắng trung bình hàng tháng 142.6 135.4 159.5 188.6 194.3 156.2 182.1 216.9 156.7 163.9 148.5 151.6 1.996,4
Nguồn: Cơ quan Khí tượng Nhật Bản[26]

Cảnh quan thành phố[sửa|sửa mã nguồn]

Cảnh quan thành phố to lớn của Osaka đã được miêu tả là ” chỉ chưa bằng Tokyo do nổi bật của hiện tượng kỳ lạ đô thị ở Nhật Bản “. [ 27 ]
Trung tâm Osaka nhìn về phía bắc từ đài quan sát Abeno Harukas

Các khu dân cư[sửa|sửa mã nguồn]

Nakanoshima, ranh giới của Kita ( phải ) và Semba ( trái ) Soemoncho ở Minami

Trung tâm Osaka được chia thành khu kinh doanh và khu thượng lưu được gọi là Kita (北, “bắc”) và Minami (南, “nam”).[28][29]

Kita gồm khu Umeda và những khu vực lân cận, một TT kinh doanh thương mại và kinh doanh bán lẻ lớn cùng Ga Ōsaka và một mạng lưới shopping lớn dưới mặt đất. [ 28 ] Kita và Nakanoshima gần đó có những tòa nhà chọc trời .

Minami, mặc dù có nghĩa là “phía nam”, về cơ bản là ở phường Chūō (中央区, Chūō-ku) và về mặt địa lý nó ở trung tâm thành phố.[29] Các khu nổi tiếng ở đây bao gồm các khu vực mua sắm Namba và Shinsaibashi, khu giải trí Dōtonbori, Nipponbashi, cũng như các khu vực văn hóa, nghệ thuật và thời trang như Amerikamura và Horie.

Các khu kinh doanh giữa Kita và Minami như Honmachi và Yodoyabashi, được gọi là Semba (船場), nơi trụ sở khu vực của nhiều ngân hàng và tập đoàn quy mô lớn. Đại lộ Midōsuji chạy qua Semba và kết nối Kita và Minami.

Xa hơn về phía nam của Minami là những thành phố như Shinsekai ( với tòa tháp Tsūtenkaku ), Tennoji và Abeno ( với Sở thú Tennoji, Shitennō-ji và Abeno Harukas ) và khu ổ chuột Kamagasaki, khu ổ chuột lớn nhất ở Nhật Bản. [ 30 ]Phía tây của thành phố là vịnh Osaka điển hình nổi bật [ 31 ] đóng vai trò là cảng chính cũng như một khu vực du lịch với những điểm thăm quan như Kyocera Dome, Universal Studios Japan và Làng cảng Tempozan. Đông Osaka được phân vùng thành một thành phố riêng không liên quan gì đến nhau, mặc dầu phía đông của thành phố Osaka có rất nhiều khu gồm có Tsuruhashi ( Thị trấn Nước Hàn ), cũng như Công viên thành tháp Osaka, Khu thương mại Osaka và TT Ga Kyōbashi .Osaka có nhiều kênh và cầu, nhiều trong số đó đóng vai trò là tên gọi cho những khu vực lân cận. [ 32 ] Cụm từ ” 808 cây cầu của Naniwa ” là một thành ngữ ở Nhật Bản cũ được sử dụng để chỉ sự ấn tượng và ” không hề đếm được “. Osaka có khoảng chừng 200 cây cầu vào thời Edo [ 33 ] và 1629 cây cầu vào năm 1925. Khi nhiều kênh đào của thành phố từ từ được lấp đầy, số lượng này giảm xuống còn 872, trong đó có 760 cây cầu hiện đang được quản trị bởi Thành phố Osaka. [ 32 ]

Osaka có 24 quận (区, ku):

Bản đồ Osaka
A map of Osaka's Wards
Tên quận
Rōmaji Kanji
1 Abeno-ku 阿倍野区
2 Asahi-ku 旭区
3 Chūō-ku 中央区
4 Fukushima-ku 福島区
5 Higashinari-ku 東成区
6 Higashisumiyoshi-ku 東住吉区
7 Higashiyodogawa-ku 東淀川区
8 Hirano-ku 平野区
9 Ikuno-ku 生野区
10 Jōtō-ku 城東区
11 Kita-ku (trung tâm hành chính)

北区

12 Konohana-ku 此花区
13 Minato-ku 港区
14 Miyakojima-ku 都島区
15 Naniwa-ku 浪速区
16 Nishi-ku 西区
17 Nishinari-ku 西成区
18 Nishiyodogawa-ku 西淀川区
19 Suminoe-ku 住之江区
20 Sumiyoshi-ku 住吉区
21 Taishō-ku 大正区
22 Tennōji-ku 天王寺区
23 Tsurumi-ku 鶴見区
24 Yodogawa-ku 淀川区

Những điểm thăm quan[sửa|sửa mã nguồn]

Trung tâm Ōsaka được chia làm 2 phần : phần phía bắc Kita ( 北 ) và phía nam Minami ( 南 ). Một khu lẻ Umeda ( 梅田 – Mai Điền ) nằm ở Kita, với khu vui chơi quanh cầu Dotonbori, Công viên tam giác và Amerikamura ( ” làng Mỹ ” ) ở Minami. Minami cũng là quê nhà của cây cầu Shinsaibashi ( 心斎橋 ) và khu shopping Ebisubashi. Khu thương mại TT, gồm có toà án và ngân hàng nhà nước, nằm ở vùng Yodoyabashi và Honmachi ( 本町 ), giữa Kita và Minami. Khu này cũng có ga cuối, ví dụ như ga Tennoji ( 天王寺駅 ) và ga Kyobashi ( 京橋駅 ) .Ōsaka nổi tiếng với bunraku ( nhà hát rối truyền thống ), nhà hát kịch kabuki, và manzai, một hình thức văn minh của kịch hài đứng. Những điểm lôi cuốn hành khách còn có :

Kaiyukan (海遊館, Hải Du quán) là một thuỷ cung trong vịnh Ōsaka, có 35.000 loài sống dưới nước trong 14 bể lớn. Bể lớn nhất trong số đó cũng là bể lớn nhất thế giới, chứa 5.400 tấn nước và là nhà của nhiều sinh vật biển khác nhau kể cả cá voi và cá mập.

Các khu vực đáng chú ý quan tâm[sửa|sửa mã nguồn]

  • Quận Shinsekai và Tsūtenkaku
  • Bảo tàng thành phố Ōsaka
  • Công viên Nakanoshima
  • Bảo tàng đồ sứ phương Đông – thành phố Ōsaka
  • Bảo tàng khoa học Ōsaka
  • Thư viện công cộng Nakanoshima
  • Quảng trường trung tâm Ōsaka
  • Bảo tàng đồ sứ và đồ gốm: thành lập năm 1982. Có 2.000 mảnh gốm ở đây, trong đó có cái là tài sản quốc gia. Ở đây cũng có một phòng trưng bày thiên nhiên chuyên về gốm sứ xanh ngọc Hàn Quốc.
  • Khu làng Hoa Kỳ (American Village)
  • Bảo tàng Hài kịch Kamigata và nghệ thuật biểu diễn tỉnh Ōsaka
  • Công viên Tennoji
  • Sở thú Tennoji
  • Bảo tàng nghệ thuật quốc gia, Ōsaka
  • Đền Shitenno
  • Công viên Sumiyoshi
  • Điện thờ Sumiyoshi Taisha
  • Trung tâm thương mại châu Á-Thái Bình Dương
  • Toà nhà WTC Osaka
  • Nơi sinh của Hiromitsu Ishida
  • Thị trấn Den Den
  • Mái vòm Osaka
  • Bảo tàng dân tộc học quốc gia (Minpaku)
  • Bảo tàng nhà nông nghiệp ở công viên Hattori Ryokuchi

Sân bay quốc tế Kansai là trường bay chính : nó nằm trên một hòn hòn đảo tự tạo hình chữ nhật ngoài khơi vịnh Osaka, ship hàng cho Osaka và những thành phố vệ tinh như Nara, Kobe và Kyoto. Sân bay có liên kết với TT thành phố và ngoại ô .Sân bay quốc tế Osaka ở Itami và Toyonaka vẫn là nơi đến của hầu hết những chuyến bay trong nước từ những miền khác .Bên cạnh mạng lưới hệ thống đường tàu điện ngầm của thành phố Osaka, còn có mạng lưới của JR và những đường tàu tư nhân, để đi từ Osaka đến những tỉnh láng giềng. Đường tàu Keihan và Hankyu đi tới Kyoto, Hanshin và Hankyu đi tới Kobe, đường Kintetsu đi đến Nara và Nagoya, và đường Nankai để tới Wakayama .

Osaka
Năm Số dân ±%
1900 881.344 —    
1910 1.239.373 +40.6%
1920 1.798.295 +45.1%
1930 2.453.573 +36.4%
1940 3.252.340 +32.6%
1965 3.156.222 −3.0%
1970 2.980.487 −5.6%
1975 2.778.987 −6.8%
1980 2.648.180 −4.7%
1985 2.636.249 −0.5%
1990 2.623.801 −0.5%
1995 2.602.421 −0.8%
2000 2.598.774 −0.1%
2005 2.628.811 +1.2%
2010 2.666.371 +1.4%

Theo tìm hiểu dân số năm 2005, có 2.628.811 dân cư ở Osaka, tăng 30.037 hay 1,2 % so với năm 2000. [ 34 ] Có 1.280.325 hộ mái ấm gia đình với khoảng chừng 2,1 người mỗi hộ. Mật độ dân số là 11.836 người trên mỗi km². Đại động đất Kantō đã gây ra một cuộc di cư lớn đến Osaka trong khoảng chừng thời hạn từ 1920 đến 1930 và thành phố trở thành thành phố lớn nhất của Nhật Bản vào năm 1930 với 2.453.573 người, đông hơn cả Tokyo, với dân số 2.070.913 người. Dân số đạt đỉnh ở mức 3.252.340 vào năm 1940 và có mức cao nhất sau cuộc chiến tranh là 3.156.222 vào năm 1965, nhưng vẫn liên tục giảm kể từ khi dân cư chuyển ra ngoại ô. [ 35 ]Có 99.775,5 người quốc tế sinh sống hợp pháp, hai nhóm lớn nhất là Nước Hàn ( 71.015 ) và Trung Quốc ( 11.848 ). Ikuno, với Q. Tsuruhashi, là nơi cư trú của một trong những dân cư Nước Hàn lớn nhất tại Nhật Bản, với 27.466 người sinh sống hợp pháp được gọi là Zainichi Nước Hàn. [ 36 ] [ 37 ]

Phương ngữ thường được nói đến của khu vực này là Osaka-ben, một phương ngữ phụ điển hình của Kansai-ben. Trong số nhiều đặc điểm khác đặc trưng cho Osaka-ben, các ví dụ bao gồm sử dụng từ nối ya thay vì da và hậu tố -hen thay vì -nai trong động từ phủ định.

Hội đồng Thành phố Osaka ( ja ) là chính quyền sở tại địa phương của thành phố được xây dựng theo Luật tự trị địa phương. Hội đồng có 89 ghế, được phân chia cho hai mươi bốn Q. tỷ suất với dân số và được bầu lại bởi công dân cứ sau mỗi bốn năm. Hội đồng bầu quản trị và Phó quản trị. Toshifumi Tagaya ( LDP ) là quản trị hiện tại và là quản trị thứ 104 kể từ tháng 5 năm 2008. Thị trưởng thành phố được bầu chọn trực tiếp bởi công dân bốn năm một lần, theo Luật tự trị địa phương. Tōru Hashimoto, cựu thống đốc của Ōsaka là thị trưởng thứ 19 của Osaka kể từ năm 2011. Thị trưởng được tương hỗ bởi hai Phó Thị trưởng, hiện là Akira Morishita và Takashi Kashiwagi, người được ông ta chỉ định theo luật lệ thành phố. [ 38 ]Osaka cũng có 1 số ít cơ quan của nhà nước Nhật Bản. Dưới đây là list những Văn phòng nhà nước được đặt tại Osaka .

  • Lực lượng Bảo vệ bờ biển Nhật Bản, Trụ sở khu vực thứ năm
  • Ủy ban thương mại công bằng Nhật Bản; Văn phòng ở Kinki, Chugoku, Shikoku
  • Phòng tài chính khu vực Kinki
  • Phòng kinh tế, thương mại và công nghiệp khu vực Kinki
  • Cục giao thông khu vực Kinki
  • Cục truyền thông Kinki
  • Cục phát triển khu vực Kinki
  • Cục cảnh sát khu vực Kinki
  • Bộ Ngoại giao, Văn phòng Osaka
  • Hải quan Osaka
  • Tòa án Osaka
  • Tòa án gia đình Osaka
  • Tòa án tối cao Osaka
  • Cơ quan Di trú Osaka
  • Cục Lao động Osaka
  • Đài quan sát khí tượng Osaka
  • Văn phòng công tố viên Osaka
  • Cục hàng không vũ trụ khu vực Osaka
  • Văn phòng luật sư khu vực Osaka
  • Cục thuế khu vực Osaka
  • Tòa phân xử Osaka

Vào tháng 7 năm 2012, một dự luật đa đảng đã được đệ trình lên Nghị viện được cho phép thực thi kế hoạch đô thị Osaka theo kế hoạch của thị trưởng thành phố Osaka, thống đốc Osaka và đảng của họ. Nếu được triển khai, thành phố Osaka, Sakai lân cận và hoàn toàn có thể những thành phố lân cận khác sẽ giải thể và được tổ chức triển khai lại thành bốn Q. đặc biệt quan trọng của tỉnh Osaka – tương tự như như thành phố Tokyo trong tỉnh Tokyo. Các phường đặc biệt quan trọng là những đơn vị chức năng hành chính cấp thành phố để lại 1 số ít nghĩa vụ và trách nhiệm hành chính và lệch giá khác cho chính quyền sở tại tỉnh. [ 39 ] Vào tháng 12 năm 2018, thị trưởng và thống đốc Osaka hoàn toàn có thể từ chức để buộc một cuộc trưng cầu dân ý về kế hoạch của thành phố trùng với cuộc bầu cử cho những vị trí đó vào mùa xuân năm 2019. [ 40 ]Vào tháng 10 năm 2018, thành phố Osaka chính thức kết thúc [ 41 ] mối quan hệ thành phố kết nghĩa với San Francisco của Mỹ sau những yếu tố bất hòa về đài tưởng niệm “ comfort women ”, trong một lá thư dài 10 trang, 3.800 từ tiếng Anh gửi đến thị trưởng San Francisco London Breed. [ 42 ]

Chính trị tương quan đến việc sử dụng nguồn năng lượng hạt nhân[sửa|sửa mã nguồn]

Vào ngày 27 tháng 2 năm 2012, ba thành phố Kansai, Kyoto, Osaka và Kobe, đã cùng nhu yếu Công ty Điện lực Kansai phá vỡ sự nhờ vào vào nguồn năng lượng hạt nhân. Trong một lá thư gửi KEPCO, họ cũng nhu yếu bật mý thông tin về nhu yếu và cung ứng điện và với giá thấp hơn và không thay đổi. Ba thành phố là cổ đông của nhà máy sản xuất : Osaka chiếm hữu 9 % CP, trong khi Kobe có 3 % và Kyoto 0,45 %. Toru Hashimoto, thị trưởng thành phố Osaka, đã công bố yêu cầu giảm thiểu sự nhờ vào vào nguồn năng lượng hạt nhân trong cuộc họp cổ đông vào tháng 6 năm 2012. [ 43 ]Vào ngày 18 tháng 3 năm 2012, thành phố Osaka đã quyết định hành động là cổ đông lớn nhất của Công ty Điện lực Kansai, rằng tại cuộc họp cổ đông tiếp theo vào tháng 6 năm 2012, nó sẽ nhu yếu một loạt biến hóa :

  • rằng Kansai Electric sẽ được tách thành hai công ty, tách nguồn phát điện khỏi truyền tải điện
  • giảm số lượng giám đốc điều hành và nhân viên.
  • việc thực hiện các phép đo tuyệt đối an toàn để đảm bảo an toàn cho các cơ sở hạt nhân.
  • việc xử lý nhiên liệu đã qua sử dụng.
  • lắp đặt loại phát điện nhiệt mới để đảm bảo cung cấp năng lượng phi hạt nhân.
  • bán tất cả các tài sản không cần thiết bao gồm cả cổ phiếu của KEPCO.

Trong hành vi này, Osaka đã bảo vệ sự tương hỗ của hai thành phố và cổ đông khác : Kyoto và Kobe, nhưng với quyền biểu quyết tích hợp là 12,5 %, họ không chắc như đinh về hiệu quả ở đầu cuối, do tại hai phần ba những cổ đông đồng ý chấp thuận thì mới sửa đổi được điều lệ công ty. [ 44 ]Tại một cuộc họp được tổ chức triển khai vào ngày 10 tháng 4 năm 2012 bởi ” hội đồng kế hoạch nguồn năng lượng “, được xây dựng bởi thành phố Osaka và chính quyền sở tại những Q., vào cuối năm kinh tế tài chính 2011, khoảng chừng 69 nhân viên cấp dưới của Công ty Điện lực Kansai đã từng là công chức. ” Amakudari ” là tên tiếng Nhật của hoạt động giải trí khen thưởng này bằng cách thuê những quan chức trước đây trấn áp và giám sát công ty. Những người như vậy gồm có :

  • 13 cựu quan chức của: Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng, Giao thông và Du lịch
  • 3 cựu quan chức của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp,
  • 2 cựu quan chức của Bộ Môi trường,
  • 16 cựu cảnh sát,
  • 10 cựu lính cứu hỏa,
  • 13 cựu kỹ sư xây dựng.

Bên cạnh đó, người ta biết rằng Kansai Electric đã triển khai khoảng chừng 600 khoản hỗ trợ vốn bên ngoài, với tổng số tiền khoảng chừng 1,695 tỷ yên :

  • 70 đóng góp đã được trả cho chính quyền địa phương: với tổng số 699 triệu yên
  • 100 đóng góp cho các tổ chức dịch vụ công cộng: 443 triệu yên,
  • 430 đóng góp cho các tổ chức và cơ sở khác nhau: tổng cộng 553 triệu yên

Trong cuộc họp này, 8 điều kiện kèm theo đã được biên soạn, cần phải triển khai xong trước khi khởi động lại lò phản ứng số 3 và số 4 Nhà máy điện hạt nhân Oi :

  • sự đồng ý của người dân và chính quyền địa phương trong vòng 100 km từ nhà máy
  • lập một cơ quan quản lý độc lập mới
  • thỏa thuận an toàn hạt nhân
  • thiết lập các tiêu chuẩn an toàn hạt nhân mới
  • kiểm tra và đánh giá nghiêm ngặt dựa trên các quy tắc an toàn mới này[45]

Đại OsakaTổng sản phẩm thành phố của Osaka trong năm tài khóa 2004 là 21,3 nghìn tỷ Yên, tăng 1,2 % so với năm trước. Con số này chiếm khoảng chừng 55 % tổng sản lượng tại tỉnh Osaka và 26,5 % ở khu vực Kinki. Trong năm 2004, thương mại, dịch vụ và sản xuất là ba ngành công nghiệp chính, chiếm lần lượt 30 %, 26 % và 11 %. Thu nhập trung bình đầu người trong thành phố khoảng chừng 3,3 triệu Yên, cao hơn 10 % so với tỉnh Osaka. [ 46 ] MasterCard toàn thế giới báo cáo giải trình rằng Osaka đứng thứ 19 trong số những thành phố số 1 quốc tế và đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế tài chính toàn thế giới. [ 47 ]
GDP ở khu vực đại Osaka lớn hơn ( Osaka và Kobe ) 341 tỷ đô la. Osaka, cùng với Paris và London, có một trong những nơi nằm trong trong nước ( hinterland ) có tỉ trọng cao nhất trên quốc tế. [ 48 ] GDP trung bình đầu người của Osaka ( danh nghĩa ) là 59.958 USD. [ 49 ]Trong lịch sử vẻ vang, Osaka là TT thương mại tại Nhật Bản, đặc biệt quan trọng là trong thời kỳ trung lưu và tiền tân tiến. Nomura Securities, công ty môi giới tiên phong ở Nhật Bản được xây dựng tại thành phố vào năm 1925 và Osaka vẫn là nơi kinh doanh số 1. Nhiều công ty lớn đã chuyển văn phòng chính của họ đến Tokyo. Tuy nhiên, một số ít công ty lớn, như Panasonic, Sharp và Sanyo, vẫn có trụ sở tại Osaka. Gần đây, thành phố khởi đầu một chương trình, đứng đầu là thị trưởng Junichi Seki, để lôi cuốn góp vốn đầu tư trong và ngoài nước. [ 50 ] Trong Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu 2017, Osaka được xếp hạng là TT kinh tế tài chính cạnh tranh đối đầu thứ 15 trên quốc tế và cạnh tranh đối đầu thứ năm ở Châu Á Thái Bình Dương ( sau Nước Singapore, Hong Kong, Tokyo, and Shanghai ). [ 51 ]The Osaka Securities Exchange, specializing in derivatives such as Nikkei 225 futures, is based in Osaka. The merger with JASDAQ will help the Osaka Securities Exchange become the largest exchange in Nhật Bản for start-up companies. [ 52 ]According to global consulting firm Mercer, Osaka was the second most expensive city for expatriate employees in the world in 2009. It jumped up nine places from 11 th place in 2008 and was the eighth most expensive city in 2007. However, it was not ranked in the top ten places of the list in 2013. [ 53 ] [ 54 ] The Economist Intelligence Unit ( EIU ) ranked Osaka as the second most expensive city in the world in its 2013 Cost of Living study. [ 55 ]Trong lịch sử vẻ vang, Osaka là TT thương mại ở Nhật Bản, đặc biệt quan trọng là trong thời kì trung cổ và cận đại. Ngày nay, nhiều công ty lớn đã chuyển trụ sở chính về Tokyo đặc biệt quan trọng là từ cuối những năm 1990, nhưng có một vài công ty vẫn đặt ở Osaka. Sau đây là một vài công ty ở Osaka .
Các trường tiểu học và trung học cơ sở công lập ở Osaka điều hành quản lý bởi Phòng giáo dục thành phố Osaka .Các trường trung học phổ thông công lập được quản lý bởi Sở giáo dục phủ Osaka .Thành phố Osaka có một số lượng lớn những trường ĐH, nhưng do sự tăng trưởng của những trường cao đẳng nên nhiều trường ĐH đã chọn giải pháp chuyển ra ngoài thành phố. Osaka vẫn là TT của giáo dục cấp cao ở Nhật Bản, hoàn toàn có thể so sánh với Kyoto hay Tokyo. ở tỉnh osaka có những trường ĐH quốc lập, công lập như sau :
Ban đêm ở Umeda Sky Building Dōtonbori, Tsūtenkaku Shitennō-ji, Sumiyoshi taisha và Thành OsakaNhiều người cho rằng người dân ở Osaka có được hiểu biết là do những người không phải ở Osaka, đặc biệt quan trọng là người Tokyo. Phần lớn người dân Osaka cảm thấy một sự chia rẽ lớn giữa họ với những người Nhật vùng Kanto. Nhiều người phát cáu lên khi người Tokyo hoàn toàn có thể đem Osaka ra làm trò cười chỉ dựa vào 1 chương trình TV kể về thành phố của họ. Một ví dụ rõ ràng của chuyện này là khi nghệ sĩ hài kịch ở Tokyo ( sinh ra ở Shikoku ) là Saibara Rieko, trên một chương trình truyền hình, đã cảnh báo nhắc nhở rằng ai muốn đến Osaka thì nên biết nước máy ở đó rất dơ bẩn và không nên uống. Điều này đã ảnh hưởng tác động mạnh tới Công ty cấp nước Osaka. Họ đã mời Saibara đến Osaka để thử một show diễn : bịt mắt bà lại và đố bà hoàn toàn có thể nhận ra nước máy ở Osaka với nước máy ở Tokyo và nước khoáng. Trò thử này được chiếu trên tivi, nhưng Công ty cấp nước Osaka đã phải tuyệt vọng vì Saibara đã nhận ra nước ở Osaka. Tuy nhiên, một lời xin lỗi được đưa ra và Saibara nói rằng nước ở Osaka cũng không tệ lắm .Osaka nổi tiếng với đồ ăn, có một câu dân gian nói là ” bạn muốn thấy Kimono thì đến Kyoto, còn muốn ăn thì hãy đến Osaka ” ( 京の着倒れ 、 大阪の食い倒れ ) .Ấm thực vùng Osaka gồm có okonomiyaki ( bánh cake chiên ), takoyaki ( bạch tuộc tẩm bột nướng ), udon ( một loại mì ), món sushi địa phương và những thức ăn Nhật Bản truyền thống lịch sử khác. Người ta nói có nguyên một ngành công nghiệp ship hàng nhà hàng siêu thị ở Osaka, có cả những món ăn trên trung bình, được ship hàng nhanh mà rẻ .Là một thành phố lớn, thành phố công nghiệp, người Osaka luôn nghĩ khi nào cũng là giờ thao tác. Một người Osaka nổi bật không khi nào chờ đúng đèn giao thông vận tải để qua đường nếu ở đó không nhiều xe cộ. Họ cũng là những người đi bộ nhanh nhất Nhật Bản – vận tốc trung bình 1,6 m / s ( hơn cả người Tokyo cũng đi nhanh nhưng với vận tốc 1,56 m / s ) .

Các thành phố kết nghĩa[sửa|sửa mã nguồn]

Osaka có 8 thành phố kết nghĩa [ 2 ] Lưu trữ 2008 – 12-22 tại Wayback Machine .Các thành phố kết nghĩa :
Các thành phố hữu nghị và hợp tác :

Osaka có nhiều cảng kết nghĩa.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

{ { # coordinates : } } : một trang không hề chứa nhiều hơn một thẻ chính

Source: https://thevesta.vn
Category: Bản Tin