Đường đạo trong kỷ nguyên mới

 

           Tác giả                                                                                         Dịch
giả

ALICE A. BAILEY                                                                 NGUYỄN
HỮU KIỆT

 

ĐƯỜNG ĐẠO

TRONG

KỶ NGUYÊN MỚI

 

(DISCIPLESHIP IN THE NEW AGE)

 

 

QUYỂN 1
GHI CHÚ CỦA minhtrietmoi.org
TIỂU SỬ TÁC GIẢ
CÁC LỜI CẦU KHẤN VĨ ĐẠI
CHƯƠNG I
HUẤN TỪ GỞI CÁC ĐỆ TỬ
Phần I
PHẦN HAI
PHẦN III
PHẦN IV
PHẦN V
PHẦN VI
PHẦN VII
PHẦN VIII
PHẦN IX
CHƯƠNG II
VÀI HUẤN THỊ CÁ NHÂN
CHƯƠNG III
SÁU GIAI ĐOẠN TRÊN ĐƯỜNG ĐẠO
Phần I
PHẦN II
PHẦN III
PHẦN IV
CHƯƠNG IV
TÓM LƯỢC CÔNG TRÌNH CỦA CHÂN SƯ TÂY TẠNG

Bản dịch “ Đường đạo trong kỷ nguyên mới ” quyển I do dịch giả Nguyễn Hữu Kiệt dịch vào những năm 1976 – 1977 và được đánh máy phổ cập hạn chế trong vòng hội viên quen biết của hội Theosophia Nước Ta. Những người yêu thích Minh triết Thiêng Liêng lại một lần nữa cám ơn Ông vì những gì Ông đã làm : chuyển tải những tác phẩm Huyền môn nổi tiếng của quốc tế sang tiếng Việt, với một lối dịch thanh thoát, khúc triết. Tuy rằng không phải toàn bộ bản dịch của Ông đều chuẩn xác, và nhiều bản dịch của Ông là bản dịch thoát, không dịch khá đầy đủ theo nguyên tác ( ví dụ điển hình quyển “ Các bậc Chân sư Yogi Ấn độ ” dịch “ the Autobiography of A Yogi ”, Ông lược bỏ nhiều chương trong quyển sách ), những gì Ông đã làm vô cùng quí giá và hữu dụng cho người học đạo. Website www.minhtrietmoi.org đã cho đánh máy lại và thông dụng một tác phẩm quan trọng của Chân sư D.K với bạn đọc. Tuy nhiên, trong quy trình chỉnh sửa và biên tập, chúng tôi xin mạn phép tác giả chỉnh lý một vài từ cho tương thích với thời lúc bấy giờ .
1. Từ Tập đoàn Tiên Thánh hoặc Hội đoàn Tiên thánh tác giả dịch từ tiếng Anh the Hierarchy, Hội Theosophia dùng từ the White Brotherhood. Chúng tôi nhận thấy từ Tập đoàn Tiên thánh hoàn toàn có thể khiến bạn đọc thời nay hiểu nhầm, do đó xin mạn phép đổi thành Thiên Đoàn, như cách dịch của Thanh Thiên .
2. Từ thể phách, thể vía dịch giả dùng để dịch the etheric body toàn thân, the astral ( hay emotional ) body toàn thân, xin đổi thành thể dĩ thái ( hoặc thể sinh lực ) và thể tình cảm .
3. Từ Đệ tử nhập môn dịch giả dùng để dịch từ the Accepted Disciple, chúng tôi thấy chưa phản ánh đúng ý nghĩa của từ. The Accepted Disciple là đệ tử đã được Chân sư thâu nhận chính thức sau khi đã trải qua quá trình đệ tử dự bị, do đó nên dùng từ Đệ tử Chính thức để dịch the Accepted Disciple .
4. Lời Đại khấn nguyện phần III, chúng tôi sử dụng bản dịch trên website của lucistrust.org .

4. Ngoài ra, chúng tôi giữ lại toàn bộ bản dịch của dịch giả.
Chỉ lưu ý bạn đọc là dịch giả dịch các từ glamour và illusion thành ảo giác và ảo
tưởng. Glamour và Illusion là chủ đề rất tinh tế của cả một quyển sách Glamours
– A World Problem.
Do đó bạn đọc nên tham khảo quyển sách Glamours – A
World Problem
để hiểu thêm những gì Chân sư D.K nói về ảo ảnh và ảo giác ở
đây. Cũng lưu ý là Nguyễn Hữu Kiệt không dịch hết toàn bộ quyển Discipleship in
the New Age, Vol I. Ông bỏ bớt nhiều thư từ Chân sư gởi cho các đệ tử.

www.minhtrietmoi.org

ALICE ANN BAILEY nhũ danh là ALICE Latrobe Boteman, sinh ngày 16-6-1880 tại Manchester Anh Quốc, con một kỹ nghệ gia, gia chủ một trong những nhà máy sản xuất to lớn nhất tại Anh, thuộc dòng quí phái có tước vị của triều đình Anh .
Bà sinh trưởng trong một mái ấm gia đình Thiên-chúa giáo với những ý niệm chính thống, cổ hủ, hẹp hòi .

Gặp
gỡ Chân Sư
– Một biến chuyển quan trọng xảy đến trong
đời bà vào ngày 30-6-1895 khi bà mới 15 tuổi. Đó là việc tiếp xúc với Chân Sư
K.H., một kinh nghiệm độc đáo mà bà không bao giờ quên.

Bà đang bị do dự, vướng mắc về những xích míc của tôn giáo, một đàng là sự cao quý của nghi thức lễ bái trong giáo đường, một đàng là những tín điều chật hẹp gò bó của Gia Tô giáo. Theo ý niệm thời ấy, trần gian chia làm hai thành phần : Những người nào tin rằng Chúa Jesus chịu pháp nạn trên Thành giá đã lấy máu mình để cứu chuộc tội lỗi của trần gian và những người chịu phép phép rửa tội vào đạo sẽ lên Thiên đàng, còn những người ngoại đạo không tin yêu sẽ phải xuống hỏa ngục đời đời, kiếp kiếp .
Một đàng là người Gia Tô giáo nỗ lực cứu rỗi linh hồn của kẻ khác và một đàng là những người ngoại đạo tôn thờ hình tượng bằng gỗ đá. Họ không hề nhận thấy rằng Đức Phật cũng được tôn thờ bằng hình tượng, và những tượng Phật cũng chẳng khác gì những hình tượng Chúa Jesus trong những nhà thời thánh. Bà sợ hãi, vướng mắc vô cùng, chẳng khác nào đi trong đám mây mù, không biết đâu là ánh sáng .
Trong cơn khủng hoảng cục bộ tâm linh đó, một trong những chân Sư minh triết đã Open trước bà. Đây là lời bà thuật lại trong quyển “ Tự thuật ” ( An unfinished Autobiography ) :
“ Một buổi sáng chúa nhật, cả nhà đều đi lễ nhà thời thánh, chỉ có một mình tôi ở nhà. Tôi đang ngồi đọc sách trong phòng khách, thình lình cánh cửa mở và một người lạ mặt bước vào. Đó là một người Đông Phương, tầm vóc to lớn, mặc bộ Âu phục cắt rất khéo, đúng thời trang và có bịt khăn trên đầu. Người ấy ngồi xuống bên cạnh tôi. Tôi vô cùng kinh ngạc vì không biết người là ai và đâm ra sợ sệt đến nổi tôi không thốt lên được một lời nào, hoặc hỏi người đến có việc gì. Kế đó, người ấy khởi đầu trò chuyện. Người ấy nói với tôi rằng : Có một việc làm do Thiên cơ dự tính mà tôi hoàn toàn có thể làm cho trần gian, nhưng tôi cần đổi khác tâm tình đặc thù của tôi rất nhiều trước khi bắt tay vào việc. Tôi phải tập lấy đức tự chủ đến một mức độ nào đó để hoàn toàn có thể trở nên hữu dụng cho Ngài và cho quốc tế trong tương lai. Nếu được như vậy, tôi sẽ được phó thác một sứ mạng với sự đáng tin cậy của Ngài và sẽ đi du lịch khắp nơi trên quốc tế để làm việc làm của Ngài …
Kể từ đó về sau, những lời này luôn luôn văng vẳng bên tai tôi. Ngài nhấn mạnh vấn đề rằng yếu tố này tùy nơi tôi được tự do quyết định hành động và nói thêm rằng Ngài sẽ tiếp xúc với tôi từng kỳ hạn cách khoảng chừng độ vài năm một lần …
Cuộc gặp gỡ đó rất ngắn. Tôi không biết nói gì mà chỉ ngồi nghe Ngài với một giọng rất cả quyết và dõng dạc, khi đã nói xong những điều thiết yếu, Ngài đứng dậy bước ra, đi tới ngưỡng cửa còn quay đầu lại nhìn tôi trong một phút với một cái nhìn linh động mà đến giờ đây tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng .
Lúc ấy, bà còn hoang mang lo lắng và không hiểu gì cả, với thời hạn qua, bà nhận thấy rằng, cứ cách khoảng chừng 7 năm một lần, bà lại có chứng nghiệm về sự săn sóc và che chở của Ngài. Năm 1915 khi được 35 tuổi, bà mới mày mò ra Ngài là ai và thấy rằng có nhiều người khác cũng được biết Ngài. Kể từ đó về sau, sự liên hệ của bà với Chân Sư trở nên ngày càng mật thiết hơn và sau cuối hoàn toàn có thể tiếp xúc với Ngài bất kể khi nào tùy ý .
Sự tiếp xúc này là một ân huệ đặc biệt quan trọng mà Chân Sư chỉ ban cho người đệ tử khi người này đừng lạm dụng thời cơ để quấy rầy Ngài vì những việc lặt vặt và có tính cách ích kỷ cá thể, trừ phi trong những trường hợp khẩn thiết để phụng sự trái đất. Bà được biết Ngài là Chân Sư K.H. một vị Chân Sư hợp tác rất ngặt nghèo và thân cận với Đức Chưởng Giáo, thuộc về cung Minh Triết và Bác Ái, chăm sóc về việc giáo hóa, dạy dỗ trái đất trên địa hạt Tôn giáo và Giáo dục đào tạo .
Bà đã mở màn phụng sự Ngài từ lúc bà 15 tuổi và về sau bà trở nên một đệ tử hạng sang trong nhóm đệ tử của Ngài .
Trên trần gian này có rất nhiều đệ tử huyền môn, thời nay đã đến lúc mà những vị đệ tử không cần phải che dấu vị thế của mình như trước nữa, mà phải xuất đầu xuất hiện thêm để chứng tỏ sự hiện hữu của những Chân Sư cùng việc làm của những Ngài để giúp sức sự tiến hóa của trái đất. Đó là một sự chứng tỏ chánh đáng bằng đời sống gương mẫu của những vị đệ tử huyền môn .
GIAI ĐOẠN TRƯỞNG THÀNH – Năm 22 tuổi, nhờ có sự giảng dạy khá đầy đủ về giáo lý Gia tô ở nhà trường từ nhỏ, bà ra thao tác xã hội trong Thương Hội Phụ nữ Công giáo Anh Quốc ( YVVCA ). Bà làm việc làm thuyết giảng giáo lý, nỗ lực cứu rỗi những linh hồn lạc lõng và đem họ vào Tôn Giáo. Tuy nhiên bà vẫn cảm thấy một sự xung đột trong nội tâm vì những tín điều gò bó chật hẹp của Tôn Giáo, điều này không làm cho bà được thỏa mãn nhu cầu lý trí và tâm linh. Bà vẫn luôn luôn đặt những câu hỏi về địa hạt thần bí, siêu hình mà chưa ai hoàn toàn có thể giải đáp thỏa đáng .
Giai đoạn kế đó, bà nhận lãnh chức vụ Nữ trợ tá Xã hội và Tuyên Úy trong quân đội. Ở Anh Quốc, Cơ quan Tuyên Úy do tư nhân đảm trách, dưới sự bảo trợ của Chánh Phủ. Đó là một Cơ quan cư xá của binh sĩ do một nhà từ thiện là bà Elise Sandes sáng lập, dùng toàn nữ nhân viên cấp dưới trợ giúp .
Bà Sandes đã dành trọn cuộc sống vào công tác làm việc xã hội này để cải tổ đời sống binh sĩ. Bà quản trị những cư xá này theo đường lối khác hẳn với những cơ quan Tuyên úy trong quân đội. Cơ quan Tuyên úy của bà có nhiều Trụ sở ở IRLANDE và ở Ấn Độ .
Trước hết, bà Alice Latrobe Boteman thao tác tại cư xá Belfast. Công việc của một nữ Tuyên úy là tiếp xúc với những binh sĩ lưu trú tại cư xá. Trong những giờ nghỉ ngơi, tiêu khiển sau bữa cơm chiều, những binh sĩ thường tụ họp ở những phòng công cộng để viết thư về nhà, đọc báo chí truyền thông sách vở, hoặc đánh cờ và chơi những trò vui chơi. Các nữ Tuyên úy có trách nhiệm hỏi han săn sóc họ nếu họ cảm thấy đơn độc, chán nản hoặc nhớ nhà. Thường thì có hai nữ Tuyên úy giúp việc trong mỗi cư xá và những cô đều có nơi trú ngụ riêng không liên quan gì đến nhau. Trong cư xá có một phòng giảng kinh Phúc âm, có dương cầm, Thánh kinh, những nữ Tuyên úy thay phiên nhau giảng Thánh kinh Phúc âm để cứu rỗi linh hồn những binh sĩ .
Ngoài việc giảng kinh những cô còn có một phận sự làm quen với những binh sĩ, trò chuyện, đánh cờ với họ, hoặc viết thư cho những binh sĩ với một thái độ cởi mở, vô tư so với mọi người, và đồng thời gây cho họ cái cảm xúc là mình săn sóc, lưu tâm và muốn giúp sức họ để nâng đỡ niềm tin binh sĩ cho khỏi đơn độc, lạc lõng khi sống xa mái ấm gia đình .
Một ngày nọ, bà Elise Sandes, Giám đốc Cơ quan Tuyên úy nhận được một bức thư cho hay vị Trưởng Trụ sở cơ quan Tuyên úy ở Ấn Độ là bà Theodora bị đau yếu cần phải về xứ để dưỡng bệnh. Bà đang lo âu vì không tìm được người thay thế sửa chữa. Rốt cuộc, bà Giám đốc mới nói với Alice : “ Lúc này cơ quan đang thiếu vắng phương tiện đi lại kinh tế tài chính, chớ nếu đủ tiền tôi sẽ gởi em sang Ấn Độ ”. Hồi đó tiền tàu sang Ấn Độ rất mắc, vã lại bà Giám đốc còn phải trả tiền tàu cho bà Theodora về xứ .
Với phản ứng tự nhiên, bà Alice nói : “ Nếu Thượng Đế muốn cho em qua đó thì Ngài sẽ gởi tiền ” .
Vài ngày sau trong giờ ăn điểm tâm, bà Giám đốc mở một bức thư mới nhận được, bà thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc và đưa cho bà Alice xem. Trong thư chỉ có một ngân phiếu 500 Anh kim với dòng chữ : “ ĐỂ LÀM VIỆC BÊN ẤN ĐỘ ”, ngoài những không có thư từ gì cả, cũng không có đề tên người gởi ở ngoài bao thư. Cả hai bà đều không biết số tiền đó do đâu gửi đến và phải gật đầu nó như một ân huệ trực tiếp của Thượng Đế. Bà Alice tự hỏi, phải chăng đó là tiền của Chân Sư gửi cho bà. Vì bà cần phải sang Ấn Độ để thâu thập không ít kinh nghiệm tay nghề và kiến thiết xây dựng nền tảng cho việc làm mà Chân Sư đã nói với bà trước đó nhiều năm rằng bà hoàn toàn có thể làm cho Thiên Cơ và cho Ngài. Tuy nghĩ như vậy, nhưng về sau bà cũng không hề hỏi Chân Sư về việc đó nữa, vì bà cho rằng đó không phải là điều quan trọng .
Sau 4 năm làm nữ Tuyên úy Công giáo tại Ấn Độ, vì khí hậu oi bức, vì việc làm bộn bề, và nghĩa vụ và trách nhiệm quá nặng nề, sức khỏe thể chất bà suy kém, bà đau nặng phải vào nằm bệnh viện. Ngoài ra bà còn bị sự stress thần kinh và xúc động tâm ý dày vò. Đây là lời bà thuật lại : “ Một đêm nọ tại LUCKINOW khí trời nóng nực, tôi không sao ngủ được. Tôi đi tới lui trong phòng, nhưng không thấy mát hơn, lại còn bị đàn muỗi quấy rầy. Tôi trở vào phòng và đứng trước tủ kiếng một phút. Thình lình trong phòng có hào quang sáng rực và tôi nghe giọng nói của vị Chân Sư đã đến với tôi hồi tôi 15 tuổi. Lần này tôi không nhìn thấy Ngài, tôi chỉ đứng ngay giữa phòng và nghe giọng nói của Ngài. Ngài trấn an niềm tin tôi và khuyên tôi đừng quá lo âu vướng mắc. Ngài nói rằng tôi đang được đặt dưới sự săn sóc che chở của Ngài và tôi đang làm những gì Ngài muốn. Ngài nói với tôi rằng mọi việc đang được trù liệu và việc làm mà Ngài định phó thác cho tôi trước đây cũng sắp khởi đầu nhưng theo một đường lối mà tôi sẽ không nhận ra. Ngài dặn tôi hãy chuẩn bị sẵn sàng để thi hành sứ mạng … ”
GIAI ĐOẠN THÀNH HÔN : 27 đến 35 tuổi
Vì thao tác quá sức, bà bị thần kinh suy nhược phải về xứ dưỡng bệnh. Kế đó là tiến trình thành hôn khi bà 27 tuổi. Chồng bà là ông Walter Evan, một vị mục sư Tin Lành, nhưng cuộc hôn nhân gia đình này bị thất bại một cách bi đát sau khi bà sanh được ba đứa con gái. Chồng bà lúc đầu vẫn thông thường nhưng về sau đâm ra nóng nảy, vũ phu, cộc cằn. Gia đình đã xảy ra nhiều cơn sóng gió với những sự sự không tương đồng xung đột quan điểm. Trong một cơn nóng giận, chồng bà xô bà té xuống thang lầu khi bà đang có thai đứa con gái út, làm động đến cái thai. Bà sinh non tháng, đứa bé rất èo uột khó nuôi, tưởng là non yểu, nhưng nhờ trời, rốt cuộc nó vẫn sống và mạnh khỏe lần lần .
Kết quả là cuộc ly di xảy ra vào năm 1918 sau thế chiến thứ I chấm hết. Nhưng trên thực tiễn, bà đã sống ly thân từ năm 1915 khi bà được 35 tuổi .
GIAI ĐOẠN NGHÈO TÚNG PHẢI ĐI LÀM CÔNG NHÂN LAO ĐỘNG
Sau khi ly thân với chồng, bà phải sống tự cung tự túc và tìm việc làm để nuôi con. Bà xin được việc làm tại một xưởng làm cá hộp. Bà chịu trả nửa tháng lương của bà cho một người láng giềng để nhờ họ săn sóc và chăm nom giùm ba đứa con gái còn ấu thơ trong những giờ bà đi tìm việc. Mỗi ngày bà vô hộp trung bình 10.000 con cá mòi, tính ra đến hàng trăm hộp cá mỗi ngày .
Một người phụ nữ ở giai cấp sang chảnh mà thời nay phải làm một việc lao động chân tay, dầu mỡ lấm lem như vậy, kể như cuộc sống bà đã xuống dốc. Khách đến viếng xưởng cá hộp của bà đã thốt ra lời bình phẩm :
– Một người đàn bà như vậy sao lại lọt vào đây .
– Bà ta có vẻ như quá cao sang để làm việc làm này, nhưng không biết cao sang thật không ?
– Cái ngữ này chắc là có làm chuyện gì không hay ở ngoài đời, sống hết nổi với thiên hạ rồi mới lọt vào đây chớ gì .
– Đừng thấy hình dáng vẻ bên ngoài mà lầm. Coi chừng mắc phải quả trứng thối .
Những lời bình phẩm có tính cách thóa mạ đó làm cho bà run lên vì tức giận. Nhưng một người cai xưởng đứng gần bên nghe rõ đầu đuôi, khi thấy đã đi xa, bước tới gần để an ủi bà :
– Bà đừng buồn hởi bà Evans, ở đây chúng tôi đều gọi bà là một viên ngọc quý rớt xuống vũng bùn .
Lời nói đầy thiện cảm này đã bù lại rất nhiều sự thóa mạ của những người kia. Nó tỏ cho bà thấy rằng tựu trung bản tánh quả đât vẫn tốt đẹp như bà vẫn thường tin cậy với một niềm tin vững chãi tuyệt đối .
TIẾP XÚC VỚI GIÁO LÝ HUYỀN MÔN
Ở gần nhà có hai phụ nữ người Anh, cùng ở giai cấp sang chảnh như bà. Hai bà này có tổ chức triển khai tại nhà họ một cuộc hội họp phòng khách hằng tuần để nghe giảng về một môn học huyền bí gọi là Giáo lý Huyền Môn. Do sự ra mắt của một người bạn, bà có dịp tiếp xúc với giới này và khởi đầu học hỏi Giáo lý Huyền Môn từ đó. Hai bà bạn mới sẵn lòng hướng dẫn cho bà những giáo lý cơ bản và cho bà mượn sách, vở, tài liệu đem về nhà .
Chuỗi ngày của bà từ đó trở nên rất bận rộn và rất dài : 4 giờ sáng thức dậy, quét nhà, dọn bữa ăn sáng cho ba đứa con vào lúc 6 giờ. Lúc 6 g30 giao con cho người láng giềng coi sóc, rồi đi làm tại xưởng cá hộp. Ăn trưa và nghỉ trưa tại xưởng hết 1 giờ. Xong lại thao tác đến 4 giờ chiều mới về nhà. Những buổi chiều mùa đông mưa gió, tuyết lạnh, bà ở nhà chơi với con. Mùa hè oi bức, bà đưa chúng ra bờ bể. Đến 7 giờ mới về nhà, ăn cơm tối xong cho chúng đi ngủ. Bà giặt giũ quần áo, lên giường chong đèn ngồi đọc sách đến nửa đêm mới ngủ .
Do thực chất tự nhiên, bà chỉ cần ngủ rất ít, bác sĩ nói mỗi đêm, bà chỉ ngủ có 4 giờ và bà cảm thấy rất đúng. Nhịp độ hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của bà vẫn tiếp nối y hệt như trên, nhờ đó bà hoàn toàn có thể thao tác rất nhiều .
Giai đoạn kế đó, bà gia nhập Hội Thông Thiên Học và hoạt động giải trí giúp Hội rất đắc lực trong những việc làm quản trị và truyền bá giáo lý. Bà cũng làm những công tác làm việc tinh chỉnh và điều khiển những buổi học Giáo lý Huyền Môn và thuyết pháp trên forum công cộng v.v …
GẶP GỠ ÔNG FOSTER BAILEY VÀ TIẾP XÚC VỚI CHÂN SƯ TÂY TẠNG ( DJW AL KUL )
Năm 1919, bà gặp ông Foster Bailey tại Krotona, trụ sở hội T.T.H tại California .
Ông Bailey hành nghề luật sư có nhiều thân chủ và sự nghiệp rất phát đạt. Trong trận thế chiến 1914 – 1918, ông tòng chinh ở mặt trận Tây Âu với chức vụ đào tạo và giảng dạy phi công trinh thám. Lúc cuộc chiến tranh sắp kết liễu, ông bị tai nạn đáng tiếc phi cơ, bị thương nặng và giải ngũ. Sau một thời hạn dưỡng bệnh và hồi sinh sức khỏe thể chất, ông định liên tục ở lại hành nghề luật sư. Nhưng từ khi gặp bà và nhận thức sứ mạng cao quý của bà so với Thiên Cơ, ông liền từ bỏ mọi việc để cùng bà hợp tác trong việc làm phụng sự. Kế đó, ông bà đính hôn với nhau một thời hạn trước khi làm hôn lễ chính thức. Cuộc hôn nhân gia đình này rất tương đắc, lê dài đến 26 năm cho đến khi bà mất .
Tháng 11-1919, bà tiếp xúc lần tiên phong với Đức DJWAL KUL trong một dịp khá ly kỳ. Bà tường thuật cuộc tiếp xúc đó như sau :
Sáng hôm đó bà đưa con đi học, xong xuôi có vài phút rảnh rang bà mới đi lên ngọn đồi ở cạnh nhà để suy tư trong giây lát. Thình lình và giựt mình và nghe có vẻ như có một âm thanh kỳ diệu như tiếng nhạc vang lên trong khoảng trống, xuyên qua ngọn đồi và xuyên qua người bà. Kế đó bà nghe từ trên không một giọng nói với bà rằng : Có vài quyển sách mà chúng tôi thấy cần được viết ra cho người trần gian. Bà hoàn toàn có thể làm được việc này. Bà có chịu nhận làm việc làm đó không ?
Bà không chút chần chừ, nói ngay : “ Chắc là không. Tôi không phải là đồng cốt và tôi không muốn dính líu gì với việc đó. ”
Bà cũng giựt mình mà thấy mình tự nhiên nói lớn tiếng. Giọng nói kia tiếp theo rằng người khôn ngoan không khi nào xét đoán hấp tấp vội vàng, rằng do thực chất tự nhiên, bà có năng lực lạ lùng về môn thần giao cách cảm thuộc loại siêu đẳng, việc làm mà bà được phó thác không có chút gì thuộc về chuyện đồng cốt, quàng xiên. Bà vấn đáp rằng bà không cần, vì bà không thích thao tác gì có tính cách Thần Linh. Người khuất mặt khi đó mới nói rằng bà cần có thời giờ tâm lý trước khi quyết định hành động, và người không gật đầu sự vấn đáp của bà hôm đó. Người sẽ gặp lại bà sau ba tuần lễ và kỳ vọng bà sẽ đổi ý .
Bà trở về nhà và trọn vẹn quên hẳn việc đó, cũng không nói cho ông Bailey nghe câu truyện xảy ra. Sau 3 tuần lễ, giọng nói ấy lại trở lại khi bà đang ngồi nơi phòng khách vào lúc chiều tối sau khi mấy đứa con bà đã đi ngủ. Giọng nói ấy nhắc lại việc hôm trước. Lần này bà có ý tò mò tuy rằng không bị thuyết phục. Bà định thao tác ấy trong vài tuần hay một tháng thử xem, rồi mới quyết định hành động. Chính trong vài tuần này mà bà viết những Chương đầu của quyển “ ĐIỂM ĐẠO HUYỀN MÔN ” ( Initiation, Human-Solar ) qua sự tiếp xúc với Chân Sư bằng Thần giao cách cảm .
Sau khi viết sách gần một tháng cho Chân Sư Tây Tạng, bà đâm hoảng sợ và ngưng mọi việc làm. Bà thưa với Chân Sư ( bằng Thần giao cách cảm ) rằng : bà còn phải nuôi ba đứa con gái, nếu vì làm việc làm này bà bị đau yếu hay phát điên ( như nhiều người đồng cốt đã bị ) thì con bà không ai nuôi dưỡng, nên bà không dám mạo hiểm liên tục việc làm. Chân Sư D.K. đồng ý quyết định hành động này nhưng nhu yếu bà hãy tiếp xúc với Sư Phụ bà là Chân Sư K.H. và trình diễn mọi việc với Ngà. Sau khi tâm lý cẩn trọng độ một tuần lễ, bà mới quyết định hành động tiếp xúc với Chân Sư K.H. bằng một chiêu thức riêng mà Ngài đã dạy bà trước đây. Trong cuộc tiếp xúc đó, Ngài dạy rằng việc làm bà đang làm không có gì nguy khốn về sức khỏe thể chất hay niềm tin, và đó là một thời cơ phụng sự rất quý báu. Ngài cũng cho biết rằng chính Ngài cũng ý kiến đề nghị với Chân Sư D.K hãy đến tìm bà để nhờ bà trợ giúp trong việc làm này. Khi đó bà mới tuân lệnh Sư Phụ và quay trở lại liên tục việc làm viết sách cho Chân Sư D.K.
Việc viết sách này được thực thi bằng hai giải pháp. Trong quy trình tiến độ đầu bà ngồi viết vào những giờ nhất định và nghe giọng nói của Chân Sư đọc cho bà viết từng chữ, từng câu rõ ràng như viết ám tả. Phương pháp đó hoàn toàn có thể coi như giải pháp dùng thần nhĩ ( clair-audience ) do âm thanh vang dội trong lỗ tai .
Về sau khi đã có sự hòa hợp tâm linh giữa Chân Sư với bà, thì chiêu thức trên không thiết yếu nữa. Bà chỉ cần tập trung chuyên sâu tư tưởng và bắt được dòng tư tưởng của Chân Sư do Ngài gieo vào tâm lý bà bằng đường lối thần giao cách cảm ( Telepathy ) .
Nội dung những quyển sách này gồm tổng thể phần giáo lý đều là lời dạy của Đức D.K. Còn bà Alice chỉ là người ghi chép lại và sửa đổi vài chỗ về phần hình thức, về văn phạm và bút pháp cho hợp với những trình diễn mới mẽ tân tiến thôi. Còn về phần ý nghĩa, nội dung thì bà trọn vẹn không hề thêm bớt hay sửa đổi một chữ nào dầu rằng có nhiều đoạn bà không chấp thuận đồng ý, hoặc không hiểu rõ. Như thế, tuy bà thay mặt đứng tên là tác giả quyển sách này, nhưng thật ra thì tác giả chính là Đức DJWAL KUL. Kể từ đó về sau, suốt 27 năm bà liên tục làm việc làm này và viết thêm nhiều quyển khác nữa như : “ ĐƯỜNG ĐẠO TRONG KỶ NGUYÊN MỚI ”, “ LUẬN VỀ LỬA TIÊN THIÊN ” ( Treatise on Cosmic Fire ) …
Những sách mà Đức D.K. đọc cho bà viết gồm những chân lý mới mà trái đất cần biết trong thời đại tân tiến thời nay. Những giáo lý mới, cùng với đường lối công phu Tu luyện và sẵn sàng chuẩn bị cho thí sinh trở thành đệ tử cũng được trình diễn cho quả đât trong kỷ nguyên mới .
GIAI ĐOẠN THÀNH LẬP TRƯỜNG NỘI MÔN BÍ GIÁO ( Arcane School )
Trong những ngày tiên phong không ai ngờ rằng việc làm thông dụng và truyền bá đạo lý mà hai ông bà Bailey theo đuổi với niềm tin hiến dâng toàn vẹn cuộc sống, sẽ hoàn toàn có thể bánh trướng đến mức đại qui mô, với nhiều Trụ sở trên quốc tế được thừa nhận và tác động ảnh hưởng sâu xa đến cuộc sống của nhiều trăm ngàn người. Công việc bắt đầu chỉ có 2 ông bà Bailey với bạn hữu đứng ra tổ chức triển khai. Tài chánh không có và tương lai rất mịt mờ. Hai ông bà chỉ có lúc khai công. Lúc đó nhằm mục đích cuối tháng, tiền nhà chưa trả, tiền đèn nước còn thiếu, hóa đơn thực phẩm chưa trả tiền từ tháng trước. Trong lúc quẩn bách, thiếu thốn mọi phương tiện đi lại, một đêm nọ bà cầu nguyện ơn trên trợ giúp. Sáng hôm sau, khi bước ra cửa, bà thấy trên ngưỡng cửa có 1 gói bạc đựng đủ số tiền mà bà đang cần dùng, và vài ngày sau ông Foster Bailey nhận được một bức thư của ông Ernest Suffern mời ông nhận chức Thư ký Chi bộ TTH tại NEW YORK với số lương 300 USD một tháng, có nhà ở .
Do đó, hai ông bà dọn nhà về ở thành phố này và mở màn việc làm đưa đến việc xây dựng TRƯỜNG NỘI MÔN BÍ GIÁO. Trong khi đó bà vẫn liên tục viết những bộ sách HUYỀN MÔN dưới sự chỉ huy của Đức D.K. và đã xuất bản được ba quyển .
Do hiệu quả việc xuất bản những bộ sách này mà công chúng gửi thư về tới tấp về học hỏi đạo mầu. Nhu cầu mở những lớp học bộ sách Giáo lý Bí truyền của bà Blavataky cùng những lời lôi kéo trợ giúp về đời sống tâm linh của công chúng yên cầu một sự xử lý thỏa đáng. Chính vì lý do đó mà vào tháng tư 1923, bà tổ chức triển khai việc xây dựng trường NỘI MÔN BÍ GIÁO, dạy đạo cho công chúng bằng cách hàm thụ .
Bà chỉ khởi đầu với sự thiện chí, mong ước mãnh liệt được giúp sức, phụng sự người khác và một vốn liếng ý thức là 3 quyển sách Đạo vừa mới xuất bản. Vậy mà kể từ đó về sau đã có trên 30.000 người nhập học. Công việc của trường NỘI MÔN BÍ GIÁO được tăng trưởng trên quy mô quốc tế và được hầu hết những nước trên quốc tế công nhận. Trong việc làm vĩ đại này, bà được sự trợ giúp và hợp tác vô cùng quý báu của chồng bà, ông Foster Bailey, mà bà nói rằng, nếu không có ông, bà không thành công xuất sắc được .
Thật không phải là một việc thuận tiện mà tinh chỉnh và điều khiển một cơ quan Nội Giáo Bí Truyền với bao nhiêu hoạt động và sinh hoạt phức tạp và nghĩa vụ và trách nhiệm nặng nề. Bà nói, nếu không nhờ có sự trợ giúp và óc khôn ngoan sáng suốt của ông Bailey, thì hoàn toàn có thể rằng bà đã vấp bao nhiêu lỗi lầm về mặt quản trị, tổ chức triển khai nội bộ cơ quan, cùng những sự xét đoán sai lầm đáng tiếc về mặt nhan sự, giao tế và đối ngoài và hoàn toàn có thể bà đã bị kẹt nặng nhiều về phương diện pháp lý. Nhờ sự thông suốt về lao lý, sự hành vi sáng suốt vô tư và thái độ bình tĩnh điềm đạm của ông Bailey, không khi nào rối loạn trước nghịch cảnh hay biến cố không bình thường, nên bà luôn luôn được tháo gỡ và xử lý mọi việc được trôi chảy êm đẹp .
Về mặt truyền bá đạo lý, nghĩa vụ và trách nhiệm của bà thật nặng nề, không phải chuyện thuận tiện mà hướng dẫn những học viên về công phu thiền định. Đó là một con đường nguy khốn, chật hẹp và bén nhọn như lưỡi dao cạo, nếu hành giả tu luyện sái phép và đi lầm đường .
Ngoài ra còn phải đảm đương nghĩa vụ và trách nhiệm về sự hoạt động và sinh hoạt tâm linh của học viên, khi họ tình nguyện phó thác đời sống niềm tin của họ trong tay bà để được bà hướng dẫn, giảng dạy và bà phải phân phối thỏa đáng mọi nhu yếu tâm linh đó cho đúng với trách nhiệm của một nhà chỉ huy niềm tin .
Trong việc làm vĩ đại đó, bà được sự trợ giúp quý báu của những nhân viên cấp dưới cộng tác tại trụ sở chánh Cơ quan và của những cộng tác viên ở hải ngoại .
Năm 1947, ngoài trụ sở chánh ở Thành Phố New York với một số ít đông nhân viên cấp dưới thường trực, còn có một số ít Trụ sở cơ quan ở Anh, Hòa Lan, Ý và Thụy Sĩ với một nhóm gồm 140 thư ký và học viên hạng sang để hướng dẫn những học viên mới. Những vị thư ký này rải rác khắp nơi trên quốc tế, và nhờ có ý thức phụng sự vị tha vô kỷ, thao tác không lương trong nhiều năm liên tục mà việc làm mới liên tục trôi chảy đến ngày này .
Ngày nay, Cơ quan đã bành trướng thoáng đãng thêm với một Trụ sở ở Nam Mỹ, Thổ Nhỉ Kỳ và Tây Phi và với những học viên rải rác ở nhiều nơi trên quốc tế .
Trường Nội Môn Bí Giáo ( Arcane School ) vẫn liên tục tăng trưởng không ngừng và trong tâm linh bà nhận thức được rằng, bà đang làm sứ mạng mà Chân Sư K.H. đã nói với bà năm 1895 khi bà mới 15 tuổi .
Chương trình học của trường mỗi lúc càng lan rộng ra thêm lần lần. Bà vẫn giữ cho việc làm được linh động, uyển chuyển để cung ứng với những nhu yếu của thời đại mới, của trào lưu tiến hóa .
Trường Nội Môn Bí Giáo nay đã có Cơ sở rất vững vàng gồm thêm 1 Công ty ấn loát để phổ cập những bộ sách mới về giáo lý Huyền Môn. Bắt đầu với một nhóm nhỏ vài ba người học viên thân tín, nay cơ quan của bà Alice Bailey sáng lập đã tăng trưởng mạnh và còn dự tính một kế hoạch về sinh hoạt tinh thần để phụng sự quả đât trong tương lai .
( Soạn theo tài liệu “ AN UNFINISHED AUTOBIOGRAPHY ” của ALICE A. BAILEY )
Quyển sách này xét trên nhiều phương diện là một pho tài liệu độc lạ. Theo tôi biết xưa này chưa từng có một tài liệu nào như vậy đã được thông dụng .
Sách này gồm những lời huấn giáo do một trong những Chân Sư Minh Triết giảng dạy cho vài vị đệ tử nội môn và những huấn thị dạy riêng cho từng người trong một nhóm đệ tử khác. Nhiều vị đệ tử trong nhóm này trọn vẹn lạ lẫm so với tôi khi tôi được quan tâm đến họ. Về sau tôi có được gặp vài người, cũng có những người khác mà tôi không hề gặp khi nào. Tôi được biết rõ vài người và hoàn toàn có thể hiểu vì sao họ được chọn, nguyên do là bởi họ đã tự nguyện hiến dâng cho đời sống ý thức và tình thương nhân loại. Có một hay hai người mà lúc đầu tôi cho rằng không xứng danh được chọn nhưng về sau tôi đã đổi ý và nhìn nhận rằng sự lựa chọn đó được quyết định hành động bởi một trí thông tuệ, sáng suốt hơn tôi nhiều .
Tôi cũng được biết rằng nghiệp duyên ( relationships ) được tạo ra từ nhiều tiền kiếp cũng là những yếu tố quyết định hành động, và bởi đó mà một vài đệ tử đã có thẩm quyền được chọn, dẫu rằng trình độ tâm linh của họ có vẻ như chưa đúng mức dưới tầm mắt nhận xét của kẻ bàng quan .
Nhiều giáo lý được đưa ra trong sách này rất mới lạ về hình thức và vài giáo lý cũng mới trên thực tiễn .
Có một điểm điển hình nổi bật rõ ràng là những quy luật cổ xưa về nếp hoạt động và sinh hoạt của người đệ tử trải qua nhiều thế kỷ trước đây, nay vẫn còn vận dụng nhưng hoàn toàn có thể được diễn đạt một cách mới mẽ và thường là khác hẳn. Sự hành đạo công phu ( training ) được truyền dạy cho những đệ tử trong kỷ nguyên mới sắp tới đây sẽ tương thích với trình độ tiến hóa cao hơn của họ. Diễn trình tiến hóa từ thế kỷ này sang thế kỷ khác đã tạo cho con người một trí óc trưởng thành và tăng trưởng liên tục mà Chân Sư hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng một cách hữu hiệu .
Bởi đó tiêu chuẩn để lựa chọn đệ tử cũng theo cái đà đó mà tăng lên cao hơn. Điều này tự nó yên cầu một ý niệm mới, một sự trình diễn chân lý trên một nền tảng thoáng rộng hơn, và được cho phép người đệ tử có một sự tự do hành vi lớn lao hơn .
Yếu tố thời hạn cũng khác hẳn. Thời cổ xưa, Chân Sư đưa ra một ẩn ý hay một điểm Chân lý nào đó để suy ngẫm, thiền định, hoặc Ngài hoàn toàn có thể chỉ cho y thấy cần biến hóa những tư tưởng cố hữu của y .
Kế đó người đệ tử lui về và trải qua nhiều năm hoặc suốt cả một cuộc sống để suy tư quán tưởng ( thought ) và tập sửa thái độ tâm linh của mình mà không càm thấy có sự thúc bách của thời hạn .
Ngày nay vì thời giờ cấp bách và nhu yếu trợ giúp cho trái đất rất khẩn trương nên lời nói úp mở kín kẽ khi xưa nay đã nhường chỗ cho sự lý giải rõ ràng, và người đệ tử được truyền thụ những chân lý từ trước vẫn giữ kín chưa được bật mý. Người đệ tử được coi như đã đạt tới một quy trình tiến độ tăng trưởng tâm linh mà y hoàn toàn có thể tự quyết định hành động lấy mọi sự và tân tiến mau chóng nếu y muốn .
Có những nguyên do nhất định khiến cho tôi muốn phổ cập những huấn từ này cho những người tầm đạo ( aspirant ) ở khắp mọi nơi, sau khi đã có sự chấp thuận đồng ý của những vị đệ tử được ban những huấn từ ấy. Lý do thứ nhất là cần công bố cho đại chúng biết sự kiện rằng có một “ Cơ quan Thiên đình ” gồm những vị Thánh sư. Những vị này rất chú trọng đến sự tiến hóa của quả đât và có một kế hoạch nhất định để truyền đạo cho trần gian, khả dĩ giúp con người thoát kiếp sống làm người để bước vào cõi giới siêu linh ( kingdom of GOD ) .
Sự tân tiến trên đường đạo, thoát kiếp làm người để bước vào cõi Thần tiên ( fifth kingdom ) hoàn toàn có thể được triển khai một cách ý thức, một cách khoa học với sự trọn vẹn thỏa hiệp và hợp tác của người tầm đạo. Nay đã đến lúc mà sự tin yêu hoàn toàn có thể nhường chỗ cho sự hiểu biết, một sự hiểu biết đạt được trước hết bằng sự đồng ý một giả thuyết, với một sự quả quyết rằng giả thuyết này vốn địa thế căn cứ trên những vật chứng không thiếu và những kinh nghiệm tay nghề có dự trù. Chừng đó, trí suy luận của người đệ tử hoàn toàn có thể thâu nạp thành công xuất sắc và thất bại mà y gặp phải trong quá trình giảng dạy và học những bài học kinh nghiệm mới được chỉ định cho y. Y nhận thấy rằng sự tân tiến trên đường đạo đưa hành giả ( a nan ) đến việc tiếp xúc có ý thức và ngặt nghèo hơn với những ĐẤNG CAO CẢ đã từng đi trên con đường đường ấy trước đây, và con đường siêu phàm nhập thánh ( the way into the Hcerachy ) là một con đường kỷ luật, tuần tự giác ngộ, phụng sự trái đất và tăng gia sự ứng đáp bén nhạy so với sự vật và tha nhân mà người trung bình không hề biết .
Lý do thứ hai để công bố quyển sách này là cần đổi khác ý niệm của đại chúng về đặc thù những Chân Sư. Trong khi huấn luyện và đào tạo cho đệ tử sẵn sàng chuẩn bị cho họ được điểm đạo, những Ngài cũng ảnh hưởng tác động đến quần chúng xuyên qua những đệ tử này .
Người ta đã viết và nói nhiều chuyện vô lý, ngu xuẩn về sự liên hệ giữa Chân Sư và đệ tử đến nổi chúng tôi cảm thấy rằng cần đưa ra cho người đời thấy rõ những vật chứng về sự lành mạnh, tầm nhãn quang thoáng đãng, bao quát và minh khiết của một Chân Sư là như thế nào .
Điều đó chỉ có lợi và chúng tôi cũng nhận thấy rằng Ngài rất sẵn lòng để cho những lời huấn giáo của Ngài được công bố cho đại chúng .
Lý do thứ ba là cần làm sáng tỏ một điểm luôn luôn được những Chân Sư nhấn mạnh vấn đề, và có một tầm quan trọng rất lớn, so với mỗi đạo sinh ( aspirant ) chỉ có người nào khởi đầu chịu ảnh hưởng tác động và đặt mình dưới sự trấn áp của linh hồn, và bởi đó được kiểm soát và điều chỉnh về phần trí não, mới được truyền thụ đạo pháp ( training ) của Huyền Môn. Lòng sùng tín, xúc cảm và lòng ưu tiên vẫn chưa đủ. Việc học đạo cũng là một yếu tố vô tư, nó có tương quan đến sự tăng trưởng tâm thức và sự nới rộng tâm thức để bao dung chứ không vô hiệu, toàn bộ những hình thức hoạt động và sinh hoạt thấm nhuần sự sống và tình thương của Thượng Đế. Người đệ tử luôn luôn cởi mở, bao dung và không hề khép chặt cõi lòng mình. Chính sự cởi mở bao dung đó là tín hiệu của toàn bộ những nhà Chân chính. Nếu không có nó, hành giả vẫn chỉ là một đạo sinh, không phải là đệ tử chân chính .
Ngày nay có quá nhiều ý thức ngăn cách để chiếm một vị thế duy nhất trong những giới Huyền Linh và chi phái Bí Giáo Nội Môn. Chúng tôi nghĩ rằng những lời huấn giáo trong quyển sách này hoàn toàn có thể loại trừ cái khuynh hướng tệ hại đó và hoàn toàn có thể góp thêm phần để lan rộng ra Cửa đạo ( The door into the Kingdom of GOD ) .
Trong sách này có những điều mới lạ, nhiều giáo lý cổ, đã được thử thách và chứng tỏ. Trong số những người được chọn vào nhóm đệ tử của Chân Sư không ai là Thánh hay trọn vẹn. Tuy nhiên tổng thể đều là những đạo sinh chân chính và sẽ liên tục đi đến cùng, mặc bao nhiêu đau khổ buồn rầu, thành công xuất sắc hay thất bại, và mặc dầu họ nhìn nhận những mục tiêu hầu hết không đạt được. Vài vị đã từng đi trên con đường đệ tử chính thức ( path of accepted disciplleship ) trong nhiều kiếp. Vài vị mới mạo hiểm lần tiên phong một cách ý thức và tận lực để nỗ lực đi trên đường đạo ( the way to GOD ). Tất cả đều là những người thông thường sống một cuộc sống có ích, tân tiến ở nhiều nước trên quốc tế. Vài người vốn là Mục sư Tin Lành chính thống. Những người khác có đạo Gia Tô, có những người thuộc phái Bác học Công giáo hay một chi phái ý thức nào đó. Vài người lại trọn vẹn độc lập tư tưởng và không dính dáng đến một tổ chức triển khai tôn giáo nào. Không một người nào trong số đó coi tín ngưỡng hay tôn giáo đặc biệt quan trọng của mình là thiết yếu cho sự giải thoát. Họ biết rằng điều quan trọng nhất là tin cậy nơi sự thật tâm linh và đặc thù thiêng liêng cơ bản của con người .
Sự tin cậy đó đương nhiên tạo nên một tấm lòng đầy tình thương, mọt6 trí óc cởi mở và được soi sáng bởi sự đánh giá và nhận định ngay-chính hướng về chân lý, và một đời sống hiến dâng cho lý tưởng phụng sự để làm nhẹ bớt gánh nặng của trần gian. Đó là mục tiêu nhất định của toàn bộ những vị đệ tử mà lời huấn giáo được đưa ra trong quyển sách này, một mục tiêu mà họ chưa đạt được và một lối sống mà họ chưa kiện toàn. Tuy nhiên họ vẫn nhất quyết thăng quan tiến chức trên con đường của họ, đó là con đường ĐẠO .
Đấng CHRIST có nói : Ta là con đường, là Chân lý và sự sống. Những đạo sinh ấy hành đạo công phu dưới sự hướng dẫn của một Chân Sư, đệ tử của Đức Chưởng Giáo ( Christ ), mở màn nhận thức phần nào ý nghĩa bóng bẩy ẩn dụ của lời công bố trên, nó vẫn đúng trải qua thời hạn và so với tổng thể những vị đệ tử, do tại : “ Ngài như thế nào thì tất cả chúng ta cũng như thế ấy dưới trần gian ” .
Công việc hành đạo với nhóm đệ tử đặc biệt quan trọng ấy đã mở màn từ 12 năm nay. Những huấn từ được ban cho mỗi vị đệ tử theo một trật tự thời hạn liên tục từng năm một để cho thấy rõ điển hình nổi bật lên rõ ràng cái hình ảnh thật của mỗi đương sự, với những khó khăn vất vả chướng ngại cùng những thành quả đạt được hay những thất bại của y. Quyển sách này có tính cách khuyến khích, vì nó đính chánh cái ý niệm cho rằng muốn trở nên một vị đệ tử chánh thức hành giả phải có hạnh kiểm trọn vẹn đến mức siêu quần và một đời sống đầy nguyện vọng cao quý khác với người thế tục. Họ là những người với những nỗi khó khăn vất vả mà họ đang nỗ lực xử lý, với những khuyết điểm về tánh tình mà họ nỗ lực để vượt qua. Họ tiêu biểu vượt trội cho những trường hợp nổi bật của những người nam cũng như nữ, không chịu xử thế theo thường tình so với những vật trần gian, và quyết lao vào cầu Đạo để tìm đường trở về nguồn cội là ĐẤNG TỪ PHỤ. Họ là hình ảnh của những người “ Khi đã đặt tay lên cái cầy, không quay trở lại nữa mà cứ thẳng tiến đến mục tiêu cao quý thiêng liêng ”. Danh tính của họ sẽ không được bật mý. Các chữ viết tắt, tên của đệ tử ở đầu của nhiều huấn từ khác nhau và những ngày tháng đều không phân phối một tin tức nào cả, những huấn từ hoàn toàn có thể đã không ban ra vào ngày tháng ghi và những chữ viết tắt cũng hoàn toàn có thể không đúng thực là tên của đệ tử. bất kể người nào trong chúng tôi, dù biết rõ quan hệ giữa những chữ viết tắt và đệ tử, sẽ không hiến một tin tức nào. Các vướng mắc về tung tích của đệ tử sẽ không khi nào được giải đáp. Chính chủ đề của lời giáo huấn mới là quan trọng chứ không phải là danh tính của đệ tử vì những gì được giảng dạy hoàn toàn có thể vận dụng cho tổng thể những người tầm đạo .
Một nguyên do khác nữa hoàn toàn có thể được nêu ra để nói lên giá trị của sách này. Trong mọi trường hợp người đệ tử được cho biết những năng lượng nào trong Thiên Cơ. Nhờ đó người đệ tử biết rõ những sở trường, sở đoản của mình, cùng những đường lối nào là thuận hay nghịch trong cơ cấu tổ chức hoạt động và sinh hoạt của mình để tùy nghi ứng phó .
Vài người trong số đó đã thao tác phụng sự, với tư cách đạo sinh trong trường Nội Môn Bí Giáo. Những người khác không hề thao tác ấy, những người khác nữa nghe nói về trường hợp này do sự tiếp xúc với đức D.K. đã công quả trong trường để giúp đạo sinh .
Khoa Triết học Huyền môn dạy rằng khi bắt đầu Cơ phát minh sáng tạo, có 7 luồng thần lực được phóng phát từ Thượng Đế gọi là 7 cung, do đó mới sinh hóa ra muôn loài. Giáo điều này cũng hoàn toàn có thể truy nguyên ra trong Thánh Kinh, linh hồn của toàn bộ mọi chúng sinh, cũng như mọi hình thể sắc tướng đều thuộc về 1 trong 7 cung đó. Bẩy cung đó tạo nên 7 loại tâm ý chính được gọi là :
Cung 1 là cung quyền lực tối cao, ý chí. Nhiều nhà chỉ huy của tổ chức triển khai thuộc về cung này như J. CAESR .
Cung 2 là cung Minh Triết, Bác ái. Đấng Christ và Đức Phật thuộc về cung này. Đó là cung của những nhà Giáo dục, dạy dỗ .
Cung 3 là cung Trí tuệ, gồm thành phần những người tri thức mưu trí quả đât .
Cung 4 là cung điều hòa qua sự xích míc, xung đột. Gồm những người có nguyện vọng tâm linh, những người có thiện chí đang còn phải tranh đấu với nghịch cảnh, hay những người đang cố gắng nỗ lực thao tác để thực thi sự hợp nhất .
Cung 5 là cung Khoa học, hay kỹ năng và kiến thức đơn cử. Gồm những nhà bác học và những người thuần khiết mở trí, dùng trí để xử lý mọi sự .
Cung 6 là cung sùng tín hay lý tưởng. Gồm phần đông là những Fan Hâm mộ Gia tô, những người cuồng tín, những giáo sĩ sốt sắng nhiệt thành của tổng thể những tôn giáo trên quốc tế .
Cung 7 là cung Nghi thức hay Pháp môn. Gồm những người trong Pháp Môn Tam Điển ( MASONS ), những tài phiệt, những nhà kinh doanh lớn và những nhà tổ chức triển khai quy mô thuộc mọi ngành, những nhà chấp hành .
Tuy nhiên chỉ khi nào một người đã tiến hóa cao và gần bước vào con đường của người đệ tử thì người học đạo mới hoàn toàn có thể đánh giá và nhận định một cách đúng đắn là người ấy thuộc về của cung nào. Con người thuộc đủ mọi loại nghề nghiệp hoàn toàn có thể thuộc về toàn bộ những cung. Sự xích míc, xung đột trong đời của một người đệ tử hoàn toàn có thể do bởi sự kiện rằng cung linh hồn và cung phảm ngã của y thuộc vị trí đối nghịch nhau. Đồng thời tính cách tình cảm, trí lực và bộ óc vật chất của y cũng chịu tác động ảnh hưởng của 1 trong 7 cung và trong sự liên hệ ngũ nguyên đó có ẩn tàng cái tuyệt kỹ của sự tiến hóa .
Đức D. K. cho những đệ tử trong nhóm của Ngài biết năm cung nào tác động ảnh hưởng đến từng cá thể của mỗi người nam cũng như nữ, không chịu xử thế theo thường tình so với những vật trần gian, và quyết lao vào cầu đạt để tìm đường trở về nguồn cội là ĐẤNG TỪ PHỤ. Họ là hình ảnh của những người khi đã đặt tay lên cái cày, không quay trở lại nữa, mà cứ thẳng tiến đến mục tiêu cao quý Thiêng liêng .
Vài người trong số đó đã thao tác phụng sự với tư cách đạo sinh trong trường Nội Môn Bí Giáo. Những người khác không hề thao tác ấy, những người khác nữa nghe nói về trường hợp này do sự tiếp xúc với Đức D.K. đã công quả trong trường để giúp đạo sinh .
Một nguyên do khác nữa hoàn toàn có thể được nêu ra để nói lên giá trị của sách này. Trong mọi trường hợp người đệ tử được cho biết những năng lượng nào mà loại mà y phân phối thuận tiện nhất và y thuộc về cung nào trong Thiên Cơ. Nhờ đó người đệ tử biết rõ những sở trường, sở đoản của mình, cùng những đường lới nào là thuận hay nghịch trong cơ cấu tổ chức hoạt động và sinh hoạt của mình để tùy nghi ứng phó .
Khoa Triết học Huyền môn dạy rằng khi khởi đầu của Cơ phát minh sáng tạo, có 7 luồng thần lực được phóng phát từ Thượng Đế gọi là 7 cung, do đó mới sinh ra muôn loài. Giáo điều này cũng hoàn toàn có thể truy nguyên ra trong thánh kinh, linh hồn của toàn bộ mọi chúng sinh, cũng như mọi hình thể sắc tướng đều thuộc về một trong 7 cung đó. Bảy cung đó tạo nên 7 loại tâm ý chính đại đó là : người và những đệ tử sẽ học được rất nhiều bằng cách điều tra và nghiên cứu những điều Ngài nói .
Trong những trường hợp mà tôi được biết rõ cá thể của đương sự và biết không ít về những khó khăn vất vả của y, thật là vô cùng lý thú mà nhận thấy Đức D.K. nói đúng những cung của y rất đúng mực. Khi đọc những lời huấn giáo này, ta nên nhớ rằng tuy Chân Sư thường nói về linh hồn, Ngài cũng dùng danh từ Chơn Nhơn, ý niệm đó là CHÂN NGÃ TÂM LINH, chớ không phải là Phàm ngã cá thể theo những nhà tâm lý học .
Chúng tôi thấy không tiện nêu ra những Pháp Môn Thiền Định hay pháp luyện hơi thở, trừ ra vài trường hợp. Những pháp công phu đó có tính cách đặc biệt quan trọng cá thể, tương thích với riêng từng người và vận dụng cho những khó khăn vất vả riêng của mỗi d. tuy nhiên, trong một hai trường hợp, sau khi có cứu xét kỹ lưỡng, chúng tôi đã cho ghi lại một vài phép thiền định với chút ít sửa đổi, với sự ước mong rằng việc ấy chỉ hoàn toàn có thể đem lại những tính năng tốt đẹp .
Ở cuối mỗi huấn thị, chúng tôi đã ghi 1, 2 câu hiến tin tức về công tác làm việc của đệ tử trong Đạo Viện. Điều này sẽ tỏ ra đặc biệt quan trọng có sức làm sáng tỏ yếu tố, ví dụ điển hình như trong những trường hợp của P.D.W và K.E.S khi Thánh Sư TÂY TẠNG ban ra lời tiên tri nhất định và cho biết rằng cả 2 vị này qua đời ít năm sau. Rõ rệt là Ngài đang sẵn sàng chuẩn bị họ cho sự quá độ vĩ đại này .
Trước khi hết lời, tôi muốn cảm tạ toàn bộ những đệ tử đã tử tế biết bao khi cho tôi toàn quyền sử dụng những huấn thị của cá thể mình, trong một nỗ lực phụng sự cho thế hệ đệ tử sắp tới. Trong nhiều trường hợp, họ đã giúp tôi soạn tài liệu để đem ấn hành. Tôi cũng muốn cảm tạ những người đã giúp tôi soạn bản văn này để sẵn sàng chuẩn bị đem phát hành, nhất là Joseph Lovejoy đã bỏ ra biết bao ngày lao động vì quyển sách này, anh đã giúp tôi chuẩn bị sẵn sàng đem phát hành những sách của Thánh Sư trong nhiều năm .
Chúng tôi kỳ vọng rằng những fan hâm mộ của quyển sách này sẽ nhận được nguồn cảm hứng tâm linh mà chúng tôi đã nhận được .
Chúng tôi cũng kỳ vọng rằng :
Họ sẽ vững đức tin nơi ĐOÀN TIÊN THÁNH cùng sự hiện hữu của ĐẤNG CHƯỞNG GIÁO và những đệ tử của Ngài là những CHÂN SƯ .
Mong rằng đức tin ấy sẽ có được một sức thôi thúc dũng mãnh để cho có nhiều người nữa bước vào đường ĐẠO, tăng cường thêm số đạo sinh ở mỗi vương quốc trên quốc tế hiện đang cố gắng nỗ lực đi trên đường Đạo bằng cách biểu lộ đạo lý ngay bản thân .
Tháng Mười 1943
ALICE A. BAILEY

 

Hãy để cho những lực lượng ánh sáng đem giác ngộ đến cho trái đất .
Hãy để cho tinh thần thái bình được lan rộng ra ngoài .
Mong sao những thiện chí viên khắp nơi hội lại trong một niềm tin hợp tác .
Hãy để cho quyền lực đi kèm với nỗ lực của Đấng Cao Cả .
Cứ để mặc nó như thế và giúp chúng tôi thi hành phần việc của mình

1936

Hãy để cho Đấng giải thoát ( Lord of Liberation ) Open ,
Hãy để cho Ngài tương hỗ những đứa con quả đât .
Hãy để cho Đấng Bạch Mã Hóa Thân ( Rider ) giáng lâm từ Mật địa và xuống cứu rỗi .
Xin Ngài hãy giáng lâm hỡi Đấng Đại Hùng ( Mighty One )
Hãy để cho linh hồn con người thức tỉnh với Ánh sáng
Và mong sao cho họ đồng tâm nhất trí sát cánh nhau .
Hãy để cho Quyết lệnh của ĐẤNG CAO CẢ được ban bố ra
Thế là hết hận thù, cừu địch
Xin Ngài hãy giáng lâm hỡi ĐẤNG ĐẠI HÙNG
Nay đã tới lúc 6 thần lực cứu rỗi hoạt động giải trí
Hãy để cho nó được lan rộng ra ngoài, hỡi ĐẤNG ĐẠI HÙNG
Hãy để cho Ánh Sáng Tình Thương, Quyền Năng và Tử Vong
Hoàn thành ý đổ của ĐẤNG GIÁNG THẾ ( COMING ONE )
Ý chí cứu rỗi đã sẵn đây
Tình thương để thực thi công tác làm việc đã được thông dụng thoáng đãng ra ngoài .
Sự trợ giúp tích cực của mọi chân lý cũng đã sẵn đây .
Xin Ngài hãy giáng lâm, hỡi ĐẤNG ĐẠI HÙNG họp cả 3 thứ trên lại .
Dựng nên một bức tường thành phòng vệ vĩ đại .
Nay phe ác đã hết thời .
III. Từ nguồn Ánh sáng trong Trí Thượng Đế
Cầu xin Ánh sáng tràn vào Trí Con người
Cầu xin Ánh sáng giáng xuống trần gian

Từ nguồn Tình thương trong Tâm Thượng đế
Cầu xin Tình thương tràn vào Tâm Con người
Cầu xin Đấng Christ trở lại trần gian

Từ Trung tâm biết được Ý chí Thượng đế
Cầu xin Thiên Ý dẫn dắt ý chí nhỏ bé của Con người
Thiên Ý mà những Chân sư đều biết và phụng sự

Từ TT mà tất cả chúng ta gọi là Loài người
Câu xin Thiên Cơ, Tình thương và Ánh sáng được thực thi
Và cầu mong Thiên cơ đóng kín cửa vào nẻo ác

Cầu xin Ánh sáng, Tình thương và Quyền năng phục sinh Thiên cơ trên Trần gian

1945

Hỡi chư môn đệ ,
Có điều quan trọng là chư môn đệ cần phân biệt rằng thời nay có một cái gì mới đang diễn ra. Đó là việc Open của một cõi giới mới trong vạn vật thiên nhiên, tức Cõi giới của Thượng Đế trên trần gian, hay Cõi giới Linh hồn. Cõi giới ấy đang đột khởi trên địa cầu và sẽ gồm những kẻ có ý thức tập thể và hoàn toàn có thể hoạt động giải trí từng nhóm hay tập đoàn lớn. Điều này hoàn toàn có thể thực thi được chính do những người ấy sẽ đạt tới một trạng thái toàn thiện do tự lực công phu ( dẫu rằng hãy còn đặc thù tương đối ) và sẽ đồng nhất với những hoạt động giải trí tâm thức tăng trưởng tập thể. Ngoài ra, đó cũng chính do họ đã lan rộng ra tình thương so với kẻ đồng loại, cũng như họ chỉ biết thương chính mình trong thời quá khứ .
Chư môn đệ hãy suy ngẫm rõ ràng về điều này, và nếu hoàn toàn có thể hãy thấu triệt ý nghĩa của câu sau này :
Công việc của họ hầu hết sẽ là đúc rút và hiệu năng hóa chương trình của hai Đấng sứ giả cao quý của Thượng Đế là Đức Phật và Đức Christ .
Như chư môn đệ đã biết, một trong hai Đấng ấy đã đem ánh sáng giác ngộ cho trần gian và bộc lộ đức Minh Triết, còn Đấng thứ hai đem tình thương cho trái đất và bộc lộ nơi chính bản thân Ngài một định luật lớn của thiên hà, đó là định luật của tình thương. Bằng cách nào ta hoàn toàn có thể làm cho khu công trình của những Ngài được trở nên hữu hiệu. Phương thức này noi theo 3 đường lối sau đây :
1 ) Sự cố gắng của bản thân của người đệ tử, vận dụng kỹ thuật buông xả, vô dục và phân biện mà PHẬT dạy .
2 ) Việc điểm đạo tập thể, hoàn toàn có thể triển khai được bằng sự cố gắng tự lực công phu của những đệ tử theo như lời răn của Đấng Christ, và đưa việc đặt phàm ngã và cá đơn vị chức năng cá nhân hoàn toàn phụ thuộc vào việc công ích và quyền hạn tập thể .
Sự cố gắng tập thể, thực thi do từng nhóm nhằm mục đích ban rải tình thương cho toàn bộ muôn loài và tìm hiểu và khám phá ý nghĩa thật sự của tình thương tập thể và công tác làm việc tập đoàn lớn là những nét đặc trưng trong cơ tiến hóa của trái đất trong thế hệ Bảo bình ( Aquarius )
Tôi nghĩ rằng một sự hòa hợp tâm lý của chư môn đệ để suy gẫm về khu công trình của PHẬT và Đấng Christ hoàn toàn có thể đem lại hiệu quả hữu dụng và đem đến cho tổng thể môn đệ một ý niệm về hai pháp môn tu luyện của những Ngài. Một để sẵn sàng chuẩn bị bước vào con đường đệ tử chánh thức và một để sẵn sàng chuẩn bị bước vào cửa điểm đạo, cả hai pháp môn này đều có liên hệ hỗ tương và nối tiếp theo nhau. Sự tổng hợp chương trình của những Ngài là một điều mà chúng tôi nhận thấy rõ ràng, vì chúng tôi thao tác với một tầm nhãn quang bao quát hơn và với một ý niệm ít gò bó hơn chư môn đệ lúc bấy giờ .
Bởi vậy tôi chia những đệ tử của tôi thành từng nhóm để cho họ hoàn toàn có thể thao tác trên những góc nhìn khác nhau của Thiên Cơ và tôi cũng đặt nền tảng cho công tác làm việc tập thể, nó sẽ giúp sức rất nhiều cho mọi người, và trên mọi sự, nó cũng sẽ thôi thúc đại sự trong kỷ nguyên mới .
Bởi vậy tôi có dự tính đi sâu vào cụ thể hơn khi nói về những nhóm này. Thời giờ của tôi rất số lượng giới hạn và tôi sẽ phải đưa nhiều tài liệu vào những huấn từ này vào trong những lời huấn giáo cá thể mà tôi hoàn toàn có thể ban cho những đệ tử, có lẽ rằng từng kỳ hạn lâu bền hơn. Trên cơ bản, tôi không viết riêng cho một môn đệ nào, mà là để đặt nền tảng cho việc làm công tác làm việc tập thể trên trần gian trong những năm tới. Những gì tôi nói đây cần phải được xem xét cẩn trọng, vì chữ viết hoàn toàn có thể tiềm ẩn nhiều ý nghĩa, mà đạo sinh chỉ cảm nhận được bằng trực giác .
Tôi, Người Anh cả Tây Tạng của chư môn đệ, tin yêu rằng mỗi đệ tử của tôi phải có tối thiểu một đức tính cơ bản này là lòng nhiệt thành bền vững và kiên cố không gì lay chuyển. Mỗi người trong chư môn đệ khởi đầu công phu hành đạo với không ít đức tính cơ bản. Mỗi người đang khởi đầu công phu tu luyện để bước vào cửa điểm đạo với không ít khuyết điểm, nó tác động ảnh hưởng như những chướng ngại. Mỗi môn đệ đã được thừa nhận nhờ bởi sự sáng suốt và những tiềm năng của mình. Với những vốn liếng ý thức đó, tất cả chúng ta phải cố gắng nỗ lực đến mức tối đa. Bởi vậy những môn đệ hãy ghi nhận yếu tố khó khăn vất vả của những Đấng Cao Cả đang dìu dắt sự tiến hóa của trái đất và đang tìm kiếm những người hoàn toàn có thể trợ giúp trong việc làm của những Ngài .
Tôi sẽ hướng dẫn chư môn đệ. Các môn đệ có thụ hưởng được ích lợi nào không do sự giáo huấn này, trọn vẹn là do chư môn đệ, đó là điều mà người đệ tử trong kỷ nguyên mới cần phải biết. Không có sự vâng lời tuyệt đối như thường được dạy trong những Đạo viện lâu nay .
Thời cổ, ở Phương Đông, vị Đạo sư yên cầu người đệ tử phải có sự vâng lời tuyệt đối, điều này đương nhiên đặt nghĩa vụ và trách nhiệm nơi vị Đạo sư. Vị ấy phải hứng nặng trên vai mình toàn thể vận mạng hay nghiệp quả của người đệ tử. Điều kiện ấy ngày này không còn vận dụng. Ngày nay con người đã mở mang trí khôn đến mức không còn cần phải đặt ra một điều kiện kèm theo như vậy nữa .
Trong kỷ nguyên sắp tới đây, vị Chân Sư chỉ nghĩa vụ và trách nhiệm đưa đến Cơ hội tốt cho đệ tử và truyền giảng chân lý một cách đúng chuẩn thế thôi. Trong thời đại mới con người đã được hiểu biết sáng suốt hơn, vị đạo sư không còn khoác lấy một tư thế duy nhất như thời xưa, và tôi cũng không làm như vậy. Tôi sẽ nói thẳng. Tôi biết rõ những đệ tử của tôi vì không một đệ tử nào được nhập vào một đạo viện mà không được vị đạo sư xem xét từ trước một cách tỉ mỉ. Tôi sẽ nói bằng lời ẩn dụ và hình tượng những gì cần được truyền dạy, và những đệ tử nào có trực giác, linh cảm và lòng nhã nhặn thật sự sẽ ghi nhận và hiểu rõ. Nếu họ chưa hiểu được ngay thì thời hạn sẽ tác động ảnh hưởng một cách bí mật, và rốt cuộc sự giác ngộ cũng sẽ đến .
Bởi vậy tôi không yên cầu một sự vâng lời mù quáng. Tuy nhiên nếu những lời răn đe đây được đồng ý, và những môn đệ tự ý muốn theo những lời giáo huấn của tôi do bởi ý chí tự do của chính mình, thì phải tuân theo một cách đúng mực. Một điều nữa là không nên khi nào cũng trông đợi hiệu quả và mong đợi những hiện tượng kỳ lạ nhiệm mầu là những điều chướng ngại rất lớn nó vẫn thường ngăn chận sự tân tiến của nhiều đệ tử có triển vọng .
Đây cũng là một cuộc thí nghiệm so với tôi, vì những nhân viên cấp dưới có cấp đẳng trên Thiên đình như chúng tôi đương nhiên phải đổi khác những đường lối cũ và tùy nghi vận dụng những giải pháp xưa vào thời đại mới cho thích hợp với trào lưu tiến hóa. Nhiều đệ tử và đạo sinh đã chịu thử thách đó, và đã căng thẳng mệt mỏi, cần phải trải qua những cuộc thí nghiệm trong đó có việc vận dụng những quy luật để theo một giải pháp tân tiến. Các đệ tử của thời cổ vốn là loại sản phẩm của những thời đại thanh bình. Trí lực của họ chưa tăng trưởng mạnh, cũng chưa bị nhuộm màu bởi những trào lưu tư tưởng nhiều mẫu mã như thời nay .
Thời nay kiến thức và kỹ năng được phổ cập sâu rộng và nhiều người đã tự lực suy tư để tìm chân lý. Cái đối tượng người dùng để Chân Sư hướng dẫn trên đường đạo, và loài người cần khai triển tâm linh để được đưa đến sự giác ngộ, thời nay có một phẩm chất và trình độ cao hơn. Việc biến hóa giải pháp và vận dụng kỹ thuật mới về công tác làm việc tập thể cần phải được thực thi giữa sự ồn ào náo nhiệt của nền văn minh Tây phương. Điều này áp đặt cho tổng thể những người được chọn để tham gia vào việc làm này, một sự cố gắng vược bực, nhưng nếu họ hoàn toàn có thể liên tục và đi đến thành công xuất sắc, thì họ được trui rèn đến một trình độ năng lực phức tạp hơn .
Như tôi đã nói, những chốn phồn hoa nào động của Phương Tây, chính là những vùng rừng sâu, núi thẳm của Phương Đông. Đó là cái toàn cảnh để tập cho ta tìm thấy sự bình an giữa nơi náo động, sơ đắc được sức mạnh trong cơn căng thẳng mệt mỏi, trung kiên kiên trì khi sức khỏe thể chất suy nhược và thông cảm hiểu biết giữa sự cạnh tranh đối đầu ồ ạt của Đời sống Phương Tây .
Bởi vậy, sự văn minh vẫn được thực thi dù trong những thực trạng trái ngang. Đối với những đệ tử như hàng môn đệ mà tôi sẽ hướng dẫn, không có việc rút lui ra khỏi cuộc sống thế tục. Không cần phải có điều kiện kèm theo yên tĩnh và bằng an của sức khỏe thể chất để thúc động đến linh hồn và để thực hành thực tế công phu tu luyện như trong cơn im re, yên nghỉ của trạng thái xuất thần đại định mà Ấn Giáo gọi là Samadhi, tức là trạng thái trọn vẹn tách rời khỏi mọi trần duyên ngoại cảnh. Công phu hành đạo phải diễn tiến trong cơn náo động. Sự định tâm phải được giữa lúc tranh đấu ào ạt. Sự minh triết phải sở đắc được giữa cơn tâm lý xấp xỉ và việc làm hợp tác với Đại Đoàn Chưởng Giáo về phương diện huyền bí nội tàng phải diễn tiến giữa cơn xuẩn động điên cuồng giữa nếp hoạt động và sinh hoạt tân thời ở những thành phố lớn. Đó là yếu tố khó khăn vất vả của chư môn đệ và cũng là yếu tố khó khăn vất vả của tôi trong việc đào tạo và giảng dạy trợ giúp những đệ tử .
Đối với tôi, còn yếu tố phung phí quá nhiều năng lượng khi tôi nỗ lực tiếp xúc với một đệ tử riêng không liên quan gì đến nhau và khảo sát từng người trong từng kỳ hạn. Trong đó kế hoạch trường kỳ … tôi còn có việc làm đọc tư tưởng, xem xét mức tân tiến và tăng cường sinh khí cho hào quang của chư môn đệ. Điều này từ trước đến nay không phải là việc của những Đạo Sư Phương Đông, trừ ra vài trường hợp rất hiếm .
Những đệ tử lúc bấy giờ đang hoạt động giải trí trên quốc tế tân tiến, dưới sự dìu dắt của những Thánh Sư Minh Triết, đã từng trải qua một quy trình tiến độ điều chỉnh tâm linh sơ khởi và một quy trình tiến độ giảng dạy nên nhớ rằng tôi cũng có một yếu tố khó khăn vất vả mà tôi sẵn lòng đảm nhiệm vì nhu yếu của trần gian, và để góp thêm phần vào việc thiết kế nên một kỷ nguyên mới có nhiều triển vọng hơn .
Bởi vậy, tất cả chúng ta hãy trợ giúp nhau để cho những cố gắng nỗ lực của tất cả chúng ta được triển khai thuận tiện .
Tôi không hứa hẹn là sẽ đem lại những hiệu quả mau chóng. Tôi không cam kết đem lại những sự tân tiến độc lạ. Các hiệu quả trọn vẹn do nơi chư môn đệ triển khai. Tùy nơi lòng kiên trì, sự đúng mực trong cụ thể, niềm tin kỷ luật mà chư môn đệ muốn áp đặt vào đời sống của mình và đức vị tha quên mình của chư môn đệ. Tôi nhu yếu chư môn đệ hãy đừng nghĩ đến tác dụng và hãng hành vi với niềm tin vô dục vô cầu, vì chư môn đệ không hề biết chắc những mục tiêu mà tôi đặt ra cho chư môn đệ như thế nào. Tôi cũng nhu yếu chư môn đệ hãy gác bỏ sự tự kiểm liên tục, liên tục, nó vẫn là đặc tính hướng nội thường thì của nhà Huyền học Tây Phương có nhiều tham vọng .
… Vậy thì tôi đứng ở vào tư thế nào ? Vốn là một nhân viên cấp dưới trong một nhóm lớn những đệ tử Huyền Môn, từ người đạo sinh nhã nhặn nhất đến Đấng Cao Cả nhất trong Thiên Đoàn, làm cái gạch nối giữa trái đất với cõi tâm linh, tôi hoàn toàn có thể dạy chư môn đệ những quy luật xưa và đưa ra những sự gợi ý để chư môn đệ hoàn toàn có thể tiến mau hơn trên đường ĐẠO và đạt tới hiệu năng lớn lao hơn để phụng sự trái đất, không hề có mảy may ý niệm nào ám chỉ lời công bố đầy uy quyền của Một Đấng Nào trong Đại Đoàn Chưởng Giáo, mà lời nói là quyền phép và phải được tuân theo. Điều này cần được nhớ rõ, nếu không thì không hề thực thi được điều gì, những rủi ro tiềm ẩn hoàn toàn có thể xen vào và sự cố gắng hiện tại sẽ thành vô bổ. Sự ẩn danh của tôi vẫn luôn luôn được gìn giữ và sẽ liên tục như vậy tuy rằng những thành viên trong nhóm đệ tử này biết tôi là ai. Như Môn đệ biết tôi như một đạo sư, một đệ tử Tây Tạng và một vị Điểm Đạo ở một cấp bực nào đó, điều này không có gì chỉ có giáo lý mà tôi sẽ đưa ra cho chư môn đệ mới đáng kể mà thôi. Tôi là một Đạo đồ đi sâu vào những bí hiểm của đời sống. Lời công bố này tự nó có hàm xúc ý nghĩa so với người biết chuyện. Chư môn đệ cũng biết rằng tôi là một người mang xác phàm và trú ngụ tại Miền Bắc Ấn Độ. Bấy nhiêu cũng đủ và không nên để cho sự tò mò làm cho chư môn đệ bị mù quáng so với những giáo lý .
Chúng ta cùng sát cánh với nhau trong khu công trình thực thi tâm linh. Tất cả chư môn đệ đã tự nguyện và không cho một áp lực đè nén nào bắt buộc, công bố sẵn sàng chuẩn bị tiến bước vào một đời sống tâm linh đa dạng và phong phú hơn. Điều này chư môn đệ phải làm trong sự tự do của linh hồn mình và bằng năng lực trí lực của mình. Chư môn đệ sẽ tuân theo những huấn giáo nào mà tự mình thấy đúng và hài hòa và hợp lý, nhưng khi đã quyết định hành động tuân theo thì phải làm tròn những lời nhu yếu một cách đúng đắn. Chư môn đệ sẽ nghiên cứu và phân tích và phỏng vấn những lời nhu yếu nhiều lúc do tôi đưa ra và sẽ không gật đầu lời lẽ ngôn từ một cách máy móc. Ngôn từ khi nào cũng bị số lượng giới hạn và là những chướng ngại. Chư môn đệ cũng sẽ thao tác dưới ảnh hưởng tác động của sức khỏe thể chất và thực trạng và sẽ luôn luôn nhớ rằng quả vị Thánh Sư chỉ được đạt tới bằng sự nỗ lực thắng lợi để thành công xuất sắc, chứ không phải bằng sự vâng lời bất kể một người nào. Nên biết rằng tôi, thầy của chư môn đệ, không phải luôn luôn biết rõ thực trạng sức khỏe thể chất hay hành vi hàng ngày của mỗi đệ tử. Tôi không chăm sóc đến việc riêng của từng cá thể và những người nào tưởng lầm rằng những Thánh Sư luôn luôn chỉ bảo họ việc gì phải làm, và dìu dắt họ trong những việc cá thể riêng rẽ, hãy còn cách rất xa, trình độ của người đệ tử chính thức .
Hãy nhớ rằng ánh sáng sẽ chiếu rọi vào một tâm hồn biết tự chủ mà không bị chịu ràng buộc vào một cá thể nào về phương diện lý trí, khi những lời sơ giải này đã được hiểu rõ, tất cả chúng ta hãy bước qua việc nêu lên những nguyên tắc và cứu xét xem những gì ta hoàn toàn có thể làm .
Điều thứ nhất : Hãy luôn luôn nhớ rằng con đường của người đệ tử trong thời đại mới là một sự thực nghiệm công tác làm việc chung từng nhóm, mục tiêu chính không phải là sự kiện toàn cá thể của riêng một đệ tử nào trong tập thể. Tôi coi lời công bố đó như một điều cơ bản thiết yếu. Cá nhân đều có công dụng bổ khuyết và bồi đắp cho nhau. Sự tổng hợp những ưu điểm của họ là cứu cánh phải tạo nên một nhóm có năng lực biểu lộ những đặc tính tâm linh, xuyên qua nhóm ấy, thần lực và ân huệ thiêng liêng hoàn toàn có thể tuôn tràn xuống để trợ giúp trái đất. Công việc phải làm là ở trên cõi thượng giới ( cõi trí tuệ ) .
Những lãnh vực công tác làm việc của những đệ tử nói riêng vẫn giống y hệt như trước, nhưng ngoài những địa phận hoạt động giải trí khác nhau của từng cá thể sẽ còn có thêm những hoạt động và sinh hoạt và đời sống tập thể, điều này sẽ trở nên mỗi lúc càng rõ ràng hơn với thời hạn qua. Như thế mục tiêu tiên phong là củng cố và thống nhất nhóm đệ tử tậpt hể để cho mỗi người trong nhóm hoàn toàn có thể thao tác trong sự hòa hợp trí năng và hợp tác tâm linh một cách ngặt nghèo với những người khác. Việc này tất yếu là phải mất nhiều thời giờ, và sự thành công xuất sắc của cố gắng nỗ lực mới này của Thiên Đoàn sẽ tùy nơi thái độ dung hòa khoan hậu và sự ban rải tình thương của mỗi thành viên trong nhóm. Điều này sẽ được triển khai khá thuận tiện so với vài đệ tử, nhưng rất khó so với những người khác .
Ngày nay, nhiều người tiến hóa cao, có một trí óc nghiên cứu và phân tích quá tỉ mỉ. Tuy nhiên với thời hạn qua, và nếu có sự cố gắng sửa đổi thì sự hàn gắn sẽ đạt được nhiều tân tiến. Bởi vậy, đây là sự cố gắng tiên phong của nhóm đệ tử của mỗi vị Chân Sư và là một thành quả của chính Thiên Đoàn vậy đó là : Sự hợp nhất tập thể .
Mỗi đệ tử phải đặt những ý tưởng sáng tạo riêng tư về sự tân tiến cá thể của mình tùy thuộc những nhu yếu tập thể, do tại muốn có một nhóm thật hòa hợp và hoạt động giải trí như một đơn vị chức năng hữu hiệu, thì vài đệ tử sẽ phải hối thúc sự văn minh của mình trên vài phương diện và những đệ tử khác sẽ phải trong thời điểm tạm thời trì hoãn sự tân tiến của họ cho vừa tầm mức của hầu hết. Điều này sẽ diễn ra một cách đương nhiên, nếu ý thức đồng nhất với tập thể là yếu tố số 1 trong tư tưởng của mỗi đệ tử, còn sự văn minh cá thể, muốn được sự thỏa mãn nhu cầu tâm linh cho riêng bản thân mình thì phải được đặt xuống hàng thứ yếu .
Những nhóm đệ tử trong khuôn khổ của mỗi Đạo Viện ( Ashram ) cứu cánh sẽ thao tác với nhau, cũng như những phân chi, cục, bộ khác nhau của một tổ chức triển khai đại quy mô đều hoạt động giải trí ăn khớp với nhau một cách hữu hiệu như một đơn vị chức năng duy nhất .
Họ phải hoạt động giải trí một cách điều hòa, êm ái và mưu trí. Điều này hoàn toàn có thể triển khai được khi nào những thành viên của những nhóm và những nhóm riêng rẽ đều quên những đậm chất ngầu khác biệt của mình để cố gắng nỗ lực làm cho cuộc thực nghiệm của Thiên Đoàn được thành công xuất sắc. Những xúc cảm, những phản ứng, ước vọng và thành công xuất sắc của cá thể đều tuyệt đối không đáng kể. Chỉ có những gì trợ giúp cho sự cố gắng tập thể và tu dưỡng cho tâm thức của toàn nhóm mới là quan trọng mà thôi. Thí dụ chỉ có những gì giúp thêm sức mạnh tâm linh cho nhóm đệ tử của tôi hoặc làm tăng hay giảm ánh sáng diệu quang tâm linh của nhóm mới làm cho tôi phải chú ý quan tâm. Hãy nhớ rằng tôi luôn luôn nhìn vào những nhóm đệ tử của tôi với tầm nhãn quang nội tàng và coi họ như một tập thể duy nhất .
Tôi chỉ thấy cái diệu quang của toàn thể, tôi chỉ ghi nhận cái tiết điệu thống nhất, cái âm giai và mầu sắc tổng hợp, tôi chỉ nghe cái âm thanh hợp tấu mà họ cùng hàng loạt thốt ra. Tôi lập lại rằng trên một ý nghĩa, những thực chất riêng biệt của mỗi đệ tử không quan trọng gì so với tôi, trừ phi họ nâng cao hay hạ thấp âm ba rung động của toàn nhóm. Trên cương vị bản ngã cá thể, chư môn đệ không đáng kể so với chúng tôi, là những Chân Sư trên góc nhìn ẩn vị, nội tại của đời sống. Nhưng trái lại, trên cương vị linh hồn hay Chân Ngã, chư môn đệ rất quan trọng .
Mỗi đệ tử trong nhóm của một vị chân sư hoàn toàn có thể có nhiều khuyết điểm và yếu kém, nó tác động ảnh hưởng như những chướng ngại so với những đệ tử khác trong nhóm. Nhưng trên cương vị linh hồn, những đệ tử đó có phần thức tỉnh và sôi động, đã đạt được không ít tác dụng. Tất cả chư môn đệ trong nhóm của tôi cũng ở vào thực trạng ấy. Tôi mến yêu chư môn đệ như những Chân Ngã bất diệt, mà tôi tìm cách giúp sức và nâng cao, để chư môn đệ được tăng trưởng và soi sáng tâm linh .
Đến đây, tôi muốn nhấn mạnh vấn đề về một điểm khi tất cả chúng ta xem xét mỗi cá thể trong nhóm và mối đối sánh tương quan của y trong tập thể. Hãy cẩn trọng trấn áp tư tưởng của mình so với bạn đồng môn, lập tức diệt trừ toàn bộ mọi sự hoài nghi, chỉ trích và tìm cách đoàn kết ngặt nghèo với nhau trong ánh sáng của Tình thương .
Chư môn đệ không hề biết rằng một nỗ lực như thế vốn có một mãnh lực hay tiềm năng giải tỏa nhưng sự trói buộc giữa người nọ với người kia và nâng cao toàn nhóm lên một vị thế cao tột .
Bằng sự chiếu diệu ánh sáng tinh khiết của tình thương giữa những bạn đồng môn với nhau, chư môn đệ hoàn toàn có thể tiến đến gần tôi hơn và gần với những Chân Sư hơn trên góc nhìn ẩn vị nội tại của đời sống và tiến bước mau hơn vào cửa Đạo Diệu Huyền. Chư môn đệ có thời cơ chứng tỏ cho nhau thấy giá trị khoa học và thế lực của tình thương, vốn được coi như một sức mạnh trong vạn vật thiên nhiên. Hãy nỗ lực chứng tỏ điều ấy .
Như thế nào chư môn đệ sẽ giải tỏa lần cho nhau tổng thể những năng lượng thiết yếu để đưa đến những biến hóa độc lạ trong nếp sống và mục tiêu của những thành viên trong nhóm .
Tình thương không phải là một tình cảm hay một xúc cảm, nó cũng không phải là một dục vọng hay một động cơ ích kỷ để làm điều phải trong đời sống hàng ngày. Tình thương là sự phát động một sức mạnh nó làm luân chuyển bầu quốc tế, nó đưa đến sự hội, sự hòa hợp ( intergration ) sự đoàn kết, chính nó là cái động lực thôi thúc Thượng Đế hành vi, phát minh sáng tạo .
Tình thương là một vật khó vun trồng, vì đặc thù con người vốn ích kỷ. Nó là một điều khó vận dụng vào toàn bộ mọi trạng thái của cuộc sống và sự biểu lộ tình thương yên cầu chư môn đệ phải ban rải ra đến mức tối đa, loại trừ những hành vi cá thể ích kỷ .
Các đệ tử trong nhóm của một vị Chân Sư phải yêu quý nhau một cách mưu trí và thành thật gắn bó, như vậy để tạo nên cái ánh sáng và quyền lực sau cuối sẽ làm cho cả nhóm trở nên có giá trị hữu hiệu trên trần gian .
Trong sự liên hệ tiếp xúc giữa Tôi với chư môn đệ trong tương lai, tôi sẽ không cần phải khôn khéo che đậy những thực sự mà tôi cần nói với mỗi người bằng cách nào để cho khỏi chạm lòng tự ái. Trong tương lai, tôi sẽ không chăm sóc đến những xúc cảm hay phản ứng của phàm ngã vì tôi trông cậy nơi sự thành thật của chư môn đệ .
Có lẽ cần nên nhớ rằng, theo lệ thường không ai tin những gì người khác nói với mình, bất luận điều ấy thật đến đâu, bất luận mình đồng ý thực sự đến độ nào. Chỉ có những chân lý nào đến với ta do kinh nghiệm tay nghề bản thân mới thật sự thấm nhập vào tâm thức và đem lại hiệu quả hữu dụng .
Trong sự cố gắng tập thể mà tất cả chúng ta đang theo đuổi, toàn bộ những người trong nhóm đều được cho biết những gì được nói riêng với một đệ tử .
Sự kiện ấy thật rất có ích và sẽ kiểm soát và điều chỉnh mọi sự rơi lệch một cách mau chóng hơn nhiều, miễn là trong sự hợp nhất và trong tình thương, toàn bộ mọi người sẽ giúp người đệ tử ấy biến hóa cái góc nhìn bất hảo. Hỡi chư môn đệ, tôi chỉ trông cậy có một điều, đó là lòng thành thật của chư môn đệ. Không phải là một việc làm xấu đi ( như có vài người thường nói ) mà vạch ra một khuyết điểm hay lỗi lầm khi ánh sáng tỏ rạng của Chân Ngã càng biểu lộ nó sẽ lột trần mặt thật của phàm ngã .
Nếu thật có lòng rứt bỏ, nhóm đệ tử này hoàn toàn có thể nhìn mọi sự một cách thản nhiên và sẽ không động lòng vì sự bật mý những đặc thù tốt đẹp hay bất hảo. Nếu chư môn đệ bị xuống ý thức, hay bực mình va chạm vì sự bật mý đó, ấy là tín hiệu chứng tỏ sự thiếu hạnh dứt bỏ, hãy còn quá thiết tha với Phàm Ngã và dư luận của người khác .
Điều thứ hai : Tất cả những đệ tử trong một Đạo Viện cần phải Thiền Định, hiểu theo ý nghĩa Huyền Môn chớ không theo ý nghĩa thần bí. Trong mọi công phu thiền định mà chư môn đệ đang thực hành thực tế ngay trong hiện tại hoặc trong tương lai, mục tiêu của chư môn đệ là đạt tới điểm trên cao nhất càng sớm càng hay, sau khi vượt qua mau chóng những quy trình tiến độ tập trung chuyên sâu, định trí và nhập thiền. Sau khi đạt tới điểm đó, chư môn đệ phải cố gắng nỗ lực giữ lấy nó, và như vậy hãy tập tác động ảnh hưởng như một linh hồn trên cõi riêng của nó, định thần nơi cõi giới nguồn năng lượng trong đó toàn bộ những bậc đã điểm đạo đều hoạt động giải trí, và có ngày chư môn đệ cũng phải đạt tới trong kiếp này hay một kiếp khác .
Trạng thái tâm linh đó phải được đạt tới một cách thận trọng, phải quan sát đúng đắn sau khi đã đạt được và ghi nhận những ấn tượng một cách đúng mực. Bởi vậy, chư môn đệ phải hợp thành một nhóm thiền môn tích cực công phu và tác dụng sẽ thuận tiện nếu chư môn đệ chịu suy gẫm và cố gắng nỗ lực thực thi được điều kiện kèm theo tiên phong của sự hoạt động và sinh hoạt tập thể, ấy là sự hợp nhất của nhóm .
Điều thứ ba : Sự hợp nhất này sẽ phát sinh từ công phu thiền định ( do đó ) linh hồn tự biết mình là một với toàn bộ những linh hồn khác ), phải được biểu lộ trong vài hình thức hoạt động và sinh hoạt tập thể. Điều này phải được lập tức chứng tỏ ngay, trong nhóm và về sau này, khi sự thống nhất đã được hoàn bị hơn, nó phải được biểu lộ ra ngoài trần gian .
Chính bằng cách đó mà những Đạo Viện của những Thánh Sư sẽ được bộc lộ ngoại tại trên địa cầu và Đại Đoàn Chưởng Giáo sẽ công khai minh bạch hoạt động giải trí trên cõi hồng trần hạ giới chứ không còn tiềm ẩn một cách kín kẽ phía sau hậu trường như từ trước đến nay. Chừng đó thì việc phục hưng qua Huyền Môn sẽ được thực thi .
Đến đây một câu hỏi hoàn toàn có thể được đặt ra : bằng cách nào điều này hoàn toàn có thể thực thi trong một nhóm đệ tử, tổng thể đều là những cá thể riêng không liên quan gì đến nhau nhưng thành thật mong ước hợp tác và trợ giúp trong việc làm này .
Tôi xin đưa ra một câu vấn đáp rõ ràng và dứt khoát : chư môn đệ đã tình nguyện hợp tác chung với nhau khi thời cơ ấy được tôi đưa ra. Chư môn đệ nhắm mục tiêu tiến tới một sự đoàn kết tập thể, địa thế căn cứ trên sự kiện rằng toàn bộ đều là những linh hồn bất diệt. Điều này rốt cuộc phải tự biểu lộ dưới hình thức một sự liên giao tư tưởng tập thể, một sự thông cảm tập thể so với những sự khó khăn vất vả vướng mắc của nhau, và do đó một thời cơ chung của tập thể để trợ giúp lẫn nhau. Sự trợ giúp này không nên được triển khai qua sự cố gắng hay tiếp xúc cá thể hoặc nêu lên những yếu tố tương quan đến thực trạng và tánh hạnh hoặc đưa ra những lời khuyên và trợ giúp quan điểm. Chúng tôi không đối xử với Phàm Ngã trong sự tiếp xúc giữa những người bạn đồng môn với nhau, trong một nhóm đệ tử của Chân Sư. Đồng thời những đệ tử, phải tập củng cố niềm tin và trợ giúp lẫn nhau, luôn luôn tránh việc xen vào phàm ngã riêng biệt. Mỗi người hoàn toàn có thể tập chuyển đi đức tính thuộc về cung linh hồn của mình cho một bạn đồng môn, khích động cho y có lòng can đảm và mạnh mẽ, dũng mạnh hơn, có một động lực thuần khiết hơn, và một tình thương sâu rộng hơn, nhưng tránh việc tăng cường những đặc tính thuộc về phàm ngã của y. Hãy luôn luôn tập coi bạn đồng môn của mình như những linh hồn bất diệt chứ không phải như những phàm nhân khiếm khuyết bất toàn .
Bởi vậy tất cả chúng ta có 3 tiềm năng như sau :
1 ) Hòa hợp tập thể bằng tư tưởng, hiểu biết lẫn nhau và tiếp tục ban rải tình thương .
2 ) Thiền định tập thể … như một nhóm thiền sinh, đặt nền móng vững vàng cho nhóm ấy trong cõi giới linh hồn và tăng cường toàn bộ những đệ tử liên hệ .
3 ) Hoạt động tập thể … đưa đến hiệu quả trợ giúp lẫn nhau trong yếu tố tánh hạnh trau dồi chứ không phải yếu tố sửa đổi thực trạng. Chư môn đệ hãy suy gẫm về sự dị biệt này .
Về sau, khi nhóm đã thật sự củng cố vững vàng, nó phải khởi đầu hoạt động giải trí ngoại tại và sự sống của nhóm phải khởi đầu làm cho trần gian quan tâm. Nó phải luôn luôn hướng về việc tăng cường sức mạnh tâm linh của tổng thể những nhóm mà những thành viên của nhóm có sự quan hệ trực tiếp và hoàn toàn có thể phối hợp với những nhóm này. Tôi đề cập đến tổng thể những nhóm đệ tử thuộc về kỷ nguyên mới và đang hoạt động giải trí theo những đường lối cứu chữa những nỗi khổ đau của trái đất : khổ đau về vật chất, niềm tin, tâm lý và tình cảm .
Có những quy luật giản dị và đơn giản nhưng tất yếu quản lý đời sống tâm linh nội tại của những đạo sinh sơ đẳng đang chịu sự đào tạo và giảng dạy để bước vào những tiến trình khác nhau trên đường đệ tử Huyền Môn. Tôi xin phác họa những đề xuất của tôi cho việc làm đơn giản và giản dị và cấp bách đó .
Trước hết những đệ tử hãy thực hành thực tế môn thiền định đều đặn và tiếp tục mỗi ngày. Mỗi pháp môn thiền định đều thích ứng với mỗi đệ tử liên hệ, và đổi khác tùy theo Cung, trình độ tiến hóa và quy trình tiến độ trên đường đệ tử, là tiềm năng tiếp dẫn. Những pháp môn đó không hề công bố ra ở đây, mà chỉ được đưa ra như những ý kiến đề nghị để chư môn đệ vận dụng và gật đầu đến một tiến trình nào đó trong Cơ thiền định, Chư môn đệ hãy nỗ lực giao cảm trực tiếp với tôi, nhưng hãy để cho sự giao cảm này diễn ra sau khi Chư môn đệ đã nỗ lực công phu để tự kiểm soát và điều chỉnh với linh hồn mình. Lý do vì sao phải kiểm soát và điều chỉnh trước khi giao cảm, là do tại chừng đó chư môn đệ hoàn toàn có thể tránh khỏi những ảo ảnh và ảo giác của cõi Trung Giới là nơi những hình tư tưởng và những vong linh bất hảo vẫn thường hay trá hình làm những bậc đạo sư và Chân sư và chứng đến rất nhiều đến vô số .
Trong cơn Thiền định, chư môn đệ cũng nên dành một chút ít thì giờ để thử giao cảm với những bạn đồng môn, gửi đến cho họ tình thương, nguồn năng lượng ý thức và sự trợ giúp tâm linh .
Chư môn đệ sẽ thấy có ích mà giữ một quyển nhật ký về sự hoạt động và sinh hoạt tâm linh. Đây không phải là một quyển nhật ký thường và sẽ không ghi chép những vấn đề thuộc về phàm ngã. Trong quyển nhật ký này, chư môn đệ hãy ghi những điều sau đây :
1 ) Mọi kinh nghiệm tay nghề tâm linh hoàn toàn có thể đến với mình, ví dụ điển hình như tiếp xúc với một sự hiện hữu vô hình dung nào đó, hoặc là chính linh hồn mình, hoặc Đấng Thiên Thần hiện hữu, hoặc tiếp xúc với một đệ tử và sau hết khi mà đời sống, việc làm và kỷ luật của Chư môn đệ đã đến mức khả quan, tiếp xúc với một vị Chân Sư. Hãy ghi chép một cách vô tư, giữ một thái độ khoa học và luôn luôn tìm một lý giải trong thực tiễn trước khi gật đầu một sự lý giải tâm linh. Một niềm tin khoa học sẽ có giá trị thật sự so với một đạo sinh sơ cơ và giúp cho y thoát khỏi những cạm bẫy của ảo giác và ma thuật .
2 ) Mọi sự giác ngộ hoàn toàn có thể đến với mình, làm sáng tỏ một yếu tố khó khăn vất vả và chỉ đường lối cho chư môn đệ hoặc toàn nhóm phải noi theo. Mọi linh cảm xác nhận bởi lý trí, đưa chư môn đệ tới sự hiểu biết và khêu gợi sự sáng suốt của linh hồn .
3 ) Mọi động tác thần giao cách cảm xảy ra giữa mình với những bạn đồng môn. Động tác này phải được chăm nom vun bón, nhưng nó phải được kiểm đi kiểm lại cẩn trọng nhiều lần và giữ cho được tuyệt đối đúng mực. Như thế tất cả chúng ta sẽ có được ý thức xiễn dương chân lý, nó là cái nguyên tắc quản lý mọi chiêu thức chuyển đi bằng Thần giao cách cảm khi nó được tổ chức triển khai một cách hoàn bị và đúng đắn .
4 ) Mọi hiện tượng kỳ lạ có tính cách thần bí và Thượng Đế cũng phải được ghi nhận. Việc nhìn thấy ánh sáng trong đầu được xếp vào loại này. Ghi nhận sự chói rạng, sự tăng trưởng và lu mờ của nó, sự nghe được lời nói của im re, nó là lời nói của linh hồn nhưng không phải là của tiềm thức và thâu nhận những thông điệp của linh hồn hay của những đệ tử khác và những người phụng sự trần gian, những sự khai triển tâm thức nó Open cho mình bước vào đời sống ý thức của Thượng Đế biểu lộ qua mọi hình hài sắc tướng và sự nghe được cái tiết điệu âm giai của vạn vật. Việc điều tra và nghiên cứu phần thứ ba của quyển YOGA SUTRA của PATANJALI sẽ chỉ loại hiện tượng kỳ lạ nào cần ghi chép trong quyển nhật ký này .
5 ) Mọi kinh nghiệm tay nghề thuộc loại tâm linh ngoài những loại kể trên. Những loại vừa nêu trên thuộc về loại tâm linh thượng đẳng và tương quan đến những năng lực tâm linh thanh cao như sự nhận thức tâm linh, hiểu biết do linh cảm, trực giác thần giao cách cảm địa thế căn cứ trên hoạt động giải trí của luân xa thái dương, hay bí huyệt nơi rún .
Những kinh nghiệm tay nghề thần linh thấp kém cũng hoàn toàn có thể được ghi nhận dù tốt hay xấu. Tuy nhiên, khi đã nhận xong loại này thì hãy bỏ lỡ vì chúng không có gì đáng kể .
Có thể nhiều ngày tháng trôi qua mà không có gì đáng ghi nhận. Điều này không nên làm cho Chư môn đệ vướng mắc, do dự. Sự nhạy cảm của linh hồn so với những linh động tâm linh phải được vun bón, tập luyện, và sự nhạy cảm đang có so với những ấn tượng thần linh hạng thấp phải được loại trừ. Có nhiều âm thanh kêu gào yên cầu được quan tâm, nhiều ấn tượng xuất phát từ những hình thể thuộc cõi hồng trần và cõi trung giới ghi sâu vào tâm thức tất cả chúng ta nhiều đến nỗi những rung động và âm thanh đến từ cõi giới tâm linh nội tại bị mất đi không được tiếp thu và ghi nhận .
Sau độ vài năm Chư môn đệ sẽ thấy thú vị mà nhận thấy sự dị biệt giữa những điều đã ghi vào nhật ký và sự tăng trưởng năng lực nhạy cảm so với loại ấn tượng tốt đẹp. Điều này chỉ hoàn toàn có thể triển khai sau một thời hạn khá lâu, sau khi đã nhận ra và loại trừ nhiều loại ảo giác thuộc cõi trung giới : ảo ảnh, trá hình, trá hình và hình tư tưởng .
Đến đây một câu hỏi khác hoàn toàn có thể được nêu ra : Những đệ tử trong nhóm của một vị Chân Sư lấy gì làm dẫn chứng cho sự thành công xuất sắc của hoạt động và sinh hoạt tập thể. Trước hết và ở số 1, Chư môn đệ đã biết rõ là sự đoàn kết và thống nhất. Không có điều này thì không hề làm được. Sự link tâm linh nội tại của những đệ tử với nhau trong một nhóm, và sự link giữa nhóm này với những nhóm khác cùng làm công tác làm việc đặc biệt quan trọng trong một Đạo Viện, và do hậu quả của việc ấy, sự tạo nên một tâm thức hội đồng của toàn thể Đạo Viện là những tiềm năng thiết yếu. Hy vọng rằng điều này cũng sẽ gây nên một động tác Thần giao cách cảm nó sẽ đưa đến những tác dụng độc lạ và việc làm so với ngoại hữu hiệu .
Từ những hoạt động và sinh hoạt này sẽ phát sinh một sự luân chuyển năng lượng tập thể nó sẽ có tác động ảnh hưởng hữu hiệu trong việc cứu độ trần gian. Mỗi đệ tử hãy nên nhớ rằng một thể xác tinh khiết, những cảm hứng không vọng động và một tâm lý vững vàng là những đức tính cần yếu cơ bản và phả được tập luyện hàng ngày .
Tôi luôn luôn nói trở đi trở lại về những nhu yếu thiết yếu này, và dầu cho nó hoàn toàn có thể là nhàm chán, tôi vẫn nhu yếu chư môn đệ hãy tập luyện những đức tính ấy. Tôi cũng muốn nhắc nhở rằng Chư môn đệ là những người nam và người nữ đã trưởng thành và già dặn, không cần phải nói quá rõ về những đức tính này hay những khuyết điểm kia. Tôi chỉ tìm cách gợi ý, vì đó là toàn bộ những gì tôi muốn đưa ra .
Người đệ tử phải được tự do noi theo một điểm gợi ý hay một ý kiến đề nghị kín kẽ tùy theo sự nhận định và đánh giá của y. Toàn thể việc làm này hoàn toàn có thể coi như một cuộc thí nghiệm về niềm tin hài hòa và hợp lý nội tại và về sự sẵn lòng gật đầu những điểm gợi ý. Đó là một sự thử thách cho linh cảm trực giác và cho đức tính phân biện. Công việc này, trong đó tôi lôi kéo đến sự hợp tác của chư môn đệ, cũng là một sự thí nghiệm đức tính vô tư, sẵn sàng chuẩn bị muốn cộng tác và học hỏi, tự do lựa chọn hay vô hiệu óc quan sát và kỹ thuật hành vi. Tất cả đều có giá trị của nó .
Đó cũng là một cuộc thí nghiệm so với tôi. Từ trước đến giờ tôi chỉ thao tác với 3 đệ tử Âu Tây mà A. Bailey là một. Hai người kia trọn vẹn lạ lẫm so với Chư môn đệ. Tôi nhu yếu sự giúp sức và hợp tác của Chư môn đệ trong những tiến trình tiên phong của việc làm này. Hãy luôn luôn đứng sát cánh với nhau, dù việc gì xảy đến và bất luận mãnh lực nào tìm cách chia rẽ Chư môn đệ với nhau. Các đệ tử hãy yêu quý nhau mặc dầu có sự dị biệt về tánh tình và về Cung của mỗi người. Hãy thành tín thao tác chung với nhau để triển khai sự hòa đồng và hợp nhất tập thể, bất luận về dị biệt quan điểm hay bất kỳ việc gì xảy ra trải qua thời hạn. Nếu chư môn đệ hoàn toàn có thể đoàn kết với nhau lâu dài hơn và suốt trọn chu kỳ luân hồi hoạt động và sinh hoạt hiện tại, thì chừng đó nhóm đệ tử Huyền Môn tất cả chúng ta sẽ hoàn toàn có thể liên tục việc làm trong tương lai và hoạt động giải trí trên những cõi giới khác nữa, như vậy để bảo tồn năng lượng .
Chư môn đệ hoàn toàn có thể tiếp nối việc làm với một sự bền chắc trung kiên như vậy chăng ? Một động tác thần giao cách cảm hoàn toàn có thể được tạo nên như thế nào để cho sự chết không còn là một chướng ngại nữa, và để tiếp nối đuôi nhau sự giao cảm với nhau mãi mãi không còn phân biệt âm khí và dương khí cách trở .
Nhiều câu hỏi tựa như được nêu ra và chỉ có thời hạn mới đưa ra câu vấn đáp. Nếu có sự kiên tâm cố gắng nỗ lực, nếu có sự liên lạc bền chắc của tình thương, nếu có sự trung thành với chủ của lý tưởng hoạt động và sinh hoạt tập thể và nếu có sự khoan hòa, thông cảm và kiên trì hỗ tương với nhau, thì nhóm đệ tử này hoàn toàn có thể đoàn kết thành một đơn vị chức năng, nó sẽ thật sự là một nguyên tử sôi động trong một đại thể của Huyền Cơ Máy Tạo. Tất cả Chư môn đệ đều đang ở vào một quy trình tiến độ này hay quá trình khác trên đường đạo của người đệ tử, và thời cơ vốn nằm sẵn trong tầm tay .
Đây là một nhóm đệ tử thật ra hãy còn nhỏ bé và mặc dầu nó có những khuyết điểm, số lượng giới hạn và công phu hành đạo sai lầm ) nhưng do bởi lòng thành sùng đạo, sự cố gắng làm bổn phận và do liên hệ nghiệp quả hỗ tương giữa họ với nhau và với tôi đã được lựa chọn để thao tác chung với nhau nhằm mục đích một mục tiêu nhất định là xây dựng một TT năng lượng và sức mạnh tâm linh để trợ giúp quả đât. Nhưng trên hết mọi sự đó là một nhóm được xây dựng để khai trương mở bán những giải pháp của KỶ NGUYÊN MỚI về việc làm công tác làm việc tập thể và huấn luyện và đào tạo đệ tử để chuẩn bị sẵn sàng cho họ được điểm đạo, cùng với những nhóm khác trên khắp quốc tế. Những nhóm này đã thấm nhuần một ý niệm mới và đang hoạt động giải trí dưới sự cảm hứng và dìu dắt của những Chân Sư .
Việc xây dựng và phục hưng những Đạo Viện Huyền Môn này cho trần gian mà tôi có đề cập tới trong quyển “ THƯ TÍN NÓI VỀ THIỀN ĐỊNH ” sẽ hoàn toàn có thể thực thi nếu tổng thể chư môn đệ đều đủ sức nắm lấy thời cơ. Điều này cần được ghi nhớ. Sự thí nghiệm ấy hoàn toàn có thể thất bại. Nhưng dù sao, sự thành công xuất sắc hay thất bại rốt cuộc vẫn đưa đến quyền lợi thật sự … Sự mong ước thành thật của tôi là chư môn đệ sẽ biết nắm lấy thời cơ để triển khai việc làm trong ba cõi TAM GIỚI và trong cõi giới thoát ly ánh sáng của linh hồn .

Vì Chư môn đệ gặp được thời cơ này trong một quốc tế đang trải qua một cơn khủng hoảng cục bộ lớn, tôi muốn nhắc nhở rằng tổng thể những đệ tử và đạo sinh đang phụng sự hãy lưu tâm đến ba điều sau đây để hoàn toàn có thể phụng sự hữu hiệu và như ý muốn .
Điều thứ nhất : Các đệ tử nên biết rằng những Chân Sư có ba hạng phụng sự viên. Trước hết nhóm thứ nhất là những người làm công tác làm việc khó khăn vất vả ở ngoài đời. Họ là những hình thể mà Thiên Đoàn hoàn toàn có thể dùng để biểu lộ ý muốn của những Ngài và họ là những khí cụ để tiếp xúc với người trần gian. Có nhiều đệ tử thuộc về hạng này. Họ đang thao tác đó do họ tự ý lựa chọn chính do họ nhận thức nhu yếu cấp bách và tương lai của quả đât, và họ đã cam kết tự nguyện phụng sự .
Kế đó, nhóm thứ hai đóng vai trò trung gian giữa những Chân Sư Minh Triết đại diện thay mặt cho Thiên Cơ và những người phụng sự nói trên. Họ không phải là người liên lạc giữa Chân Sư với người đệ tử, vì đó là một mối liên hệ trực tiếp mà không ai hoàn toàn có thể xen vào, nhất là ở những quy trình tiến độ tiến hóa cao. Tuy nhiên, nhóm đệ tử phụng sự này hành vi như những người trung gian trong việc triển khai Thiên Cơ trên trần gian, và họ tự chuẩn bị sẵn sàng sẵn sàng chuẩn bị đi đến bất kể nơi nào khi được cần đến. Như vậy họ sử dụng minh triết và kinh nghiệm tay nghề của mình để trợ giúp và bổ túc năng lực của những người phụng sự ở ngoài đời .
Hiện nay có nhiều đệ tử thuộc hạng này gửi đi công tác làm việc ngoài đời để hối thúc việc làm mỗi khi hoàn toàn có thể và tăng cường sức hấp dẫn từ điển của những TT thần lực xuyên qua đó sức mạnh tâm linh của Kỷ Nguyên Mới hoàn toàn có thể luân chuyển .
Tất cả những việc này đang được thi hành để chuẩn bị sẵn sàng dọn đường cho một số ít cố gắng nỗ lực khác thường mà Đại Đoàn Chưởng Giáo dự tính sẽ thực thi. Nếu trong lúc này tổng thể Chư môn đệ ở ngoài đời thao tác với một tấm lòng hiến dâng và thành tín trọn vẹn để hết cả thì giờ và tâm lý vào việc làm phụng sự thì việc dọn đường nói trên hoàn toàn có thể diễn ra êm đẹp để cho sự cố gắng sắp tới đây của những Chân Sư sẽ phân phối với tình thế và thành tựu mỹ mãn .
Nhóm thứ ba gồm những Chân Sư và những vị đạo đồ ( đệ tử đã được điểm đạo ) hợp tác ngặt nghèo với những Ngài. Các Ngài hoạt động giải trí trên góc nhìn ẩn vi nội tàng. Những hoạt động giải trí của Ngài phần đông đều tập trung chuyên sâu vào coi trọng thượng giới và vào việc sử dụng tư tưởng một cách khoa học. Bằng cách đó, những Ngài dìu dắt những người trợ giúp và phụng sự và điều khiển và tinh chỉnh những vị đệ tử hoạt động giải trí ở ngoài trần gian .
Trong thời kỳ này, đang có một quan điểm ẩn tàng muốn dung hòa những giải pháp Đông Phương và Tây Phương trong việc hướng về nền đạo lý truyền thống và đời sống siêu linh. Để thực thi điều này một cách hoàn bị, thì sự hợp tác và trao đổi kiến thức và kỹ năng và minh triết với nhau là thiết yếu. Những tiềm năng của cả 2 chiêu thức, thần bí và huyền môn vẫn giống như nhau .
Điều thứ hai : Trong quy trình tiến độ hiện tại, những đệ tử hoạt động giải trí cần đánh giá và nhận định rõ tình thế cấp bách. Có một cuộc khủng hoảng cục bộ trong việc thế sự của trần gian. Cơn khủng hoảng cục bộ này phải được ý niệm như một thời cơ chứ không phải như một tai ương. Cũng như trong đời của người học đạo, sẽ có một hay nhiều kiếp trong đó sự xung đột trực tiếp giữa linh hồn cao quý và đặc thù thấp hèn, thì ngày này cũng có một con người khủng hoảng cục bộ tựa như trên quốc tế. Trong cả hai trường hợp tiềm năng đều là sự trấn áp của linh hồn với góc nhìn hình hài sức khỏe thể chất .
Nhìn vào yếu tố này từ một góc nhìn khác, linh hồn của toàn cầu hoạt động giải trí dưới hình thức một Đại Đoàn Chưởng Giáo trong đó những vị Chân Sư đang xung đột trực tiếp với những lực lượng hắc ám của trần gian. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng những lực lượng ấy cũng họp thành một tổ chức triển khai những cấp đẳng chân linh, gồm những hình thể vật chất, và bởi đó là đúng và thật trong cương vị của chúng. Thật ra đó là một yếu tố đặt tiềm năng cho mỗi chu kỳ luân hồi thời hạn nhất định. Mục tiêu hiện thời là mái ấm gia đình quả đât nói chung lúc bấy giờ phải triển khai 3 điều sau đây và bất kể việc gì trái lại đều là hắc ám, tà vạy .
1 ) Biểu lộ đặc thù của linh hồn xuyên qua phàm ngã. Tính chất của linh hồn là tình thương và ý chí hành thiện .
2 ) Chuyển di năng lượng hiện thời đang hướng về việc tăng cường sinh khí cho thể xác và tạo tác giống nòi, cho nó hướng về việc nuôi dưỡng năng lực phát minh sáng tạo trên cõi trí tuệ. Như thế toàn thể mái ấm gia đình quả đât sẽ được thăng hoa trở thành một cơ cấu tổ chức sinh động, tự ý thức và phát minh sáng tạo .
3 ) Phát động một thời kỳ khai triển tâm linh trong mọi loài trong vạn vật thiên nhiên. Vào cuối thế kỷ này, cửa ngỏ đưa vào sự tiến hóa của loài cầm thú sẽ được mở lại, và những linh hồn ấu trĩ còn đang chờ đón đầu thai sẽ được cung hiến thời cơ này .
Vào lúc ấy cũng có nhiều linh hồn được điểm đạo, và như vậy là có sự quân bình lực lượng ở cả hai đầu con đường tiến hóa của quả đât. Điều này phải đến do sự tái diễn hoạt động giải trí từng chu kỳ luân hồi của Đại Đoàn Tiên Thánh và sẽ được thôi thúc tiến tới qua sự trung gian của những năng lượng phát động Kỷ Nguyên Mới .
Cơn khủng hoảng cục bộ này đến với tất cả chúng ta phần nhiều quá sớm, do sự tân tiến một cách quá nhanh gọn của trái đất kể từ năm 1850. Do động cơ thôi thúc của chính loài người, một cõi giới mới và một chiều đo mới đã được tiếp xúc. Nhân loại đã giải tỏa những năng lượng chưa từng có từ trước đến nay và gây nên những hậu quả có tính cách lưỡng nguyên, tốt cũng như xấu .
Điều thứ ba : Những đệ tử lúc bấy giờ phải tự tổ chức triển khai để triển khai một nỗ lực nhất trí và bền chắc. Điều này phải Open dưới hình thức một sự hợp tác ngặt nghèo hơn giữa tổng thể những nhóm và một sự đoàn kết trong một mối đối sánh tương quan mật thiết hơn, như vậy để tăng cường củng cố lẫn cho nhau, và nếu hoàn toàn có thể cùng chung sống lưng góp phần tài nguyên với nhau. Nó cũng phải gây nên một cuộc đồng tiến nhất trí của toàn bộ những cơ quan niềm tin và tâm linh và phổ cập chân lý bằng tổng thể mọi đường lối vào quảng đại quần chúng .
Cũng như trong thời kỳ văn minh châu Atlantide, những sức mạnh tâm linh bị chịu ràng buộc những dục vọng ích kỷ của con người, thì thời nay chúng bị phụ thuộc trí khôn và lòng tham vọng của thế nhân, đưa đến những hậu quả vô cùng tai hại. Tình hình quốc tế thời nay chứng tỏ điều đó. Đó là vì tuy có vài xứ triển khai được sự hùng cường và thịnh vượng vật chất do vài cuộc thí nghiệm lớn lao, điều đó chỉ biểu dương sự thắng lợi về sức khỏe thể chất đấm đá bạo lực và rốt cuộc cũng sẽ trở thành số lượng không .
Cũng như mỗi người tranh đấu tích cực trong một kiếp sống để đạt được những thành quả cá thể, thì những vương quốc cũng vậy. Tuy nhiên ở TT của mỗi vương quốc có tiềm ẩn một linh hồn thiêng liêng bí nhiệm và sau bao cơn chiến đấu gay go đau khổ, rốt cuộc mọi sự đều được xử lý bảo đảm an toàn. Những khuynh hướng duy vật và tăng cường bản ngã, dưới một kế hoạch to tát hơn và ý chí hành thiện phải được xóa bỏ bởi một tác động ảnh hưởng phản ngược của đời sống tâm linh và đó phải là tiềm năng hành vi của tổng thể những đệ tử tích cực phụng sự .
Bởi vậy, những đệ tử hoạt động giải trí hãy làm thế nào cho tình thương của họ so với chúng sinh được sâu rộng hơn và sự tăng trưởng tình thương đến với họ bằng cách rút trong tình thương tập thể của toàn nhóm, nó vốn nằm ở đằng sau mọi diễn biến trên trần gian. Hỡi chư môn đệ, khi nào mời đến lúc mà trần gian sẽ nhận thức được rằng góc nhìn “ tình thương ” của Thượng Đế, khi nó tác động ảnh hưởng đến quả đât, được ban rải xuống trần gian xuyên qua nhóm đệ tử nội môn phụng sự. Tình thương đó lúc bấy giờ đang ở trong quá trình trụ vào cõi hạ giới hồng trần xuyên qua những nhóm đệ tử mới ( như nhóm của tất cả chúng ta đây ) đang được hình thành ở khắp nơi trên quốc tế. Những nhóm mới này phải là những TT của tình bác ái thiêng liêng, có năng lượng từ điển đầy tính cách kiến thiết xây dựng và thuần khiết. Bởi vậy, hãy làm thế nào để thích ứng với nhu yếu trong năng lực sức khỏe thể chất sức khỏe thể chất của mình và hãy nhớ rằng Chư môn đệ có đủ sức để làm những nỗ lực nhiều hơn và lớn lao hơn khi nào kể từ trước đến nay .
Cuộc thí nghiệm này mà tôi chủ trương và chư môn đệ đã tự nguyện và sẵn lòng tham gia là một khu công trình được thực thi vì những mục tiêu của toàn nhóm. Thiên Đoàn muốn biết xem những nhóm nói chung được nhạy cảm đến mức nào so với sự hướng dẫn của Thiêng Liêng và những đường lối giao cảm được thông suốt đến độ nào giữa những đệ tử trong nhóm với Chân Sư, và giữa những nhóm khác nhau trong Đạo viên của một Chân Sư .
Nhóm đệ tử của một Chân Sư trên góc nhìn ẩn vị nội tàng của cuộc sống, là một cơ quan tích hợp ngặt nghèo với những đặc tính hoạt động và sinh hoạt, tình thương và liên giao với nhau. Những mối đối sánh tương quan liên hệ trong một nhóm như vậy trọn vẹn là ở trên mức độ Thượng Giới và Trung Giới và bởi đó có những khiếm, khuyết số lượng giới hạn của thể dĩ thái và khối óc vật chất không nhận thấy được .
Tưởng không cần nói rằng, mối liên hệ cơ bản là ở trên tầm mức của linh hồn. Sự kiển thể dĩ thái và khối óc vật chất nằm bên ngoài những mối đối sánh tương quan cơ bản ở đó trong một Đạo Viện, đưa đến một sự cảm thông thuận tiện hơn và một sự liên giao mật thiết hơn. Tuy nhiên phải nên nhớ rằng tiềm lực cõi trung giới có tính năng can đảm và mạnh mẽ trên cõi hồng trần hơn bất kỳ ở đâu, và bởi đó trong toàn bộ những sách vở huyền môn nói về sự sẵn sàng chuẩn bị bước vào cửa đạo đều có nhấn mạnh vấn đề về sự trấn áp xúc cảm về dục vọng. Người sơ cơ trên đường đạo không không dễ gì hiểu nổiđiều ấy hay thấy rõ sự thiết yếu của những quy luật và thông tư đưa ra. Đối với vài người tuần theo luật lệ và giữ gìn kỷ luật không phải là một điều khôn ngoan mà tuân theo những lời gợi ý đó trong khi chư môn đệ đã tự nguyện đặt mình dưới sự hướng dẫn của tôi. Việc này trọn vẹn do ý muốn và sự tự do lựa chọn của chư môn đệ. Chư môn đệ không bị chịu ràng buộc dưới một áp lực đè nén nào cả. Những hạng đệ tử khác tỏ ra sẵn lòng tuân theo thông tư, nhưng sự khó khăn vất vả của họ là kiểm soát và điều chỉnh đời sống cách nào cho hòa hợp với những nhịp điệu mong ước. Con đường nhỏ hẹp và tổng thể những đệ tử phải đi qua, bắt buộc phải tuân theo những giới luật cổ dành cho những đệ tử huyền môn. Họ sẵn lòng tuân thủ giới luật một cách sáng suốt tỉnh táo, tuy rằng không hề có sự bắt buộc vận dụng những giới luật ấy một cách ngặt nghèo, máy móc. Người đệ tử tân tiến bằng cách thích ứng cuộc sống mình một cách th6ng minh với những giới luật đó trong khoanh vùng phạm vi hài hòa và hợp lý và hoàn toàn có thể được, chứ không phải áp đặt những dụng giới luật đó vào cuộc sống mình. Sự linh động co và giãn trong một số lượng giới hạn nào đó vẫn là thiết yếu nhưng không nên để cho sự lười biếng của phàm ngã hay sự cật vấn của lý trí làm cái động lực của sự co và giãn ấy .
Ngày nay đã có một sự biến hóa trong mối đối sánh tương quan giữa những đệ tử. Một cố gắng nỗ lực đang được dự trù để xem hoàn toàn có thể nào xây dựng trên cõi trần gian một hoạt động và sinh hoạt và liên giao tập thể, việc này đương nhiên sẽ sử dụng thể dĩ thái và khối óc. Bởi vậy chư môn đệ sẽ phải đương đầu với những khó khăn vất vả lớn, và tôi mong rằng chư môn đệ hãy nên nhận thức rằng bất kỳ một sự bất đồng ý kiến nào hoàn toàn có thể xảy ra trong nhóm đệ tử này là do những phản ứng của bộ óc xúc cảm, và vì thế không nên coi là quan trọng chút nào. Chúng phải được loại trừ ngay tức khắc ra khỏi trí não và ký ức và phải được trọn vẹn coi như những yếu kém của phàm ngã không xứng danh làm trở ngại cho sự đoàn kết của nhóm .
Cuộc thí nghiệm này do một nhóm đệ tử trong Đạo Viện của tôi triển khai, là một sự thí nghiệm của sự giao cảm trí não và tiếp xúc với linh hồn. Những phản ứng của bộ óc vật chất và xúc cảm phải được coi như những ảo giác vốn không có thật và phải được loại ra ngoài vòng của tâm thức tập thể để cho nó tự tiêu mòn vì sự thiếu quan tâm. Loại công tác làm việc tập thể này là một cuộc phiêu lưu mới, và nếu cuộc thí nghiệm này không đem lại tác dụng dưới hình thức một cái gì trọn vẹn mới mẽ tân kỳ thì giờ và công lao sẽ bị tiêu tốn lãng phí vô ích. Chư môn đệ đừng nên nghĩ rằng, ngành hoạt động giải trí đặc biệt quan trọng mà mình theo đuổi là yếu tố đáng kể nhất. Không phải việc khai mở trực giác, hay quyền lực chữa bệnh, hay thần giao cách cảm là điều quan trọng. Điều đáng kể với Thiêng liêng khi Đạo Viện hoạt động giải trí là việc thiết lập một nhóm liên giao và đối sánh tương quan tập thể can đảm và mạnh mẽ đến mức hoàn toàn có thể được coi như mầm mống Open của một sự hợp nhất đại đồng trên trần gian .

Một quyền năng tác động thần giao
cách cảm tập thể hay khả năng trực giác tập thể để tìm ra chân lý đều có giá trị
tương đối mới. Sự hoạt động của những nhóm có khả năng làm việc trong sự hợp nhất,
với một lý tưởng duy nhất, mà những phàm ngã cá nhân đều hòa hợp làm một động lực
chung để tiến bộ, mà tiết điệu chỉ có một và sự hợp nhất đó được củng cố chắc
chắn vững vàng đến mức không gì có thể gây nên trong nhóm những tính chất nhân
bản của sự chia rẽ, cô lập và dục vọng ích kỷ cá nhân, chính điều đó mới thật
là mới. Những người vị tha vô kỷ không phải là hiếm có. Những nhóm vị tha vô kỷ mới thật là hiếm. Lòng thành tín vô tư thuần khiết trong một người không phải hiếm
nhưng nó rất khó tìm thấy trong một nhóm. Việc đặt quyền lợi cá nhân lệ thuộc
và hạnh phúc chung của gia đình hay của một tha nhân là điều thường thấy, vì
cái đẹp của lòng người vẫn từng biểu lộ trải qua thời gian. Tìm thấy cái thái độ
đó trong một nhóm người và thấy một quan điểm như thế được duy trì gìn giữ với
những tiết điệu thường xuyên không gián đoạn và bộc lộ tự nhiên, đó sẽ là cái
thành quả huy hoàng của KỶ NGUYÊN MỚI.

Nhìn thấy sự link của tình thương và đối sánh tương quan giữa linh hồn được triển khai và sử dụng trong công tác làm việc và hoạt động và sinh hoạt tập thể, đó thật là một điều mới mẽ và đạt được điều đó là cái lý tưởng mà tôi nêu ra cho nhóm đệ tử này. Nếu nhóm này đạt tới cái viễn ảnh như tôi đã phác họa trong trí, thì chừng đó sẽ được thiết lập ở cõi trần những TT thần lực đặc biệt quan trọng, xuyên qua đó Thiên Đoàn hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng một cách chắn chắn hơn khi nào hết. Xuyên qua nhóm này và những nhóm tương tự như, sẽ được chuyển vận trên địa cầu một màng lưới năng lượng tâm linh để trợ lực cho việc làm phục hưng và tái tạo quốc tế. Ảnh hưởng của những nhóm này khi đã được thiết lập vĩnh viễn và hoạt động giải trí hữu hiệu, sẽ có một tiềm năng thoáng rộng bao quát hơn là chỉ có việc nâng cao trình độ của trái đất mà thôi .
Cái nhịp điệu sinh khí mãnh liệt của Thiên Đoàn sẽ biểu lộ khắp nơi trên địa cầu, và những nhóm này, nếu thành công xuất sắc, hoàn toàn có thể coi như bước tiên phong đưa đến việc Open của Huyền Môn Chánh Đạo trên trần gian. Nhưng nên nhớ rằng yếu điểm then chốt của Huyền môn không phải là thành quả hay quý phái. Nó là mối đối sánh tương quan thống nhất tư tưởng với sự phức tạp đa diện của chiêu thức hành vi và đặc thù của nó là tình thân hữu trong ý nghĩa thuần khiết nhất. Thiên Đoàn là một tập thể những linh hồn cùng chung một nguyện vọng phụng sự, do sự thôi thúc của động lực tình thương, chói rạng bởi một ánh sáng đơn thuần kết hợp thành từng nhóm những trí năng phụng sự và hoạt động và sinh hoạt bởi một sự sống duy nhất. Những Đấng thành viên của Thiên Đoàn được tổ chức triển khai để thực thi Thiên Cơ mà những Ngài tiếp xúc một cách ý thức và tích cực hợp tác .
Bởi vậy, chư môn đệ sẽ thấy rõ ràng mục tiêu của những nhóm này là khai mở kịp thời ba loại thế lực chính của toàn bộ những Đấng Trí Lực Thông Tuệ .
Thứ nhất : Quyền năng hoạt động giải trí với mọi vật liệu tư tưởng Tập Đoàn những trí lực Thông Tuệ là một nhóm gồm những Đấng có quyền lực thần giao cách cảm giúp cho những Ngài được bén nhạy với những trào lưu tư tưởng, và ghi nhận những tư tưởng của những Đấng Thể hiện Trí lực của Thượng Đế, tức Đại Trí Tuệ của Vũ Trụ. Các Ngài cũng ghi nhận những hình tư tưởng của những Đấng còn cao hơn rất xa so với Tập Đoàn những Đấng Chân Sư, cũng như những Chân Sư còn cao hơn rất xa so với những vị đệ tử của trần gian .
Những Đấng Cao cả thi hành ý niệm của Trí Lực thiêng liêng vẫn hằng có trên những cấp đẳng khác nhau. Chúng ta không cần phải đi sâu vào chi tiết cụ thể về cơ cấu tổ chức tổ chức triển khai của những Ngài, trừ ra một việc này là Thiên Đoàn trên đ5ia cầu luôn luôn vẫn tiếp xúc bằng thần giao cách cảm với những Đấng có nghĩa vụ và trách nhiệm về trạng thái của những hành tinh trong Thái Dương hệ, mà Đại Hội Đồng đặt tại SHAMBALLA. Các Ngài cũng luôn luôn tiếp xúc bằng thần giao cách cảm với nhau. Những tính năng vô tuyến truyền thanh và truyền hình chẳng qua chỉ là sự phản ảnh trên cõi vật chất của những quyền lực thần giao cách cảm đã được rèn luyện đến mức kiện toàn của những Chân Sư Minh Triết. Đừng quên rằng những thế lực đó vẫn tiềm tàng nơi tổng thể mọi người .
Nhóm Chân Sư nội môn mà tôi có liên hệ mật thiết cũng thao tác bằng thần giao cách cảm với những đệ tử của những Ngài, và những đệ tử cũng tiếp xúc với nhau bằng cách đó ở mức độ thấp hơn. Các thế lực “ nhìn ” thấy một vị Chân Sư, một phản ứng lầm lạc của người học đạo thay vì mong ước một sự tiếp xúc với linh hồn, chỉ là sự ứng đáp của họ so với công dụng “ truyền hình ” của những ĐẤNG CAO CẢ muốn tìm cách dìu dắt họ đi vào ánh sáng linh hồn của chính họ. Họ chỉ có phản ứng so với một trong những thế lực thiêng liêng của Chân Sư, chớ không ứng đáp với ảnh hưởng tác động của Chân Ngã .
Sự phân phối của Chư Môn Đệ so với mọi sự khuyến khích của tôi đưa ra và sự cố gắng ban rải tình thương một cách vô tư sẽ lần lần hoàn thành xong nơi Chư môn đệ một mối tương quan tựa như so với những người phụng sự khác. Điều này sẽ được triển khai theo ba hướng sau đây :
1 ) Khả năng tiếp xúc bằng Thần giao cách cảm với tôi và với những Đấng Cao Cả mà tôi có liên hệ mật thiết .
2 ) Khả năng tiếp xúc bằng Thần giao cách cảm giữa chư môn đệ với nhau vào bất kỳ khi nào .
3 ) Nhạy cảm so với những trào lưu tư tưởng của trái đất nói chung .
Bởi vậy chư môn đệ thấy chặng bằng cách nào một quy mô thu nhỏ của Thiên Đoàn có được thiết lập trên địa cầu, và bằng cách nào trong những thập niên tới đây, những đệ tử phụng sự ngoài đời, những vị đạo đồ lẻ tẻ trong nhiều tổ chức triển khai của quốc tế và những nhân viên cấp dưới trong nhóm Người Phụng Sự trần gian sẽ đương nhiên phân phối với sự thụ cảm nhạy bén bằng cách T.G.C.C của những nhóm hoạt động giải trí trong nhiều Đạo Viện của những Chân Sư. Kết quả của sự thành công xuất sắc này sẽ không phải là việc thừa nhận một nhóm đặc biệt quan trọng nào, nhưng nó sẽ đem đến việc thừa nhận một thế lực bao quát đại đồng và tâm trạng của những đệ tử thuộc mọi trình độ, quý phái. Điều này sẽ củng cố sự hợp nhất của tổng thể chúng sinh một cách kịp thời và không còn nghị luận .
Việc biểu lộ sự hợp nhất thế lực tư tương là sự kết thúc huy hoàng việc làm của Thiên Đoàn, và điều này chư môn đệ cũng như tổng thể những đệ tử sẽ ứng đáp vào những lúc niềm tin sảng khoái nhất. Trên một phương diện nhỏ bé hơn và tùy theo mức độ hiến dâng của mình, nó hoàn toàn có thể là sự huy hoàng và cũng là mục tiêu của mình nếu như chư môn đệ giữ luôn luôn trong trí cái tư tưởng hợp nhất phụng sự và trên hết mọi sự, tình thương .
Thứ hai : Quyền năng trực giác, vốn là mục tiêu của phần lớn việc làm mà người đệ tử phải làm, cần đến sự khai mở của một năng lực khác trong con người. Trực giác cũng là một công dụng của trí tuệ, và nó được sử dụng đúng đắn, nó giúp cho ta hiểu được chân lý một cách rõ ràng và nhìn thấy thực sự không bị che lấp bởi ảo ảnh và ảo giác của tam giới. Khi trực giác hoạt động giải trí trong một người, người ấy hoàn toàn có thể hành vi trực tiếp và đúng đắn vì y được tiếp xúc với Thiên Cơ, và những việc thuần khiết không bị ô nhiễm, ý tưởng sáng tạo không bị méo mó xiêu vẹo bởi ảo giác và đến trực tiếp với y từ Trí Tuệ Thiêng Liêng hay Đại Trí Tuệ của Vũ Trụ. Sự khai mở năng lực này sẽ đưa đến việc trần gian thừa nhận Thiên Cơ, và đó sẽ là thành quả lớn nhất của trực giác trong chu kỳ luân hồi quốc tế hiện tại. Khi người ta nhận thức được Thiên Cơ, sẽ đến lúc họ nhận thức được sự hợp nhất của vạn vật, sự tổng hợp của cơ tiến hóa trên quốc tế và sự như nhau của mục tiêu Thiêng liêng. Chừng đó mọi sự sống và mọi hình thể đều được nhìn thấy trong cái tướng của chúng, và người ta sẽ có được một ý niệm đúng đắn về giá trị của sự vật và về thời hạn. Khi người ta đã thật sự do trực giác mà biết được Thiên Cơ, qua sự trực tiếp linh cảm ngay từ lúc đầu, họ sẽ không khỏi có những cố gắng nỗ lực thiết kế xây dựng và không có sự cố gắng nào là mất đi .
Sự hiểu biết thiếu sót, nông cạn bởi kẻ ngu dốt, họ diễn đạt Thiên cơ qua những câu truyện của người khác nói lại ở đợt nhì hay đợt ba, là nguyên do của sự tiêu tốn lãng phí công lao vô ích và của những hành vi dại khờ, vốn là đặc thù của vài tổ chức triển khai Huyền môn trên quốc tế lúc bấy giờ .
Những nhóm đệ tử trong một đạo viện của Chân Sư hoàn toàn có thể thi hành vài loại việc làm và làm môi trường tự nhiên thí nghiệm cho những công tác làm việc đặc biệt quan trọng. Vài nhóm hoàn toàn có thể đáp ứng thiên nhiên và môi trường thí nghiệm cho những đệ tử được huấn luyện và đào tạo thi hành công tác làm việc quan sát ở ngoài đời và hoàn toàn có thể ứng phó với ảo ảnh và ảo giác của cuộc sống trần gian. Những nhóm khác hoàn toàn có thể tập trung chuyên sâu vào việc tăng trưởng năng khiếu sở trường TGCC và trở nên những nhà giao cảm trình độ. Mục tiêu chính yếu của Thiên Đoàn ( Đ.Đ.C.G ) trong thời kỳ này là bẻ gãy và phá vỡ những ảo ảnh, ảo giác của cuộc sống thế tục. Điều này phải được triển khai trên quy mô của quốc tế, cũng như nó được triển khai trong đời sống của đệ tử. Cũng như một người khi đi trên đường đạo, vận động và di chuyển điểm tập trung chuyên sâu tâm thức lên cõi thượng giới ( trí tuệ ) và tập phá vỡ ảo giác nó vẫn giữ ri61t y lại ở cõi trung giới ( dục vọng ) thì ngày này yếu tố được đặt trước Đ.Đ.C.G là đem lại một tác động ảnh hưởng tựa như trong đời của toàn thể trái đất nói chung, do tại quả đât nay đang tiến đến ngã ba đường và tâm thức của nó đang trụ cột một cách mau chóng trên cõi trí tuệ. Ảo giác và ảo ảnh của trần gian phải được tiêu diệt vì nó làm cho con người bị trớ trêu khổ sở .
Bằng cách tập phá vỡ ảo giác, ảo ảnh trong đời mình và tập sống trong ánh sáng của trực giác, người đệ tử co thể tăng cường bàn tay của những Đấng Cao Cả có trách nhiệm làm thức tỉnh trực giác của quả đât. Có nhiều loại ảo ảnh, ảo giác khác nhau và những đệ tử thường hay kinh ngạc khi họ được biết những gì những Chân Sư coi như là ảo giác và ảo ảnh. Tôi xin kể ra vài loại ảo giác thường thì để cho chư môn đệ tự mình thi hành mọi vận dụng thiết yếu và nới rộng ý niệm ấy từ cá thể đến toàn thể quả đât. Đây là vài loại nói trên .
1 ) Ảo ảnh về định mệnh : Ảo ảnh này là mcho hành giả nghĩ rằng y có một sứ mạng quan trọng phải làm, rồi y tưởng nghĩ, nói năng và hành vi giống như định mệnh đã sắp xếp. Điều này nuôi dưỡng tính kiêu căng, nó thật ra vốn vô căn cứ .
2 ) Ảo giác về chí nguyện : Người bị ảo giác này trọn vẹn tỏa mãn, bộn bề với những tham vọng trên đường tầm đạo của mình và tự mãn với sự kiện rằng họ là những người chí nguyện. Những người cần phải tiến bước trên đường đệ tử Đệ tử Huyền Môn và chấm hết những bộn bề, thỏa mãn nhu cầu tham vọng tâm linh của mình .
3 ) Ảo giác về tự tín : Với ảo giác này, người đệ tử luôn luôn cho rằng quan điểm của mình là trọn vẹn đúng. Điều này cũng nuôi dưỡng thói kiêu căng và làm cho người đệ tử tự tin rằng mình là một quyền bất khả xâm phạm. Đó là cái tật cố hữu của nhà Thần học .
4 ) Ảo ảnh về bổn phận : Ảo ảnh này làm cho người đệ tử đặt ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm lên một tầm mức quá cao, gây nên những hành vi vô ích chú trọng quá đáng đến điều không thiết yếu .
5 ) Ảo giác về thực trạng : Thường đưa đến một ý niệm bất mãn, hoặc ý thức về sự vô vọng hay về tầm mức quan trọng của mình .
6 ) Ảo ảnh về trí năng : Làm cho người đệ tử tưởng rằng trí khôn của mình có hiệu năng, và hoàn toàn có thể ứng phó với toàn bộ mọi yếu tố. Điều này tất yếu đưa đến sự cô lập và đơn độc .
7 ) Ảo ảnh về sùng tín : Gây nên một sự khích động quá mức của thể tình cảm. Người bị ảo ảnh này chỉ nhìn thấy có một ý niệm, một cá thể, một uy quyền và một góc nhìn của chân lý. Nó nuôi dưỡng lòng cuồng tín và sự ngã mạn tâm linh .
8 ) Ảo giác về dục vọng : Với ảnh hưởng tác động phản xạ của nó trên thể xác. Điều này đưa đến một trạng thái tranh chấp và loạn động tiếp tục. Nó làm mất sự bình an và năng lực thao tác hữu hiệu. Ảo giác này có ngày phải được chấm hết .
9 ) Ảo giác về tham vọng cá thể : Có nhiều loại ảo giác và ảo ảnh khác nữa, vừa ở mức độ cá thể, vừa ở trên mức độ của trần gian, nhưng bấy nhiêu cũng đủ tiêu biểu vượt trội cho khuynh hướng chung .
Những đệ tử đang sẵn sàng chuẩn bị điểm đạo phải tập tác động ảnh hưởng vó ý thức với ảo ảnh. Họ phải hành vi hữu hiệu với chân lý được trình diễn, quên hẳn đi mọi điều đau khổ hay vướng mắc của lý trí, nó thường đi kèm với sự phản loạn và số lượng giới hạn của phàm ngã. Họ phải vun trồng “ Đức thản nhiên siêu phàm ” so với những yếu tố cá thể, nó là tín hiệu điển hình nổi bật của người đạo đồ chân chính .
Tôi sẽ không nói thêm nhiều về yếu tố ảo ảnh, ảo giác tương quan đến nhóm đệ tử đặc biệt quan trọng này trong Đạo Viện của tôi .
Thời giờ đang cấp bách và nhu yếu của trái đất khẩn trương đến nổi tất cả chúng ta không cần lập lại những điều đã biết, hoặc nhắc nhở lại lần nữa những gì cần phải làm. Chư môn đệ nên biết rằng, không có sự mau lẹ hấp tấp vội vàng trong việc làm của Chân Sư so với những đệ tử. Không có sự quay quồng trong việc làm mà tôi muốn tất cả chúng ta cùng làm chung với nhau, nhưng đồng thời cũng không nên có sự tiêu tốn lãng phí thời giờ hoặc công lao một cách vô ích. Chư môn đệ sẽ thấy rõ ràng nhiều việc mà tôi muốn thực thi có kế hoạch đến việc trấn áp tư tưởng và sự hoạt động giải trí của óc tưởng tượng phát minh sáng tạo Đ.Đ.C.G tạo tác động ảnh hưởng của mình trên cõi giới sắc đối sánh tương quan mãnh lực của tư tưởng hợp nhất và có ý thức .
Việc tạo nên một trạng thái tư tưởng hợp nhất như vậy trong nhóm người phụng sự trần gian là một phần hoạt động giải trí chánh của tôi trong thời đại này. Chúng ta sẽ không làm được gì nhiều trước khi điều đó được thực thi .
Như thế, tôi lôi kéo chư môn đệ hãy bước vào một quá trình mới với một sự hoạt động và sinh hoạt tâm linh ráo riết và tư tưởng tích cực, nhưng lần này với một mục tiêu tập thể, mục tiêu đoàn kết hỗn hợp trong nhóm, tư tưởng hợp nhất trong nhóm và liên hệ thanh toán giao dịch trong nhóm … Chính đời sống suy tư nội tại, sự thừa nhận linh hồn và sự kiểm soát và điều chỉnh linh hồn với phàm ngã là những điều quyết định hành động sự thành công xuất sắc của việc làm này .

Thứ
ba: Có một quyền năng lớn khác nữa của trí tuệ cần được
khai mở. Tất cả những linh hồn giải thoát bất luận họ thuộc về cung nào, đều có
quyền năng này, đó là quyền
năng chữa bệnh
. Công việc này hãy còn phôi thai và tâm
thức cũ của nhóm hãy còn quá trẻ nên tôi không cần phải nói nhiều hơn về những
triển vọng tương lai. Khi nào con người có thể được huấn luyện để trở nên từ điển
xạ (magnetic) và vô tuyến xạ (radio active) một cách vô kỷ và thiêng liêng, chừng
đó sẽ được tuôn tràn xuống thế gian những nguồn thần lực sinh động và hàn gắn,
nó sẽ loại trừ điều ác và chữa lành bệnh tật. Từ trước đến nay những cố gắng
trên địa hạt y khoa, chữa bệnh và những hình thức cứu chữa khác đều là kết quả
của những mưu toan ứng đáp với những nguồn thần lực nói trên, nhưng chỉ mới có
thế thôi.

Đó là ba thứ quyền lực lớn mà hành giả hoàn toàn có thể khai mở. Những năng lực khác chỉ là sự khai diễn thêm của 3 loại thế lực này : Chuyển di tư tưởng, trong cả hai chiều thu nhận và truyền đi. Nhận ra chân lý bằng trực giác và công thức hóa nó thành những quan điểm, cùng với phương pháp bộc lộ những gì đã cảm nhận được bằng trực giác, một định thức cao nhất của việc làm phát minh sáng tạo. Chữa bệnh, với sự hiểu biết về những năng lượng và sức mạnh về sau này sẽ đưa đến sự Phục hồi của quả đât .
Lần lần, viễn ảnh về những triển vọng, năng lực và về Thiên Cơ sẽ hiện rõ khi cái trí lực của Chư môn đệ được nhạy bén hơn và khối óc trở nên dễ cung ứng hơn so với những động lực tư tưởng. Lần lần, những đệ tử ngoài trần gian sẽ nỗ lực biểu lộ trên cõi giới hồng trần những gì đang có trong trạng thái vô vi, tiềm ẩn. Lần lần sẽ Open khắp nơi trên quốc tế và những nhóm linh cảm giác ngộ hoàn toàn có thể hợp tác với những Chân Sư trong sự trọn vẹn tự do tiếp xúc, do tại năng lực phân phối của họ được đào tạo và giảng dạy và tăng trưởng một cách khoa học. Quyền năng hoạt động giải trí đồng nhịp hay điều hòa tiết điệu với Đ.Đ.C.G, năng lực họ hợp tác với hoạt động và sinh hoạt tập thể của nhiều nhóm đệ tử khác, truyền đạt ánh sáng tâm ý và giác ngộ cho trần gian, sau này sẽ là những việc được triển khai đơn cử và lúc bấy giờ đã hoạt động giải trí can đảm và mạnh mẽ, tích cực hơn chúng tưởng. Một ít viễn tượng làm cho bước đường của người đệ tử được thuận tiện hơn và do đó tôi khai triển không ít về những triển vọng tương lai, mà với sự tiên liệu trước, tất cả chúng ta coi như những vấn đề đã biểu lộ. Không gì hoàn toàn có thể ngăn chận sự thành tựu của Thiên cơ, đó chỉ là một yếu tố thời hạn .
Một trong những quá trình huấn luyện và đào tạo sắp tới đây là việc tạo nên một sự tiếp xúc, ngặt nghèo hơn với tôi, Đạo Sư Tây Tạng của chư môn đệ. Điều này chư môn đệ phải làm mà không dự trù trước hiệu quả sẽ ra sao, nếu hiệu quả ấy phải được triển khai một cách khách quan. Về phía tôi, những tác dụng hoàn toàn có thể cảm nhận được bởi một mình tôi mà thôi .
Còn về phía chư môn đệ, chúng hoàn toàn có thể đến dưới vài hình thức rõ ràng hay hiện tượng kỳ lạ nhiệm màu. Tôi không nói ra những tác dụng của một hoạt động giải trí như vậy, vì năng lực ám thị và óc tưởng tượng phát minh sáng tạo là một nguồn gốc phong phú và đa dạng của mọi ảo ảnh. Bởi vậy, tôi nhu yếu toàn bộ chư môn đệ hãy cố gắng nỗ lực tiếp xúc vào ngày trăng tròn mỗi tháng. Hãy chịu khó quyết tử để thiết lập sự tiếp xúc định kỳ hàng tháng, trong khi ấy, tôi cũng tự kiểm soát và điều chỉnh để tiếp xúc với chư môn đệ. Tôi muốn nhấn mạnh vấn đề rằng cần giữ ý niệm về sự tiếp xúc ấy trong ba ngày liền trước ngày trăng tròn với nguyện vọng và tin cậy, và trong ba ngày sau đó với niềm kỳ vọng và cậy trông. Điều quan trọng nhất là hãy coi việc đó như một hoạt động và sinh hoạt tập thể chứ không phải là sự tiếp xúc cá thể. Hãy bắt tay vào việc với sự nhận thức rõ mối liên hệ tập thể với những bạn đồng môn và với tôi, vì chỉ khi nào mỗi người tìm cách tiếp xúc với tôi trong tư thế của một đệ tử trong một nhóm tập thể, thì mức độ thành công xuất sắc mới đáng kể .
Sự tiếp xúc này không giống như sự tiếp xúc cá thể trực tiếp giữa một đệ tử với Chân Sư. Nhiều người trong chư môn đệ có sự liên lạc mật thiết với Chân Sư tuy họ chỉ hoạt động giải trí trong thời điểm tạm thời trong Đạo Viện của tôi. Sự tiếp xúc của chư môn đệ với tôi sẽ là một cuộc tiếp xúc tập thể và trong cương vị của một nhóm chư môn đệ sẽ tìm cách tăng cường mối liên hệ giữa tất cả chúng ta. Bởi đó, đây là một hành vi phụng sự tập thể cần làm một cách vô kỷ lợi tha, và không mong ước trông đợi điều gì riêng cho cá thể mình cả .
Vì thời giờ cấp bách và nhu yếu khẩn trương của việc làm phụng sự, tôi là một trong những vị Đạo Sư đã tu luyện, trong những năm tới đây dành 12 giờ trước khi trăng tròn mỗi tháng để tiếp xúc với những đệ tử, để cho bất kỳ khi nào trong 12 giờ đó, những đệ tử và những người phụng sự trần gian hoàn toàn có thể nỗ lực để tiếp xúc với chúng tôi. Việc ấy làm cho việc tiếp xúc được thuận tiện hơn vì chư môn đệ không cần giữ đúng giờ trăng tròn trừ phi điều này hoàn toàn có thể được thuận tiện. Vấn đề phụng sự trong thời đại này có sự quan tâm và theo đuổi trường kỳ vì việc làm rrất nhọc nhằn lao khó. Không phải khi nào Chư môn đệ cũng hoàn toàn có thể cố gắng nỗ lực tiếp xúc đúng giờ trăng tròn, tuy rằng vào giờ đó, chư môn đệ luôn luôn hoàn toàn có thể trong yên lặng và bí mật, nâng cao tâm hồn để hướng về ĐẤNG VÔ CÙNG. Nhưng bất kể khi nào trong 12 giờ chư môn đệ cũng hoàn toàn có thể tìm cách dò đường mở cuộc tiếp xúc. Khi việc ấy được làm đúng cách, chư môn đệ sẽ gặp tôi đang đợi chờ. Hãy bắt tay vào việc đó với một tầm nhởn quang sáng suốt, một tấm lòng ưu tiên và một tình thương thông cảm. Chừng đó nhiều tác dụng sẽ được thực thi .

Khi những nhóm đệ tử này đã hoạt động giải trí phụng sự ngoài trần gian và sau khi đã thực thi một cách chắc như đinh, vững vàng sự hợp nhất tâm linh và đối sánh tương quan tập thể, chừng đó tất cả chúng ta sẽ có cái mầm mống của những đặc tính làm rạng rỡ những nhóm của KỶ NGUYÊN MỚI .
Tôi nhu yếu toàn bộ đừng khi nào quên rằng công tác làm việc tập thể mà chư môn đệ sắp làm, thật ra là một công tác làm việc hướng đạo, dọn đường và vì thế nó có toàn bộ những khó khăn vất vả mà mọi khu công trình tiên phong khai sáng đương nhiên phải có không sao tránh khỏi. Nhờ vậy chư môn đệ sẽ được cái sức mạnh để tăng trưởng văn minh .
Khi những nhóm này càng tăng thêm nhiều và vô số nhân viên cấp dưới được tăng thêm lần lần, thì cái sườn của một cơ cấu tổ chức tương lai sẽ từ từ Open. Cái cơ cấu tổ chức này sẽ hiện ra như thế nào khi nó được triển khai xong, chỉ có cái nhãn quang đầy cảm hứng tâm linh của những nhà kiến trúc mới biết được. Nhưng nền tảng của nó phải được thiết lập một cách chắc như đinh và vững chắc, cái sườn phải được dựng lên một cách ngay ngắn. Hai nhu yếu là tổng thể những gì mà người đệ tử nào cũng sẽ thấy thực thi trong quy trình tiến độ hiện tại .
Tuy nhiên chư môn đệ có nhận thức được rằng mình đã được phép nhìn thấy những tân tiến huyền linh nào trên trần gian trong kiếp hiện tại chăng. Chư môn đệ có thoáng thấy chăng cái động lực thôi thúc vĩ đại mà những Chân Sư đang tạo ra trong lúc này, và nhìn thấy chăng những kế hoạch của Chân Sư đang tượng hình ngay trước mắt mình. Chư môn đệ có đồng cảm chăng những yếu điểm thiết yếu của việc làm mà những đệ tử và Đạo sinh ở khắp nơi đã được phép cùng nhau tham gia. Tôi muốn nói thêm vắn tắt về điều này bằng vách nào đó để mọi người được nhìn thấy rõ hơn, để chư môn đệ hoàn toàn có thể hợp tác một cách mưu trí hơn, vì trên hết mọi sự, đây là một công tác làm việc tập thể .
Tôi đã tuy tụ một cách tuần tự chậm rãi một nhóm đệ tử ở ngoài đời. Khi cái hình tư tưởng về một nhóm đã được củng cố ngặt nghèo, và những đệ tử ứng đáp lại lời lôi kéo của tôi, rồi tìm thấy nhau và khởi đầu công tác làm việc chung với nhau, thì tôi mới hoàn toàn có thể triển khai việc làm của tôi đã lựa chọn và triển khai những kế hoạch mà tôi đã tự đặt ra khi tôi thủ đắc quả vị điểm đạo nào đó .
Trước hết, những quyển sách của tôi được công bố và thông dụng tuần tự để trình diễn những giáo lý sẽ ứng đáp những nhu yếu của thế hệ sắp tới đây. Các đệ tử của tôi có trách nhiệm bảo tồn sự trình diễn của chân lý nga trong thế kỷ hiện tại và lo liệu cách nào cho những quyển sách ấy được xuất bản đều đặn tiếp tục trong khi họ thi hành sứ mạng, cho đến khi những sách ấy được sửa chữa thay thế bởi những giáo lý mới mẽ hơn và không thiếu hơn nữa trong thế kỷ tới .
Kế đó, Open một việc có một tầm quan trọng rất lớn, mà có lẽ rằng chư môn đệ cũng không hề đánh giá và nhận định rõ tầm quan trọng của nó. Một tập sách nhỏ nhan đề “ BA NĂM TỚI ĐÂY ” được thông dụng sâu rộng, trong đó có phát hành một huấn thị về nhóm người phụng sự trần gian trên cõi hồng trần hạ giới. Nhóm người ấy hiện đang xuất hiện và tích cực hoạt động giải trí. Nhóm ấy đang tuần tự củng cố hàng ngũ và từ từ gây tác động ảnh hưởng trong việc làm tiên phong là giáo dục dư luận quần chúng. Đó là phương tiện đi lại hoạt động giải trí duy nhất có tác động ảnh hưởng can đảm và mạnh mẽ và giá trị sâu xa nhiều hơn là sử dụng quyền pháp .
Từ việc củng cố nhóm người mới này, mới có việc xây dựng trên trần gian một cầu nối liên lạc những linh hồn tàng ẩn và nội tại với cõi trần gian bên ngoài. Điều này là một sự hỗn hợp hay đồng nhất thật sự và sẽ lưu lại việc khai hóa toàn thể mái ấm gia đình quả đât xuyên qua thành quả triển khai của những thành phần hướng đạo tiên phong dũng mãnh tinh tiến nhất. Đó là ý nghĩa thật sự của “ Hôn lễ trên Thiên Cung ” của Thiên Chúa Giáo, hậu quả của việc hỗn hợp này sẽ là sự biểu lộ của cõi giới thứ năm trong vạn vật thiên nhiên, tức cõi giới của Thượng Đế. Trong lịch trình của nòi giống trái đất, một diễn biến lớn lao đã xảy ra trong quá khứ đưa đến việc biểu lộ loại thứ tư trong vạn vật thiên nhiên tức là loài người. Hiện nay tất cả chúng ta đang đứng trước một diễn biến tựa như, nhưng còn độc lạ hơn nữa, tức việc Open loài thứ năm, do hậu quả những hoạt động giải trí có kế hoạch của nhóm người phụng sự trần gian hợp tác ngặt nghèo với tập đoàn lớn những linh hồn toàn thiện và dưới sự dìu dắt của Đức Chưởng Giáo ( CHRIST ). Diễn biến này sẽ mở màn cho KỶ NGUYÊN MỚI, trong khi đó 5 loài trong vạn vật thiên nhiên sẽ được thừa nhân như cùng hoạt động và sinh hoạt sát cánh với nhau trên địa cầu .
Bởi đó, chư môn đệ được phép tham gia và quan sát việc làm của Đ.Đ.C.G đến mức độ tiếp xúc tâm linh cá thể và đã thấy xảy ra những diễn biến tâm linh sau đây :
1 ) Việc truyền bá giáo lý cho KỶ NGUYÊN MỚI. Giáo lý này giảng về môn tâm ý mới, phép kìm hãm phàm ngã và những bí nhiệm của cõi giới Thượng Đế .
2 ) Việc xây dựng những trường nội giáo phôi thai, sẽ truyền giảng giáo lý về Con đường Đệ tử trong thời đại mới và vận dụng giáo lý ấy trong thực tiễn .
Hiện nay có nhiều trường về loại này và trường Nội Môn Bí Giáo là một trong những trường tiên phong để dọn đường cho việc xây đắp những nền tảng lớn lao hơn, đã phác họa trong quyển sách của tôi nhan đề “ Thư tín về thiền định ” .
3 ) Việc thừa nhân nhóm NGƯỜI PHỤNG SỰ THẾ GIAN và công việc làm của họ trên một quy mô khá lớn .
4 ) Việc Open tuy mới chỉ là một tín hiệu tương trưng, của cõi thứ 5 hay cõi giới tâm linh .
Việc xây dựng cơ cấu tổ chức những nhóm đệ tử mới, tức sự biểu lộ phôi thai của những Đạo viện ẩn vi nội tàng, ra bên ngoài trần gian trong KỶ NGUYÊN MỚI. Những nhóm này sẽ sinh sôi nẩy nở và thực thi việc làm củng cố ngặt nghèo những nhóm bên trong với nhóm bên ngoài và phát huy sự tăng trưởng của cõi giới Thượng Đế trên địa cầu. Điều này sẽ làm cho công chứng quan tâm đến việc ph5uc hưng những bí nhiệm của những cuộc Điểm Đạo Huyền Môn .
Việc tạo nên cái hình thức ở ngoài trần gian qua sự trung gian của sách vở, những trường Nội Giáo và việc giáo dục dư luận quần chúng đã được phó thác cho một nhóm chúng tôi gồm những Đạo Đồ và Đệ tử Huyền Môn, một thành phần của Tổ chức Huyền Linh quản lý sự sống tâm linh trên địa cầu. Trong nhóm này gồm có hai vị Đạo Đồ Đông Phương, mà tôi là một, và năm vị Đạo Đồ Tây Phương .
Đến đây tất cả chúng ta hãy tạm gác lại việc trình diễn những nét đại cương, và trở loại yếu tố công tác làm việc nhất định mà nhóm Đệ tử đặc biệt quan trọng này của tôi hoàn toàn có thể làm .
Chư môn đệ không nên có ý nghĩ rằng mình đang thao tác một cách độc lạ và riêng rẽ. Không phải vậy, ngày này có nhiều người đang hoạt động giải trí một cách mưu trí với những kế hoạch của tất cả chúng ta, họ thường là cô lập và một mình. Nhu cầu chính trong công tác làm việc tập thể mà tôi muốn nhấn mạnh vấn đề trong lúc này là một nhu yếu khó khăn vất vả nhất. Đó là ý thức vô tư .
Những đệ tử thời xưa vẫn luôn luôn chú trọng đến hai điểm. Họ cảm thấy cần phải dè dặt mỗi khi có một kinh nghiệm tay nghề tâm linh nào, và nghĩ rằng việc tường thuật hay bàn luận về những diễn biến tâm linh hay kinh nghiệm tay nghề diệu huyền xảy ra trong đời họ, gây cho họ một ý thức tổn thương, mất mát và vi phạm luật Huyền Môn. Mặt khác, họ cũng cầu người khác hãy dè dặt về đời sống cá thể của họ, về những khuyết điểm lỗi lầm của họ và nhu yếu điều ấy lớn tiếng hơn là muốn được phép giữ yên lặng về đời sống tâm linh của mình. Sự nhu yếu ấy là do việc đánh giá và nhận định rằng đàm đạo về một diễn biến tâm linh với những không hiểu biết sẽ rất nguy khốn vì nó hoàn toàn có thể gây nên sự hiểu nhầm, tạo nên ảo ảnh và ảo giác. Sự nhu yếu dè dặt về đời sống cá thể thường là do thói kiêu căng, sợ bị chỉ trích, sợ bị chế riễu, sợ bị hiểu nhầm, và bị xét đoán. Tất cả những điều này đều là những động lực không xứng danh .
Trong những nhóm đời sống cá thể của Kỷ Nguyên Mới và Đạo Viện của Chân Sư, không hề có yếu tố sè dặt như trên. Chư môn đệ là những bạn đồng môn và bạn cộng tác với nhau. Nếu có người trong quá khứ hoặc trong tương lai đã hoặc sẽ trở nên những bậc Đạo Đồ, điều ấy sẽ không tác động ảnh hưởng gì đến mối liên hệ giữa y với những bạn đồng môn trong những nhóm này. Những kỹ năng và kiến thức của sư Điểm Đạo không hề truyền khẩu trong hàng ngũ những bậc Đạo đồ, vì những điều đó không hề truyền cho nhau bằng ngôn từ hay văn tự. Chỉ những người có những giác quan siêu linh nào đó mới hoàn toàn có thể được Điểm Đạo, và nếu họ thử bật mý những điều bí hiểm và huyền nhiệm của Cuộc Điểm Đạo bằng những tín hiệu hay hình tượng, người ngoài sẽ không th6ể hiểu được ý nghĩa của những điều ấy .
Như vậy trong nhóm đệ tử này, hãy nên có sự hợp nhất tư tưởng. Những kinh nghiệm tay nghề, tư tưởng khó khăn vất vả và vướng mắc hoàn toàn có thể san sẻ với nhau. Chư môn đệ có th63 tăng trưởng lòng ưu tiên, thông cảm và tương hỗ trong đời sống niềm tin. Đệ tử là những người đã già dặn về phương diện linh hồn, vì thế, những việc nhỏ mọn của những sự va chạm, khó khăn vất vả li ti của đời sống hàng ngày không nên đem ra thổ lộ với nhau. Không nên mất thì giờ của nhau bằng những câu truyện vô vị. Hãy dành thì giờ, công lao vào những cuộc tiếp xúc với nhau để bàn luận về việc phác họa kế hoạch cho việc làm phụng sự trần gian .
Những nhóm đệ tử được dự tính xây dựng sẽ thuộc nhiều loại khác nhau và việc làm của họ cũng sẽ đa diện và khác nhau. Có lúc tôi muốn viết khá đầy đủ hơn một chút ít nữa về những nhóm đệ tử lúc bấy giờ đang được hình thành trên trần gian, dưới sự chỉ huy của những Chân Sư. Họ sẽ lần lần Open trên trần gian để thi hành sứ mạng đã được chỉ định cho họ. Có bốn nhóm đã hoặc đang được xây dựng và những nhóm khác cũng sẽ được tạo nên lần lần để phân phối mọi nhu yếu .
Những thành viên của những nhóm ấy có một viễn ảnh bát ngát thoáng đãng hơn lúc bấy giờ. Sự tham gia của họ trong bất kỳ nhóm nào là một hành vi phụng sự góp phần vào công cuộc mà tôi và những vị trong Đ.Đ.C.G đang thực thi theo kế hoạch của Thiên Cơ .
Người đệ tử không nên coi việc phụng sự như một thời cơ tốt cho sự tân tiến của tâm linh của cá thể mình. Tất cả những đệ tử chân chính đều có ý tưởng sáng tạo giống như nhau là quyết định hành động làm thế nào cho những nhóm được thành công xuất sắc và toàn bộ đều mong ước rằng công tác làm việc tập thể sẽ đem lại hiệu suất tối đa. Tất cả đều có nhiệt tâm phụng sự, nhưng cũng có sự thỏa mãn nhu cầu nói chung về những thú vị và thời cơ mà công tác làm việc tập thể đưa đến cho họ. Những phản ứng này cũng là chính đáng và thông thường, nhưng có khi họ cũng còn mù tịt không biết gì về ý nghĩa thật sự của việc làm, còn ưa thích những khoái lạc ích kỷ và còn không ít tham vọng. Điều ấy cũng là tự nhiên vì người đệ tử chưa phải là trọn vẹn. Nếu họ trọn vẹn thì họ thao tác trong một mối liên hệ khác so với Đ.Đ.C.G.
Để làm sáng tỏ công tác làm việc tập thể này do Đ.Đ.C.G dự tính và để cho chư môn đệ hiểu rõ ý nghĩa của nó, tôi sẽ nói vài điều về mục tiêu của những nhóm đệ tử và cái kế hoạch tổng lực, trong đó những nhóm ấy có vị trí nhất định .
Trong những đoạn đầu của mọi cuộc thí nghiệm, luôn luôn có nhiều sự khó khăn vất vả. Mọi tư tưởng mới, nhất là nếu nó gồm có một mục tiêu chỉ hoàn toàn có thể triển khai trong tương lai khi kế hoạch chỉnh đốn hoàn bị hơn, tự nhiên là không được trọn vẹn hiểu biết trong những tiến trình đầu. Tôi đã nói rằng những nhóm này là một cuộc thí nghiệm. Cuộc thí nghiệm có đặc thù phức tạp, gồm 4 phương diện chính, hoàn toàn có thể diễn đạt tóm tắt như sau :
I. Những nhóm đệ tử là một thí nghiệm về việc xây dựng hay khởi đầu những điểm tập trung chuyên sâu thần lực trên trần gian, xuyên qua đó thần lực thiêng liêng hoàn toàn có thể tuôn tràn xuống để ban rải cho toàn thể trái đất .

II. Những nhóm ấy là một thí nghiệm
về việc khai trương và kỹ thuật mới trong công việc và trong những phương pháp giao thông. Tôi muốn nhấn mạnh rằng 4 chữ sau cùng này bao gồm tất cả ý nghĩa của
toàn thể sự việc. Những nhóm ấy có nhiệm vụ làm cho sự liên lạc hay giao tiếp bằng
tư tưởng được dễ dàng như sau:

1 ) Có một nhóm gọi là giao thông vận tải viên Thần giao cách cảm. Những người này thụ cảm so với ấn tượng của Chân Sư và thụ cảm tâm linh giữa họ với nhau. Họ là những người nắm giữ mục tiêu của nhóm, và thế cho nên họ có liên lạc ngặt nghèo với toàn bộ những nhóm thuộc những loại khác. Công việc của họ đa số là trên cõi trí tuệ. Họ hoạt động giải trí với vật liệu tư tưởng. Họ cũng giúp cho sự tiếp xúc tư tưởng được thuận tiện giữa cá thể để phổ cập những phương pháp và quy luật vượt lên trên ngôn từ và đưa đến một chiêu thức tiếp xúc mới. Sự tiếp xúc sau này sẽ là :
a ) Giữa linh hồn với linh hồn trên những cảnh giới cao của cõi thượng giới. điều này cần có sự kiểm soát và điều chỉnh trọn vẹn, để cho có sự trọn vẹn hợp nhất giữa hồn, trí và óc .
b ) Giữa trí và trí trên những cảnh giới thấp của cõi Thượng giới. Điều này cần có sự trọn vẹn phối hợp và củng cố của Phàm Ngã để hợp nhất trí và óc lại làm một .
Những đệ tử phải nhớ hai loại tiếp xúc khác nhau đó và nên biết rằng sự tiếp xúc lớn hơn không nhất thiết phải gồm luôn cả cái nhỏ hơn .
Sự tiếp xúc bằng TGCC giữa những góc nhìn khác nhau của con người, trọn vẹn hoàn toàn có thể thực thi được ở những tiến trình tăng trưởng khác nhau .
2 ) Có một nhóm khác là nhóm quan sát viên thành thực. Mục tiêu của họ là nhìn thấy thông suốt cả khoảng trống lẫn thời hạn bằng việc tập luyện sử dụng trực giác. Họ hoạt động giải trí rất nhiều trên cõi Trung giới, để phá vỡ ảo ảnh, ảo giác để đem đến sự giác ngộ cho quả đât .
Như thế, một loại năng lượng khác đã được thực động, tạo nên một loại liên lạc và tiếp xúc khác nữa. Đó là sự tiếp xúc giữa cõi Bồ đề ( là cõi Minh Triết và Lý trí đơn thuần ) với cõi Trung giới ( là ảo ảnh và ảo giác ). Những quan sát viên thành thực được nhắc nhở rằng trách nhiệm to lớn của họ là phải giải tán ảo ảnh của trần gian bằng cách chiếu rọi ánh sáng. Khi nào có 1 số ít vừa đủ những nhóm đệ tử hoạt động giải trí theo những đường lối trên, thì trên cõi trần gian người ta sẽ thấy có những đường dây giao thông vận tải, ảnh hưởng tác động như những người trung gian giữa cõi giới ánh sáng và cõi ảo giác. Họ sẽ là những trạm chuyển đi thứ năng lượng đặc biệt quan trọng có tính năng phá vỡ những ảo ảnh, ảo giác hiện hữu và như vậy, sẽ giải tán những tư tưởng cũ có tính cách gạt gẫm, phỉnh lừa. Họ sẽ giao rắc ánh sáng và sự bình an, nó sẽ soi sáng trung giới và dẹp tan đặc thù hư ảo của đời sống trên cõi này .
3 ) Nhóm thứ ba là nhóm chữa bệnh bằng từ điển. Những người này không có liên hệ gì đến việc làm của Nhà chữa bệnh bằng nhân điện ở ngoài đời lúc bấy giờ. Họ sử dụng một cách mưu trí những nguồn sinh lực của thể dĩ thái. Phần lớn việc làm của họ được miêu tả trong quyển thứ tư của bộ sách “ Luận về bẩy Cung ” ( ánh sáng treatise on the seven Rays ). Nhóm nhà chữa bệnh này phải thực thi sự chữa trị đúng đắn những đậm cá tính của con người trong mọi góc nhìn thuộc về đặc thù của họ. Công việc của họ là chuyển di năng lượng một cách sáng suốt đến những phần khác nhau trong con người ( trí tuệ, tình cảm và thể xác ) qua việc phân phối và lưu thông khí lực một cách đúng phép. Những nhà chữa bệnh thời nay nên cố gắng nỗ lực thoát ly khỏi những ý niệm tân thời và truyền thống lịch sử về yếu tố chữa bệnh. Họ phải nhìn nhận sự kiện quan trọng là việc chữa bệnh phải được thực thi bởi những nhóm người hành vi như những kẻ trung gian giữa cõi giới năng lượng tâm linh ( năng lượng của linh hồn, của trực giác hay lý trí ) và người bệnh hay một nhóm bệnh nhân. Hãy ghi nhận việc ở đầu cuối này. Người học Đạo khi làm việc làm này phải luôn luôn nhớ cái ý niệm tập thể. Họ không nên hành vi như những cá thể riêng rẽ, mà như những đơn vị chức năng trong một toàn thể hợp nhất. Điều này là đặc tính của những chiêu thức trong Kỷ Nguyên Mới, khác hẳn với của thời quá khứ, vì việc làm sẽ là công tác làm việc tập thể và thường là làm cho một nhóm người. Những nhà chữa bệnh bằng từ điển phải tập hành vi như những linh hồn chứ không như những cá thể thường. Họ phải tập chuyển dời để truyền sang cho người bệnh hay một nhóm người bệnh .
4 ) Kế đó là những giáo dục của Kỷ Nguyên Mới, họ phụng sự theo ngành văn hóa truyền thống và sẽ nỗ lực khai sinh một nền giáo dục mới. Họ chú trọng đến việc tạo đường giao thông vận tải ( Antahkarana ) ( đường giao thông vận tải giữa phàm ngã với chân ngã, giữa thượng trí và hạ trí ) và sử dụng trí năng trong cơn Thiên định. Họ sẽ tác động ảnh hưởng như những người truyền đạt 2 góc nhìn của năng lượng thiêng liêng là Kiến Thức và Minh Triết. Hai góc nhìn này phải được ý niệm như những năng lượng. Nhóm thứ tư này mà việc làm có tương quan đến việc giáo dục quần chúng là một sự trung gian trực tiếp giữa Thượng Trí và Hạ Trí. Họ có liên hệ đến việc xây cái cầu thông thương ( Antahkarana ) và trách nhiệm của họ là nối tiếp 3 điểm của việc tập trung chuyên sâu tư tưởng, tức Thượng Đế, linh hồn và Hạ Trí, để hoàn toàn có thể thiết lập một chiếc cầu thông thương tập thể giữa cõi giới linh hồn và quốc tế loài người .
5 ) Nhóm thứ 5 sẽ gồm những nhà tổ chức triển khai chính trị, có tương quan đến những yếu tố chính trị trong mỗi vương quốc. Họ sẽ hoạt động giải trí trên nghành nghề dịch vụ chánh thể của quả đât, lo về những yếu tố văn minh quốc tế và những mối đối sánh tương quan hiện hữu giữa những vương quốc. Mục đích chánh của họ là gây sự thông cảm, hiểu biết trên địa hạt quốc tế .
Nhóm này biểu lộ đặc thù cương nghị và uy quyền là những đặc tính hãy còn thiếu sót ở những ngành khác của sự hoạt động giải trí tập thể. Công việc này hầu hết thuộc về Cung I. Nó sẽ gồm có giải pháp cho ý chí thiêng liêng biểu lộ trong tâm thức của những chủng tộc và những vương quốc. Những thành viên của nhóm này sẽ có nhiều năng lượng của Cung I trong người họ. Họ tác động ảnh hưởng như những đường giao thông vận tải giữa việc làm của Đức Bàn Cổ ( Manu ) và chủng tộc loài người. Làm đường vận hà cho ý chí của Thượng Đế là một trách nhiệm rất cao quý .
6 ) Nhóm thứ 6 gồm có những nhà hoạt động giải trí tôn giáo. Công việc của họ là đặt nền tảng cho một tôn giáo mới, chung cho cả quốc tế. Nó là một việc làm tổng hợp trong tình thương, đặt trọng tâm vào sự hợp nhất và hòa hợp ý thức. Theo một ý nghĩa rõ ràng, nhóm này là một vận hà cho sự hoạt động giải trí của Cung 2, tức cung Minh Triết và Bác Ái, là cung của Đức Chưởng Giáo trần gian, một chức vụ thiêng liêng lúc bấy giờ do đức Christ giữ. Nền tảng tôn giáo mới của trần gian sẽ được kiến thiết xây dựng bởi nhiều nhóm thao tác dưới sự dìu dắt của Đức Chưởng Giáo và chịu tác động ảnh hưởng của Cung 2. Toàn thể những nhóm này nói chung sẽ họp thành Nhóm 6 nói trên .
7 ) Nhóm thứ 7 gồm những người phụng sự khoa học. Những người này sẽ vạch đặc thù tâm linh cơ bản của mọi khu công trình khoa học do động cơ thôi thúc của tình thương và vì niềm hạnh phúc của quả đât. Công việc này tiếp nối khoa học và tôn giáo để làm sáng tỏ sự huy hoàng của Thượng Đế qua sự trung gian của Thế giới hữu hình và những khu công trình phát minh sáng tạo của Ngài. Họ có một trách nhiệm vô cùng lý thú, nhưng nó sẽ không biểu lộ rõ ràng trong 1 thời hạn lâu bền hơn, trước khi những sức mạnh cấu trúc ngoài hành tinh được hiểu rõ hơn. Điều này sẽ đến cùng lúc với sự tăng trưởng những Linh Thị của thể dĩ thái. Nhóm này sẽ ảnh hưởng tác động như một vận hà, hay trung gian giữa những năng lượng cấu trúc mọi hình thể làm lớp vỏ biểu lộ ngoại tại của Thượng Đế và ý thức con người. Bởi vậy, hãy ghi nhận điều này là hoàn toàn có thể việc làm chính và tiên phong của nhóm này là liên hệ đến yếu tố luân hồi. Đó là yếu tố khoác lấy một hình thể mới làm lớp vỏ học ngoài cho linh hồn theo định luật luân hồi tái sinh .
8 ) Nhóm thứ 8 gồm những nhà tâm lý học. Nhóm này sẽ bật mý những vấn đề tương quan đến linh hồn, họ sẽ hoạt động giải trí với một khoa tâm ý mới địa thế căn cứ trên 7 loại người tùy theo 7 cung và với khoa Chiêm Tinh Bí Truyền. Bằng những kỹ thuật đã được đồng ý chấp thuận, trách nhiệm chính của họ sẽ là nối dây liên lạc giữa linh hồn với phàm ngã, đưa đến sự biểu lộ đặc thù thiêng liêng của Thượng Đế qua sự trung gian của quả đât. Họ cũng sẽ tác động ảnh hưởng như những trạm tư tưởng tập thể. Họ chuyển di năng lượng từ 1 TT tư tưởng đến 1 TT khác và trên hết mọi sự, họ chuyển đạt năng lượng của những ý niệm. Thế giới ý niệm là một quốc tế của những TT năng lượng rất mạnh. Đừng quên điều này. Những ý niệm này phải được tiếp xúc và ghi nhận năng lượng của chúng, phải được hấp thụ và chuyển đạt .
Nhóm thứ 9 sẽ gồm những nhà kinh tế tài chính và kinh tế tài chính. Họ sẽ hoạt động giải trí với những năng lượng và sức mạnh biểu lộ qua những giá trị của nền kinh doanh thương mại. Họ sẽ xử sự với định luật cung và cầu với nguyên tắc san sẻ nó luôn luôn quản lý mục tiêu thiêng liêng. Họ sẽ là những người phụng sự có cảm quan nhạy bén, vì một người có linh cảm là người mà linh hồn của y rất nhạy cảm so với linh hồn kẻ khác và của toàn bộ mọi hình thức hoạt động và sinh hoạt. Nguyên tắc san sẻ nó phải quản lý những mối liên hệ kinh tế tài chính trong tương lai, là một đức tính hay năng lượng của linh hồn, và bởi đó họ mới làm việc làm tiếp xúc giữa linh hồn với linh hồn. Họ cũng nhắc nhở linh hồn của quá khứ, thông suốt với hiện tại và nhìn thấy nó những triệu chứng của tương lai .
10 ) Nhóm thứ 10 là nhóm những người hoạt động giải trí phát minh sáng tạo. Họ là trục giao thông vận tải giữa Ngôi BA THƯỢNG ĐẾ, tức là Ngôi Sáng Tạo ( biểu lộ qua những khu công trình phát minh sáng tạo và ứng đáp với cõi tư tưởng ) và Ngôi Thứ Nhất, tức sự sống. Họ nối tiếp và đồng nhất sự sống với hình thể một cách phát minh sáng tạo. Họ có liên lạc ngặt nghèo với nhóm thứ 9, chính do thời nay trong sự vô thức, và không có sự hiểu biết chân chính, họ đang triển khai việc cụ thể hóa năng lượng của dục vọng, do đó mới có sự phát minh sáng tạo nên mọi vật. Bởi vậy, vô tình mà họ cũng liên hệ đến việc cụ thể hóa tiền tài, việc làm của họ một hầu hết cũng thuộc về triết học và liên hệ đến việc phối hợp toàn bộ chín nhóm kia một cách thực sự và khoa học để có thêm hoạt động giải trí phát minh sáng tạo trên cõi hồng trần và để cho Thiên Cơ hoàn toàn có thể bộc lộ rõ ràng do hiệu quả của sự tập hợp ấy .
III. Những nhóm này cũng là sự biểu lộ ngoại tại của một trạng thái nội tại đã có sẵn. Chúng là một hậu quả chứ không phải là nguyên do. Lẽ tất yếu những nhóm ấy hoàn toàn có thể gây nên một hậu quả xuất khởi khi chúng hành vi biểu lộ trên cõi trần gian, nhưng tự chúng vốn là loại sản phẩm của một hoạt động giải trí nội tại và của một sự phối hợp sức mạnh nội tại có tiềm năng biểu lộ ngoại tại. Công việc của những đệ tử có chân trong những nhóm này là liên lạc ngặt nghèo với nhóm nội tàng hợp thành một nhóm lớn hoạt động giải trí tích cực. Sức mạnh tập thể này chứng tỏ sẽ thấm nhuần tổng thể những nhóm khi những đệ tử trong những nhóm ấy triển khai những việc sau đây trên cương vị của một tập thể hội đồng :
1 ) Giữ sự liên lạc với nguồn thần lực nội tại ;
2 ) Không khi nào quên mất tiềm năng tập thể ;
3 ) Vun trồng năng lực tuy nhiên đôi vận dụng những định luật của linh hồn vào đời sống cá thể và những định luật của nhóm vào đời sống tập thể .
Sử dụng toàn bộ những mãnh lực hoàn toàn có thể tuôn tràn xuống nhóm người Phụng sự. Bởi vậy, họ phải tập đảm nhiệm những mãnh lực đó và sử dụng chúng một cách đúng phép. Các đệ tử phải nghiên cứu và điều tra học hỏi những điểm gợi ý dưới đây về những TT năng lượng mà 10 nhóm kể trên sẽ sử dụng. Những TT này chỉ được sử dụng đúng đắn khi nào một sự hợp nhất tập thể lớn lao hơn được thiết lập giữa những thành viên của những nhóm riêng rẽ và giữa những nhóm với nhau nói chung. Chư môn đệ hoàn toàn có thể hỏi tại sao vậy ? Bởi vì thần lực tuôn xuống hoàn toàn có thể quá mạnh và người đệ tử riêng biệt không đủ sức tiếp đón lấy một mình, nhưng thần lực ấy sẽ được san sẻ trong một nhóm nếu có sự trọn vẹn hợp nhất tập thể. Bằng cách đó mỗi đệ tử hoàn toàn có thể phụng sự cả nhóm và tiềm năng của y, cứu cánh sẽ là :
Hợp nhất với những bạn đồng môn trong nhóm .
Điều chỉnh cho hợp với linh hồn mình và với nhóm vô vi nội tại nó là cái nguyên do ẩn tàng của những nhóm hiển hiện bên ngoài .
Biểu lộ cái kỹ thuật đặc biệt quan trọng mà nhóm của y cứu cánh phải triển khai .
Những nhóm đệ tử sẽ sử dụng những TT bí huyệt sau đây trong việc làm của họ :
Nhóm một : Trung tâm ở đỉnh đầu, tim và cuống họng
Nhóm hai : Trung tâm ở đỉnh đầu, tim và bí huyệt nơi rún
Nhóm ba : Trung tâm ở đỉnh đầu, tim và giữa hai lông mày
Nhóm bốn : Trung tâm ở đỉnh đầu, giữa hai lông mày và cuống họng
Nhóm năm : Trung tâm ở đỉnh đầu, tim và đốt cuối xương sống
Nhóm sáu : Trung tâm ở đỉnh đầu, tim và bí huyệt nơi rún ( trong nhóm hai )
Nhóm bảy : Trung tâm ở đỉnh đầu, cuống họng và bộ phận sinh dục
Nhóm tám : Trung tâm ở đỉnh đầu, tim và bí huyệt nơi rún và cuống họng
Nhóm đệ tử này sẽ là nhóm tiên phong sử dụng bốn TT trong việc làm của họ vì, theo một ý nghĩa lạ lùng, họ là những trung gian hòa giải tư tưởng giữa nhóm khác. Họ là một nhóm liên lạc giữa những nhóm
Nhóm chín : Trung tâm ở đỉnh đầu, tim cuống họng và ở bộ phận sinh dục
Nhóm mười : Trung tâm ở đỉnh đầu, tim, bộ phận sinh dục và ở đốt ở đầu cuối xương sống .
Tôi tự hỏi rằng không biết những câu trình diễn theo thứ tự sau đây có gợi một ý nghĩa gì chăng trong trí của chư môn đệ. Đó là lời công bố những vấn đề thực tiễn chứ không có ý nghĩa ẩn dụ bóng bẩy, trừ phi cho rằng những lời lẽ văn tự là những hình tượng rất thiếu sót, không đủ miêu tả những chân lý vô vi trừu tượng .
1 ) Mỗi nhóm đều có một đối tượng người tiêu dùng ẩn vi nội tại .
2 ) Cái đối tượng người tiêu dùng ẩn vi nội tại này là một toàn thể khá đầy đủ viên mãn. Những hiệu quả bên ngoài chỉ là mới biểu lộ có một phần .
3 ) Mười nhóm ẩn vi nội tại này họp lại thành 1 nhóm, đều có liên hệ đến những Đạo Viện của những Chân Sư và mỗi nhóm đều được quản lý bởi 10 định luật bao hàm những yếu tố trấn áp trong công tác làm việc tập thể. Một định luật là sự biểu lộ sức mạnh do mỗi người hay một tư tưởng gia thực thi bằng quyền lực của tư tưởng .
4 ) Mười nhóm ẩn vi nội tại này bộc lộ 10 loại năng lượng và hoạt động giải trí tổng hợp để diễn đạt 10 định luật trên, là một cố gắng nỗ lực để tạo nên những thực trạng mới và những trạng thái dị biệt, và do đó tạo dựng một nền văn minh mới và tot đẹp hơn. Thế hệ bảo bình ( Aquarian Age ) sẽ là thời kỳ thực thi mục tiêu ấy .
5 ) Những nhóm đệ tử bên ngoài là một số ít nỗ lực thực nghiệm và thử thách để xem quả đât đã sẵn sàng chuẩn bị để tiếp đón đến mức độ nào so với một khu công trình như vậy .
III. Những nhóm này cũng là một thí nghiệm tiêu biểu vượt trội một vài loại năng lượng, khi hoạt động giải trí hữu hiệu chúng sẽ tạo nên sự đoàn kết hay hợp nhất trần gian. Tình trạng khủng hoảng cục bộ lúc bấy giờ trên quốc tế, với hoạn họa trên quy mô quốc tế, sự bất mãn về tôn giáo, những trộn lẫn về kinh tế tài chính và xã hội và những hậu quả quyết liệt của cuộc chiến tranh, tổng thể đều là hậu quả sự tác động ảnh hưởng của những năng lượng can đảm và mạnh mẽ đến nổi chúng chỉ hoàn toàn có thể kéo trở lại nhịp điệu điều hóa, bằng cách sử dụng những năng lượng can đảm và mạnh mẽ hơn và được điều khiển và tinh chỉnh một cách ý thức hơn .
Theo dự trù, những nhóm đệ tử sẽ thao tác chung với nhau giống như những cục bộ khác nhau của một tổ chức triển khai đại quy mô cùng hoạt động giải trí ăn khớp nhau như một đơn vị chức năng duy nhất. Họ phải hoạt động giải trí một cách nhẹ nhàng êm ái và mưu trí trong khoanh vùng phạm vi cá thể, cũng như sự đối sánh tương quan liên hệ giữa họ với nhau. Điều này sẽ hoàn toàn có thể triển khai được khi nào những thành viên một mình trong những nhóm và những nhóm đệ tử nói chung quên đi đậm cá tính khác biệt của mình để nỗ lực làm cho khu công trình này của Đại Đoàn Chưởng Giáo được thành tựu mỹ mãn. Trong loại công tác làm việc tập thể này, những cảm hứng, phản ứng và thành công xuất sắc của cá thể đều tuyệt đối không đáng kể. Chỉ có những gì trợ giúp cho nỗ lực chung của toàn thể và tâm thức tập thể của nhóm được tăng cường mới là điều quan trọng .

Thiên Đoàn chuẩn y việc phát động những nhóm đệ tử này vào năm 1931. Kể từ khi đó, những thành viên của nhóm đã được lựa chọn lần hồi và từ khi họ được chỉ định vào làm công tác làm việc của Đạo Viện, họ vẫn cố gắng nỗ lực thao tác chung trong sự trọn vẹn hợp nhất về mục tiêu cũng như về tình giao hảo. Chư môn đệ hoàn toàn có thể thú vị mà biết không ít về việc chúng tôi đề cấp đến yếu tố bằng cách nào .
Như tổng thể chư môn đệ đã biết, tôi là một Đạo Đồ thuộc về CUNG 2, ở một đẳng cấp và sang trọng nào đó, cấp đẳng này không có tương quan gì đến chư môn đệ cả, tuy rằng nhiều đệ tử đã tự trong thâm tâm và do sự tiếp xúc cá thể mà biết tôi là ai. Nếu giáo lý mà tôi đã đưa ra cho chư môn đệ và những quyển sách mà tôi đã công bố cho trần gian không đủ làm cho chư môn đệ tin yêu và chú ý quan tâm, thì dù có biết rằng tôi ở đẳng cấp và sang trọng nào, dù quả vị Chân Sư hay Bồ tát, hay ở Quả Vị Phật tiếp cận với Ngôi Tối Cao Thiêng liêng, cũng không có ích lợi gì cả mà chỉ làm ngăn trở sự văn minh của chư môn đệ .

Trong nhiều kiếp mà tôi có liên hệ
mật thiết với Chân Sư K.H. trong khi thảo luận với NGÀI, chúng tôi thường tự hỏi
bằng cách nào chúng tôi có thể trợ giúp vào việc khai sáng trên thế gian những
loại công tác mới mẽ có thể tiêu biểu cho KỶ NGUYÊN MỚI nhưng đồng thời cũng
khá gần gũi với sự hiểu biết của những Đạo Sinh tiến bộ và của những đệ tử ở
ngoài thế gian, để có thể sở cậy đến sự hợp tác và sự trợ giúp sáng suốt thông
minh của họ. Chúng tôi tự hỏi nên đặt ra những nhu cầu như thế nào và nên áp dụng
những kỹ thuật nào trong KỶ NGUYÊN MỚI để nâng cao tâm thức của nhân loại?
Chúng tôi đã nhận định rằng trên hết mọi sự, mọi công tác tập thể phải hội đủ 4
đặc tính mà người đệ tử cần phải có nếu muốn được chọn lựa để chịu huấn luyện nhạy cảm, vô tư, khả năng thông linh định trí.

Tôi không nêu ra đức tính tham vọng, vô kỷ hay lòng mong ước phụng sự. Đó là những đức tính cơ bản thiết yếu là nếu hành giả chưa sở đắc được thì không ích gì mà đi tìm sự trợ giúp của chúng tôi trong lúc này .
Chư môn đệ sẽ ghi nhận rằng nhìn về lịch sử dân tộc tâm linh của quả đât trong khoảng chừng 2000 năm qua ( một dĩ vãng khá đủ cho mục tiêu khảo cứu của tất cả chúng ta ), những chiêu thức sau đây đã được sử dụng liên tục để nâng cao trình độ tâm linh của con người .
1 ) Phương pháp nâng cao tâm thức của một người để làm cho y trở nên một thức giả. Sự cứu rỗi cá thể và việc Open của những nhân vật xuất chúng có những giác quan và nhãn quang tâm linh và đạt những thành quả tâm linh độc lạ, đã từng là những đặc thù của lịch sử vẻ vang tâm linh trái đất trong quá khứ. Vài người trong số đó Open theo con đường của quả tim, hay tu tâm, tức con đường thần bí ( Mystic way ) như SRI KRISHANA của Tây Tạng, Lão Tử của Nước Trung Hoa và nhiều vị Thánh Gia Tô của Phương Tây. Quyển BHAGAVAD GITA là quyển Thánh Kinh trình diễn tuyệt đối con đường này .
Những người khác Open trên con đường mở trí hay tu Huệ, đó là những thúc gia trí tuệ quảng bác. Họ theo con đường Huyền môn ( OCCULT WAY ) một cách nhất định và đó cũng là con đường mà những Đạo Sinh của thời đại này theo ngày càng nhiều. Lý do là vì trái đất đang theo cái đà mở trí và hướng về cõi trí tuệ một cách rõ ràng. Vài người đi theo con đường mở trí, tu HUỆ này là SANKARA, Thánh PAUL, MEISTER ECKHARD. Ngày nay nhiều người đã Open trên con đường này dưới danh nghĩa của khoa học. Cũng có những Đấng Giáo Chủ như Đấng Christ và Đức PHẬT đã hỗn hợp đã hai con đường một cách tuyệt vời và hoàn hảo nhất, làm cho những Ngài tiến lên tột đỉnh và vượt lên trên quả đât tất cả chúng ta rất xa. Các NGÀI gieo rắc ảnh hưởng tác động khắp cả những Bán Cầu và qua nhiều thế kỷ, còn những vị thấp hơn cũng có tác động ảnh hưởng trên những vương quốc, so với những thành phần nhất định và trong những thời kỳ thời gian ngắn hơn .
2 ) Phương pháp thứ hai để nâng cao tâm thức của quả đât là giải pháp tập thể với từng nhóm người quy tụ chung quanh một vị Đạo Sư, Vị này dù thuộc hạng cao hay thấp, là một điểm trọng tâm năng lượng bởi :
a ) Quyền năng thúc động Chân Ngã ( tiếp xúc với linh hồn của chính mình ) hay là
b ) Do sự tiếp xúc với Chân Ngã, và cũng do bởi Vị ấy là một đường vận hà xuyên qua đó một vị trong Đ.Đ.C.G hoàn toàn có thể hành vi .
Do nơi gương lành của vị Đạo Sư, cho Giáo lý được truyền dạy được rất nhiều, âm ba rung động của nó hoàn toàn có thể được nâng cao, tâm thức được nới rộng và nhóm đệ tử hoàn toàn có thể trở nên một TT từ điển đầy năng lượng và ánh sáng tâm linh. Cường độ tác động ảnh hưởng của TT ấy tùy nơi mục tiêu thuần khiết và đời sống vị tha vô kỷ của những Môn sinh trong nhóm. Tầm mức trí năng của nhóm cũng gây ảnh hưởng tác động vì âm ba rung động trung bình và sự định trí sẽ tạo nên cái đặc tính tập thể của toàn nhóm nói chung .
Hiện nay đang có sự thí nghiệm để rời trọng tâm của những nhóm vào bên trong và đồng thời cũng lại tăng gia cường độ của họ bằng cách không để cho một lãnh tụ cá thể nào được ở tại TT của nhóm trên cõi giới bên ngoài. Tất cả thành viên trong nhóm phải tụ họp chung quanh như những linh hồn tự do. Họ sẽ học hỏi chung nhau một cách vô tư lợi, họ sẽ cùng nhau phụng sự trần gian. Tuy nhiên người nào cho rằng việc làm mà họ phải làm chỉ có diễn ra trên cõi giới siêu linh nội tại và y chỉ hoạt động giải trí trên những mức độ trí tuệ tâm linh thôi thì người ấy có ý niệm không đúng. Công việc tâm linh nội tại mà không bộc lộ ra dưới hình thức hoạt động và sinh hoạt khách thể, ngoại tại ở trần gian là do một cảm hứng sai lầm và đi sai đường .

Những nhóm đệ tử mới này sẽ làm
việc chung nhau dưới sự dìu dắt hướng dẫn và gợi ý của một Vị Chân Sư trong Đ.Đ.C.G.
Chư môn đệ hay ghi nhận danh từ gợi ý. Nếu những nhóm ấy bị áp đặt dưới uy quyền
của vị Chân Sư nói trên, thì mục đích của công việc dự tính sẽ không thực hiện
được, vì điều ấy vi phạm một định luật Huyền Môn.

Ngày nay sự trợ giúp một cách tự do, sáng suốt và mưu trí là điều mà chúng tôi yên cầu ở toàn bộ những đệ tử và chúng tôi để cho họ được tự do hợp tác hay không tùy ý muốn và bằng cách nào mà họ cho là tiện nhất. Tôi là Thầy của chư môn đệ, tôi gợi ý và đưa lời huấn giáo. Tôi chỉ con đường đưa đến mục tiêu và đưa đến nơi phụng sự. Tôi chỉ cho môn đệ thấy những gì những Chân Sư muốn thực thi. Tạm thời là do ý chí tự do của mình, chư môn đệ đã tỏ ra sẵn lòng phụng sự và hợp tác với những kế hoạch của tôi đưa ra. Tôi sẽ không làm gì khác hơn là chỉ đường và chỉ rõ việc làm phụng sự. Chư môn đệ hãy nỗ lực trong sự thông cảm và hợp tác ngặt nghèo để tự mình tìm ra chiêu thức sử dụng những sự gợi ý của tôi. Tôi can thiệp vào việc đó .
Trước hết tôi lôi kéo một tình thương thắm thiết hơn và một sự thông cảm sâu xa hơn giữa những thành viên trong nhóm. Điều này thiết yếu để có cơ cấu tổ chức nội bộ nhóm được củng cố vững vàng và ngặt nghèo hơn .
Kế đó, chư môn đệ phải hoạt động giải trí trên địa hạt thiền định công phu với một sự sáng suốt và thế lực lớn lao hơn. Công phu thiền định của chư môn đệ hãy còn nhiều đặc thù ích kỷ, Chư môn đệ có nhận thấy điều ấy chăng ? Phải chăng chư môn đệ vẫn thường bày tỏ thái độ của mình bằng những lời lẽ đại khái như : Khi tôi ngồi thiền lần này Chân Sư Tây Tạng bạn cho tôi những gì ? Ngài sẽ cho tôi điều gì để tôi trở thành một đệ tử tốt hơn ? Pháp môn thiền định mà Ngài dạy cho tôi có làm cho tôi thích hơn điều mà tôi đang làm chăng ? Việc đổi qua Pháp môn khác sẽ đem đến cho tôi tác dụng tốt hơn chăng ? ( có lẽ rằng thuộc loại Thần Thông Bí Nhiệm ) hoặc đem đến một sự mặc khải hay giác ngộ mới, hoàn toàn có thể giúp cho tôi đạt mục tiêu .
Trong nhóm đệ tử ở Đạo Viện của tôi, ít có người đã thực sự công phu thiền định trên mức độ phát minh sáng tạo. Tôi phải nói rằng trừ phi chư môn đệ khởi đầu thao tác như thế thì việc làm mà tôi muốn triển khai qua sự hợp tác của chư môn đệ vẫn còn bị bế tắc. Mục đích của công phu thiền định mà tôi hướng dẫn cho mỗi đệ tử là giúp cho mọi người có cái năng lực tham thiền để cho họ không còn bận rộn nghĩ đến mình và những bài toán khó khăn vất vả riêng của mình mà họ sẽ trở nên hợp nhất với cả nhóm để làm công tác làm việc tập thể và cứu cánh để triển khai những mục tiêu hội đồng còn to lớn hơn nữa, đó là những mục tiêu của tôi, với tư cách là thầy của chư môn đệ và như một người phụng sự trần gian .
Bởi vậy, giờ đây tôi hoàn toàn có thể thao tác với loại khí cụ nào ? Mỗi vị Đạo sư chân chính đều tự hỏi như thế khi xem xét nhóm linh hồn mà họ đã kết nạp và tìm cách hướng dẫn, trợ giúp. Khi đã có sự hợp nhất ngặt nghèo thì những khuynh hướng cơ bản cùng những đặc thù tập thể của nhóm mới Open và hoàn toàn có thể xem xét. Chừng đó những yếu kém hoàn toàn có thể được sửa đổi và những ưu điểm được tăng cường .
Trước đây, tôi có nói rằng những đức tính cơ bản mà chúng tôi tìm kiếm là nhạy cảm, vô tư, năng lực thông linh và định trí. Tôi xin nói thêm vắn tắt về những điểm này và sẽ đưa ra những kế hoạch hoạt động và sinh hoạt tập thể trong tương lai để chư môn đệ chú ý quan tâm và hoàn toàn có thể hợp tác. Những kế hoạch này hoàn toàn có thể thực thi nếu chư môn đệ làm những cố gắng nỗ lực thiết yếu, tự khép mình vào kỷ luật và chịu sự đào tạo và giảng dạy để hoàn toàn có thể trở nên hữu dụng sau này .
Tôi đã nói rằng đặc tính thiết yếu tiên phong là nhạy cảm. Điều này có nghĩa là gì ? Trước hết nó không có nghĩa là linh hồn nhạy cảm với những ý tưởng sáng tạo thường thì rằng đó là một người nhiều tự ái, hướng về trong và luôn luôn giữ thế thủ. Tôi muốn nói đến cái năng lực giúp cho người đệ tử tăng trưởng tâm thức để cho y hoàn toàn có thể đảm nhiệm được những loạt cảm hứng mỗi lúc càng thoáng đãng hơn, bao quát hơn. Tôi muốn nói đến cái năng lực sôi động, mưu trí, đánh giá và nhận định tình thế nhanh gọn, phản ứng mau lẹ so với nhu yếu, chú ý đến đời sống trên mọi mặt lý trí, xúc cảm và sức khỏe thể chất, và tăng trưởng mau lẹ cái năng lực quan sát hàng loạt trên 3 cõi giới. Tôi không chú trọng đến liên hệ cá thể của người nào khi mà nó thuộc về những xúc cảm của Phàm Ngã như xuống niềm tin, buồn tủi, tức bực nhạy cảm so với sự khinh bạc, hiểu nhầm, bất mãn so với thực trạng lòng tự ái bị va chạm và tổng thể những gì cùng loại. Tất cả những điều này gây cho người đệ tử sự ngơ ngác do dự và làm cho y tủi thân, tự thương cảm cho phận mình. Nhưng chư môn đệ không cần có tôi mới xử lý được điều ấy. Chư môn đệ biết rõ nó lắm, hoàn toàn có thể sửa trị chúng nếu muốn. Những khuyết điểm đó chỉ đáng kể là khi nào chúng ảnh hưởng tác động đến sự hoạt động và sinh hoạt tập thể của nhóm. Chúng phải được xử lý một cách thận trọng và sáng suốt với đôi mắt mở lớn để hoàn toàn có thể nhìn thấy rủi ro tiềm ẩn từ đàng xa và tránh nó kịp thời. Sự nhạy cảm mà tôi thấy cần tăng trưởng là cảm thông mau lẹ trên phương diện linh hồn, thụ cảm bén nhạy so với lời nói của Chân Sư thức tỉnh linh động so với sáng tạo độc đáo mới và sự ứng đáp tế nhị của trực giác. Những điều này luôn luôn vẫn là những tín hiệu của người đệ tử chân chính. Sự nhạy cảm của tâm linh nên được vun trồng. Điều này chỉ triển khai được khi môn đệ tập sử dụng những bí huyệt thuộc phần trên của hoành cách mô và chuyển hướng sự hoạt động giải trí của bí huyệt nơi rún ( nó vẫn là sự hoạt động giải trí của bí huyệt ở quả tim và hướng về việc phụng sự trái đất .
Đức tính vô tư ( Impersionality ) nhất là so với những người văn minh ở những đẳng cấp và sang trọng cao, là một đức tính rất khó đạt được có một sự liên hệ mật thiết giữa vô tư và vô dục ( detachment ). Hãy nghiên cứu và điều tra điều này. Nhiều sáng tạo độc đáo ôm ấp trong lòng, nhiều đức tính đạt được một cách khó khăn vất vả, nhiều điều ngay chính được hàm dưỡng cẩn trọng và nhiều sự tin cậy được thốt ra một cách can đảm và mạnh mẽ, đều có ảnh hưởng tác động ngược lại với sự vô tư. Trong tiến trình đầu của thời kỳ huấn luyện và đào tạo, người đệ tử nhận thấy rất khó mà giữ vững được. Lý tưởng riêng tư của mình và thực thi sự hợp nhất tâm linh, nhưng đồng thời vẫn hướng về người khác với một tấm lòng vô tư vô kỷ. Y muốn cho những tranh đấu và những thành công xuất sắc của mình được thừa nhận. Y muốn được người khác biết rằng y là một đệ tử. Y mong mỏi thi thố quyền lực và biểu lộ tình thương đã lan rộng ra của mình để tán thưởng, ngợi khen, hay tối thiểu để gây sự thử thách nơi kẻ khác. Nhưng rồi vẫn không có gì xảy ra. Y được coi như không hơn gì những người khác. Bởi đó, đời sống là một điều bất mãn .
Những thực sự này ít khi được chư môn đệ nhìn nhận hay nêu ra để tự kiểm thảo lấy mình. Bởi vậy nên trong ý thức trợ giúp, tôi xin nêu chúng ra cho chư môn đệ xử trí. Những người mưu trí, dù nam hay nữ không thể nào chịu được khi thấy những người liên hệ với mình xử sự theo một quan điểm trọn vẹn khác hẳn .
Theo quan điểm của người đệ tử, cách xử sự đó có vẻ như thiếu sót hay ngu xuẩn và có vẻ như có những lỗi lầm nặng nề về óc xét đoán hay về kỹ thuật. Tuy nhiên, hỏi đệ tử, tại sao đệ tử dám chắc rằng mình nghĩ đúng và quan điểm của mình nhất thiết phải đúng chuẩn. Có thể rằng ý niệm sống và cách đánh giá và nhận định tình thế của một đệ tử cần được kiểm soát và điều chỉnh lại, và những động lực nội tâm cùng những thái độ của đệ tử hoàn toàn có thể là hùng vĩ nhất và tốt đẹp nhất mà đệ tử hoàn toàn có thể thực thi được bất kể khi nào, đệ tử hãy đi con đường của mình và để cho người bạn kia đi theo con đường của họ. Kinh BHAGAVAD GITA há chẳng nói lên thực sự này để dạy người đệ tử hãy lo việc mình : “ Thà làm đúng thiên trách mình hơn là làm thiên trách người khác ” .
Thái độ không xen vào việc người và không chỉ trích người vẫn không ngăn trở việc trợ giúp lẫn nhau hay những mối tương quan tập thể có tính cách kiến thiết xây dựng. Thái độ ấy không làm mất sự biểu lộ tình thương hay sự hợp tác tập thể trong niềm hòa ái. Luôn luôn có nhiều thời cơ để thực hành thực tế đức tính vô tư trong tổng thể mọi thanh toán giao dịch liên hệ tập thể. Trong một nhóm thường có một người gây chướng ngại khó khăn vất vả cho mình và cho những thành viên khác trong nhóm. Có lẽ chính đệ tử cũng là người như thế mà không biết. Có lẽ đệ tử biết rằng trong số những người cộng tác với mình để phụng sự, ai là người gây chướng ngại thử thách cho những người khác. Có lẽ đệ tử thấy rõ điểm nào là điểm kém yếu của nhóm và ai là người gây khó khăn vất vả trì hoãn cho sự hoạt động và sinh hoạt tốt đẹp của nhóm. Như thế cũng không sao miễn là đệ tử vẫn liên tục yêu dấu, phụng sự và tránh mọi chỉ trích .
Không phải là một điều hay mà khi nào cũng tìm cách sửa đổi người bạn mình hoặc tìm cách áp đặt ý muốn hay quan điểm của mình một cách độc đoán tuy rằng người ta vẫn có tểh bày tỏ quan điểm và đưa ra những điểm gợi ý. Những nhóm đệ tử là những nhóm linh hồn tự do và độc lập, đặt quyền lợi và nghĩa vụ cá thể vào việc công ích và cố gắng nỗ lực thực thi sự đoàn kết bên trong, làm cho nhóm trở thành một khí cụ hữu hiệu để phụng sự quả đât và phụng sự Thiên Cơ. Hãy liên tục trau dồi tu luyện bản thân và hãy để yên cho những bạn đồng môn trau dồi bản thân của họ .
Vấn đề ý niệm thông linh ( hay thần thông ) không phải để lý giải. Tôi không đề cập đến những thế lực hạng thấp, hoàn toàn có thể khai mở hay không với thời hạn qua và khi chúng được dùng đến. Tôi chỉ đề cập đến những năng lực sau đây vốn ẩn tàng nơi linh hồn và pphải được tăng trưởng nơi toàn bộ những đệ tử, nếu chư môn đệ muốn góp phần công quả để phân phối với những nhu yếu của trần gian và hợp tác với Thiên Cơ trên địa hạt phụng sự quả đât, những năng lực đó là :
1 ) Đáp ứng bằng trực giác với mọi ý niệm .
2 ) Nhạy cảm so với những ấn tượng mà ân trên hoàn toàn có thể gieo vào trí óc của người đệ tử. Chính vì nguyên do này mà tôi đang muốn luyện chư môn đệ tiếp xúc với tôi trong những đêm trăng tròn .
3 ) Đáp ứng mau lẹ so với những nhu yếu cấp bách. Có lẽ chư môn đệ không cho rằng đây là một thế lực thông linh phải chăng ? Tôi không đề cập đến một phản ứng nơi rún, mà nói về động tác của quả tim. Hãy suy ngẫm về sự dị biệt này .
4 ) Quan sát đúng đắn vấn đề trên cõi giới linh hồn. Điều này đưa đến sự nhận thức đúng đắn bằng trí tuệ, vượt khỏi mọi ảo ảnh và ảo giác và sự sáng suốt của trí não .
Sử dụng năng lượng một cách đúng phép. Điều này đương nhiên cần có sự hiểu biết những thể loại và đặc thù của năng lượng, cùng tính năng phụng sự của nọ trong việc phụng sự trần gian .
5 ) Sự hiểu biết chân chính về yếu tố thời hạn với những chu kỳ luân hồi biến hóa thăng trầm của nó và những thời kỳ thuận tiện cho sự hành vi. Đây là một quyền lực khó sở đắc nhất, nhưng nó hoàn toàn có thể đạt được bằng sự kiên trì chờ đón và đừng quay quồng hấp tấp vội vàng .
Tất cả những quyền lực này, người đệ tử phải tập khai mở toàn vẹn. Nhưng việc ấy đương nhiên là phải tuần tự, lờ đờ .
Kế đó là sự định trí thế lực hay đức tính này có nghĩa là gì so với chư môn đệ, trong quá trình này nó phải biểu lộ bằng hai cách :
a ) Do công phu thiền định liên tục .
b ) Do sự trấn áp thể tình cảm .
Đời sống niềm tin của chư môn đệ càng phài càng phải được tập trung chuyên sâu trên cõi trí tuệ. Thái độ công phu ấy phải được duy trì liên tục và không gián đoạn, không phải chỉ trong vài phút mỗi buổi sáng hay những lúc nhất định nào đó trong ngày mà phải tiếp tục và suốt ngày .
Thái độ ấy ý niệm một sự xu thế rõ ràng cuộc sống mình vào mục tiêu tâm linh và xử thế theo quan điểm của linh hồn. Điều này không có nghĩa là từ bỏ cuộc sống trần gian như người ta thường nói. Người đệ tử vẫn nhập thế, nhưng y xử thế trên mức độ của linh hồn và nhìn vào thế sự với tầm nhãn quang sáng suốt : “ Y sống trên trần gian nhưng không bị trần gian hấp dẫn ”. Đó là thái độ đúng đắn như đấng SHRISA đã dạy. Càng ngày, mọi hoạt động và sinh hoạt mãnh liệt thường thì của mọi xúc cảm, dục vọng và ảo giác càng phải được trấn áp, khắc chế và làm cho lắng dịu bằng sự hoạt động và sinh hoạt tâm linh xuyên qua sự tác động ảnh hưởng của trí não. Những sự xúc cảm của cá nhân vị kỷ phải được biến chuyển thành sự thực thi đức tính vô ngã và đại đồng. Thể tình cảm phải trở nên một cơ quan chuyển vận đức từ bi, bác ái của linh hồn. Dục vọng phải nhường chỗ cho tham vọng tâm linh, và đến lượt nó, tham vọng hay nguyện vọng này phải được đồng điệu với hoạt động và sinh hoạt tập thể mà lợi lộc tập thể. Ảo ảnh, ảo giác phải nhường chỗ cho thực sự và ánh sáng thuần khiết của trí tuệ phải chiếu soi cao tổng thể những chỗ tối tăm, u ám và sầm uất của phàm ngã thấp hèn. Đó là những tác dụng của sự định trí, do công phu thiền định và sự theo đuổi một tâm trạng, một thái độ thiền định tiếp tục, liên tục. Điều này không phải mới lá được chư môn đệ, nhưng nó là một cái gì vẫn chưa được biểu lộ trên thực tiễn. Nếu chư môn đệ tự hỏi lấy mình những câu hỏi sau đây và can đảm và mạnh mẽ thành thật vấn đáp trước sự phán đoán của linh hồn mình thì chư môn đệ sẽ học hỏi rất nhiều và sẽ văn minh rất mau :
Bạn hiểu thế nào là sự nhạy cảm tâm linh ?
Có khi nào bạn thật sự nhận được sự rung động của tôi chăng ?
Bạn có phản ứng đối với những lỗi lầm người khác một cách mau lẹ hơn là so với những đức tính thiêng liêng của y chăng ?
Sự chỉ trích có tác động ảnh hưởng như thế nào so với nhạy cảm tâm linh ?
Điều gì bạn cho rằng ngăn trở sự tăng trưởng đức tính đó của mình ?
Hãy định nghĩa đức tính vô tư :
Bạn có biết chăng sự dị biệt giữa vô tư của người thuộc Cung I và sự vô tư thật sự ?
Khi có người nào bất đồng ý kiến với bạn hay khi bạn không ưa những cử chỉ, thái độ của một người, bạn làm gì trước hết ? Ban yêu quý y chăng ? Bạn giữ lạng lẽ chăng ? Bạn phê bình y với người khác chăng ? Bạn sửa đổi y bằng cách nào ?
Nếu bạn vô tư, ấy là do sự tập luyện hay do bản tính tự nhiên ? Phải chăng đó chỉ là một cách tự vệ ? Hay đó là giải pháp dễ nhất để đạt được sự bình an ? Hay đó là một thành quả tâm linh ?
Tôi đã định nghĩa cho bạn những quyền lực thông linh. Tôi có nêu ra 6 loại quyền lực. Hãy điều tra và nghiên cứu những loại đó rồi nêu ra một cách vắn tắt rõ ràng năng lực bạn :
Để chứng tỏ thế lực đó .
Để tăng trưởng những thế lực đó và phác họa sơ lược giải pháp làm thế nào ?
Bạn cảm thấy bằng cách nào mình đã thành công xuất sắc trong việc xử thế thuần bằng lý trí ?
Trong một cơn xúc động tình cảm, bạn có chuyển hướng thực trạng khó khăn vất vả ấy qua tình thương chăng ?
Bạn có dấu diếm che đậy những cảm hứng của mình chăng ? Tại sao ?
Bạn có vận dụng lý trí và xử sự trên bình diện lý trí chăng ?
Bạn có biết ảo ảnh ảo giác là gì chăng, và bạn có phân biệt chăng khi nó đến với bạn ?
Những câu hỏi này có một mục tiêu tuy nhiên đôi. Nếu chư môn đệ vấn đáp những câu hỏi ấy một cách thành thật và rõ ràng, chúng sẽ làm cho chư môn đệ xử sự với mình như một thành viên của nhóm và như vậy sẽ lao lý tầm mức góp phần của mình cho nhu yếu tập thể và cho nhu yếu phụng sự việc của chúng tôi. Nếu chư môn đệ viết ra những câu vấn đáp cho những câu hỏi ấy và cùng san sẻ với những bạn đồng môn, việc ấy sẽ giúp cho họ có thời cơ hiểu biết nhau nhiều hơn .
Có một động tác bí nhiệm nó đạt tới mức tột đỉnh trong một cuộc điểm đạo lớn thuộc cấp đẳng nào thì chư môn đệ chưa cần biết giờ đây, đó gọi là “ đưa ra ánh sáng ”. Một đệ tử được thâu nhận là người đang được chuẩn bị sẵn sàng điểm đạo, và đó là một trong những trách nhiệm của tôi trong lúc này. Bởi vậy tôi phải khởi đầu đặt nền tảng cho việc đưa ra ánh sáng nói trên, có nghĩa là bật mý những điều ẩn dấu. Vì thế trong tiến trình huấn luyện và đào tạo này, qua những câu hỏi trên, tôi đưa đến cho chư môn đệ cái thời cơ thực tập sớm việc “ bật mý đáng sợ đó ”. Nó sẽ diễn ra về sau này trong một trạng thái tâm thức cao hơn .
Tôi và những ĐẤNG CAO CẢ hoạt động giải trí trên cõi giới siêu linh muốn làm gì với những nhóm này ? Với một tiềm năng to lớn như thế nào. Những nhóm đệ tử này không phải được xây dựng như những “ Nhóm Giông ” để triển khai một mục tiêu nhất định và rõ ràng. Chúng được tổ chức triển khai như những vận hà để phân đôi vài loại thần lực đặc biệt quan trọng cho trần gian. Những thần lực này sẽ biểu lộ bằng những đường lối rõ ràng Đ.Đ.C.G.
Đ.Đ.C.G vẫn luôn luôn sử dụng và phân phối thần lực cho quốc tế loài người. Tôi đề cập đến những thần lực được dùng đến để thức tỉnh tâm thức con người, và việc phối hợp ngặt nghèo quốc tế huyền linh với cõi giới loài người. Tôi đề cập đến những hoạt động giải trí do đó cõi giới loài người hoàn toàn có thể trở thành một trạm ánh sáng lớn và một kho sức mạnh tâm linh để phân phối nguồn mãnh lực này cho những lòa khác trong vạn vật thiên nhiên. Lời lý giải trên có một tầm quan trọng thiết yếu. Nó bày tỏ những tiềm năng tiếp cận của chúng tôi và đặc thù của địa hạt phụng sự, trong đó chư môn đệ hoàn toàn có thể hoạt động giải trí như một nhóm tập thể chứ không như những cá thể khác biệt. Chúng tôi đã từng sử dụng những nguồn thần lực này từ nhiều thế kỷ, nhưng loài người chỉ tiếp đón được tác động ảnh hưởng của nó một cách vô ý thức. Chúng tôi đã phân phối thần lực một cách thoáng rộng dồi dào nhưng đôi lúc mới có một vài cá thể lẻ tẻ, rải rác đó đây ứng đáp một cách tích cực và có ý thức. Những người ấy trở nên những điểm tựa nhỏ bé để tập trung chuyên sâu ánh sáng và sức mạnh tâm linh. Ngày nay chúng tôi thấy đã hoàn toàn có thể tập trung chuyên sâu ánh sáng và kiến thức và kỹ năng một cách nhất định và rõ ràng hơn nhiều, và xây dựng những nhóm trên địa cầu ( gồm có những cá thể một mình và khác biệt nhưng biết ứng đáp ) để hoàn toàn có thể ban phát nhiều ánh sáng và kiến thức và kỹ năng hơn. Điều này chúng tôi đã quyết định hành động thực thi bằng hai giải pháp :
1 ) Với sự hợp tác của toàn bộ những Chân Sư trong Đ.Đ.C.G, hoạt động giải trí xuyên qua những đệ tử của những Ngài .
2 ) Với sự hoạt động giải trí tập trung chuyên sâu đặc biệt quan trọng của những Chân Sư MORYA, KOOT HOOMI và tôi, người phụng sự và đệ tử của những Ngài .
Bằng giải pháp thứ nhất, Nhóm người phụng sự trần gian được hình thành và những đệ tử Đạo Sinh trên trần gian, hoạt động giải trí trên tổng thể những Cung và dưới sự dìu dắt ( dù nhận biệt được một cách ý thức hay vô thức ) của những Chân Sư đã có lời thệ nguyện trợ giúp quả đât. Như vậy một kho năng lượng vĩ đại và trạm ánh sáng vĩ đại đã được xây dựng. Ánh sáng ngày được ban rải cùng khắp mọi nơi và những vận hà của nó sẽ có khắp nơi trên quốc tế, trong mọi xứ và mọi thành phố lớn. Điều này, chư môn đệ đã biết và với ngành này của việc làm phụng sự ( mà tôi đã cam kết thực thi ) Chư môn đệ cũng tích cực hợp tác .
Nhưng cũng hoàn toàn có thể tập trung chuyên sâu ánh sáng một cách dồi dào hơn nữa vào những đệ tử nhỏ hơn và lựa chọn một cách kỹ càng hơn. Qua những nhóm nhỏ hơn này, sự Open của vài loại thần lực hoàn toàn có thể biểu lộ, vài loại quyền lực hoàn toàn có thể khai mở và hoàn toàn có thể triển khai một cuộc thí nghiệm hoàn toàn có thể được xem xét và điều tra và nghiên cứu, việc tăng gia cường độ ánh sáng và năng lượng hoàn toàn có thể được chứng tỏ rõ ràng đến mức làm cho con người nhận ra được tác động ảnh hưởng của những hiện tượng kỳ lạ siêu nhiên là di sản của những thế hệ tương lai .
Tôi đã tự nguyện hiến mình cho ngành công tác làm việc đặc biệt quan trọng này do Thiên Cơ chỉ định. Nó sẽ là cái trọng tâm của nền văn minh tương lai và bởi đó những đặc tính mới và những nếp hoạt động và sinh hoạt tân kỳ hoàn toàn có thể khai triển dưới những ảnh hưởng tác động lớn lao của thời đại mới. Những điều này vẫn luôn luôn làm cho tôi thú vị và đặc biệt quan trọng chú trọng .
Lẽ tự nhiên tôi đã tìm kiếm trong số những người mà tôi đã từng theo dõi cuộc sống, có khi trong nhiều kiếp. Trong số đó có những người trong hàng ngũ chư môn đệ lúc bấy giờ đang cộng tác với tôi. Những nhóm đệ tử này là cái Mầm mống của cuộc thí nghiệm lớn. Nếu thành công xuất sắc thì trong chu kỳ luân hồi thời hạn 275 năm tới đây họ sẽ đạt được những hiệu quả sau :
1 ) Rút xuống địa cầu vài loại thần lực thiêng liêng mà trái đất cần dùng nhưng lúc bấy giờ vẫn chưa ảnh hưởng tác động .
2 ) Phát triển hết 6 loại thế lực thần thông mà tôi đã miêu tả trên đây .
3 ) Huấn luyện những thành viên trong nhóm về đặc thù tương quan tổng hợp tập thể, nó vốn là đặc tính của Đ.Đ.C.G, và như thế chuẩn bị sẵn sàng cho họ bước vào cửa điểm đạo. Trong số những nhóm này, sẽ chọn được những đệ tử hoàn toàn có thể được đặc biệt quan trọng chuẩn bị sẵn sàng cho việc khai triển tâm thức và hoàn toàn có thể phó thác trách nhiệm tiếp xúc với những góc nhìn của Thiên Cơ mà từ trước đến nay vẫn chưa được bật mý. Khi chư môn đệ càng triển khai việc làm này và tìm hiểu và khám phá ý nghĩa công tác làm việc tập thể, thì mỗi lúc lại càng thấy rõ ràng hơn thật sự Thiên Cơ là gì .
Tôi thấy khó lý giải cho chư môn đệ hiểu rõ mục tiêu rốt ráo của công tác làm việc tập thể này, cũng như khó lý giải bài toán rắc rối cho một đứa trẻ, mặc dầu nó mưu trí bực nào. Nhưng nếu chư môn đệ có đủ kiên trì thiết yếu, sẵn lòng thao tác một cách vô tư và với tình thương, nếu chư môn đệ đặt phàm ngã cá thể phụ thuộc vào đời sống tập thể thì chừng đó sự hiểu biết, sự nhận thức và ánh sáng sẽ tuôn tràn đến và năng lực thao tác cũng sẽ lở rộng. Chừng đó chúng tôi sẽ có những điểm tập trung chuyên sâu hay những người cầm đuốc soi đường và những vận hà để hoàn toàn có thể phân phối thần lực. Đó là một điều chưa từng có trên một quy mô mà lúc bấy giờ chúng tôi đang dự trù .

PHẦNVI

Tôi không muốn lập lại nhiều lần những huấn thị về con đường đạo của người đệ tử. Chư môn đệ là những người nam và nữ đã trưởng thành và biết rõ đường đi. Việc vận dụng trên trong thực tiễn những quy luật cổ là nghĩa vụ và trách nhiệm cá thể của mỗi người. Mỗi người đều có tự do hành vi tùy ý muốn. Chư môn đệ đã đạt tới mức độ già dặn của tâm hồn và phải chuẩn bị sẵn sàng bước thêm 1 bước nữa. Đó là khi chư môn đệ đã chuyển biến những kỹ năng và kiến thức và triết lý trở thành Minh Triết và thực hành thực tế .
Người đệ tử chỉ làm được những việc hữu hiệu nhất trong ý thức vô dục thật sự. Y nhận định và đánh giá rằng do bởi ý thức vô dục đó, suốt đời y chỉ là một người phụng sự ( một thành phần trong hàng ngũ hùng hậu của đoàn người phụng sự Thiên Cơ ). Tuyệt nhiên không có khuynh hướng, tiềm năng hay ước vọng riêng tư thuộc về phàm ngã riêng biệt. Đối với y không có gì khác hơn là làm công quả liên tục và tích hợp liên tục với những người khác. Y hoàn toàn có thể là một người bẩm chất cô độc thích sống một nếp sống đơn độc, nhưng điều ấy không quan hệ gì. Ấy là cái giá mà y phải trả cho cái thời cơ phân phối với nhu yếu của thời đại. Cái động cơ thôi thúc sự tiến hóa này đang luân chuyển mạnh và tiềm năng của nó là ngăn chận cái khuynh hướng phân ly cách biệt là cái điểm yếu kém của những dân tộc bản địa và vương quốc trong thời đại hiện tại. Bởi đó mới có những nhóm đệ tử hoạt động giải trí này, tiêu biểu vượt trội cho việc làm công tác làm việc tập thể, đoàn kết tập thể và không còn phân rẽ, chia tay .
Một số ít ( tương đối rất ít ) đệ tử và người có trực giác trên trần gian thời nay đang sát cánh với nhau trong 1 hoạt động giải trí song phương : một mặt cảm nhận và tiếp xúc một cách đúng đắn hơn với Thiên Cơ huyền diệu, mặt khác, thuyết giảng một cách rõ ràng hơn và tinh lọc một cách đúng đắn và khôn khéo hơn những danh từ đúng mực ( nói và viết ) để phô diễn chân lý. Sự trình diễn những chân lý đã cảm nhận được, chứng đó sẽ làm cho những người biết tâm lý ngăn chận khuynh hướng tư tưởng hiện tại của họ và hợp tác một cách khá đầy đủ hơn và dễ hơn trong việc soi đường giác ngộ cho trần gian. Tôi dùng chữ giác ngộ trên nghĩa Huyền Môn. Tầm mức vừa đủ toàn vẹn của việc làm của người đệ tử tùy nơi năng lực tâm linh của y biết sống mỗi ngày trên mức độ Chân Ngã hay linh hồn tức là với thái độ vô úy ( lòng không sợ sệt ), vô ngã ( không chấp nhân có cái Ta ích kỷ, cách biết với người ) và vô dụng tức là không bị vọng động bởi những xúc cảm của thể tình cảm là thể của dục vọng. Đối với người đệ tử, muốn cho việc làm phụng sự được hữu hiệu, thì điều kiện kèm theo là phải làm thế nào cho thể tình cảm được yên tĩnh, im re, nhạy cảm so với những ấn tượng của Chân Ngã và của Chân Sư, phản ảnh những nhãn quang tâm linh một cách rõ ràng đến mức tối đa. Nên nhớ rằng khi người đệ tử trọn vẹn bận rộn với một đời sống phụng sự trên tổng thể 3 cõi ( Tam Giới ) thì không có gì phải nhắc nhở y về điểm này. Nhưng điều này cũng sẽ có ích .
Trong đời sống nhọc nhằn bận rộn hằng ngày, người đệ tử giữ gìn sự toàn vẹn đậm cá tính và sự phối hợp ngặt nghèo của toàn bộ những phần trong cơ cấu tổ chức của mình. Trong sự hoạt động giải trí ráo riết của một thể này hay thể khác và trên một cõi giới này hay cõi giới khác, trong thời điểm tạm thời cái trọng tâm hoàn toàn có thể đặt quá nặng trên khunh hướng nào đó đến nổi y hoàn toàn có thể quên mất đi trong một lúc cái ý niệm tổng hợp của nhóm và của Thiên Cơ. Trên phương diện sức khỏe thể chất, y thao tác dưới một áp lực đè nén quá lớn. Trên phương diện xúc cảm y hoàn toàn có thể đang học bài khó khăn vất vả của đức tính vô dục, và bởi đó, trong thời điểm tạm thời có sự xung đột và phản ứng tâm ý. Nhưng trên phương diện trí tuệ, y ý thức được một ý thức sáng suốt và một năng lực suy luận nó làm cho y luôn luôn hoạt động giải trí một cách kiến thiết xây dựng. Bởi đó, người đệ tử thường hay gặp phải thực trạng này : thể xác stress quá độ, xúc cảm bị phản ứng tán loạn và trí óc minh mẩn, sáng suốt. Y sẽ xử sự bằng cách nào ? Sự stress sức khỏe thể chất không nhất thiết phải làm giảm bớt năng lực hoạt động giải trí của y. so với nhiều người thực trạng sức khỏe thể chất làm ngăn trở việc làm chính do tập trung chuyên sâu sự chú ý quan tâm vào trạng thái đau đớn hay stress của thể xác. Trái lại, người đệ tử thường có một năng lực lạ lùng là hoàn toàn có thể liên tục việc làm, bất luận viêc gì xảy đến cho thể xác. Bộ óc vật chất hoàn toàn có thể phản ảnh đời sống niềm tin đến mức làm cho y không bị phụ thuộc vào ngoại cảnh. Người đệ tử tập sống với những khuyết điểm về sức khỏe thể chất dưới những thực trạng trái nghịch, mà việc làm của y vẫn được duy trì ở một mức độ cao như thường lệ .
Vấn đề xúc cảm hoàn toàn có thể là khó khăn vất vả, nhưng chỉ có người đệ tử mới tự mình xử lý được mối thương cảm riêng tư và chấm hết cơn bão tố trong nội tâm của mình. Y phải nhìn nhận rằng sự tích hợp tâm linh còn yếu vì y thao tác trong hai quá trình :
Thể chất và xúc cảm
Trí tuệ và linh hồn
Khi thì y ở trong tiến trình này, khi ở quy trình tiến độ kia và thường rất hay nghiêng hẳn về một bên dù ở quy trình tiến độ nào. Tính chất lưỡng nguyên đó phải được tích hợp lại ngặt nghèo và đó là điều mà y phải chú trọng trong khi y cố gắng nỗ lực, thiết lập, giữ gìn sự tổng hợp thiết yếu và sự hợp nhất Phàm Ngã với Linh hồn .
Các đệ tử nên biết rằng thái độ gây nên một phản ứng bất cần và một hình thức thản nhiên, là một trong những giải pháp mau chóng nhất để giải tỏa Chân Ngã ra khỏi tác động ảnh hưởng của Phàm Ngã. Đây không phải là cái thái độ bất cần nó ảnh hưởng tác động đến cách xử sự của người đệ tử so với kẻ khác. Đó là thái độ suy tư của người đệ tử so với thể tình cảm của y. Nó làm cho y nghĩ rằng không một điều gì gây một phản ứng đau đớn khốn khổ nào trong thể tình cảm là đáng kể. Những phản ứng đó chỉ là những gì mà người ta phân biệt, kinh nghiệm tay nghề và chịu đựng, chứ không phải vì chúng mà giao động niềm tin. Chư môn đệ hãy tâm lý về những gì tôi vừa nói. Toàn thể yếu tố này địa thế căn cứ trên một sự tin yêu vững chãi nơi một thực tại vĩnh cửu, bất diệt ở bên trong những hình thức của linh hồn Phàm Ngã .
Sự nhận thức tâm linh nội tại này càng tăng dần với sự tăng trưởng quyền lực do công phu thiền định, dù triển khai một mình hay tập thể .
Thiền định là điều thiết yếu để tạo nên một sự tác động tâm linh tự do phóng khoáng hơn, dù là như một linh hồn so với Phàm Ngã hay như một nhóm đệ tử so với Chân Sư, hay trong sự liên hệ giữa những đệ tử với nhau. Chư môn đệ hoàn toàn có thể hỏi : Tại sao sự tác động tâm linh bén nhạy giữa những đệ tử trong một nhóm của Chân Sư được coi như thiết yếu. Cuộc đời há không đủ phiền phức hay chăng ? Chưa nói đến việc biết quá rõ về những thực trạng, đậm chất ngầu và giao cảm tâm linh với những người bạn đồng môn của mình .
Tôi muốn nhắc lại rằng trên cương vị đệ tử, chư môn đệ đang chuẩn bị sẵn sàng Điểm Đạo và trạng thái tâm thức này cần có 3 điều sau đây :
1 ) Tăng gia năng lực nhận thức và nhạy cảm so với mọi kinh nghiệm tay nghề và mọi hình thức hoạt động và sinh hoạt .
2 ) Khả năng làm cho kẻ khác những gì tôi đã làm cho chư môn đệ, trên một quy mô nhỏ hơn trong hiện tại và về sau trong những kiếp khác nữa như tôi đang làm lúc bấy giờ .
3 ) Can đảm và sức mạnh để biết tổng thể, nhận định và đánh giá tổng thể và yêu dấu với một sự sáng suốt khôn ngoan và thành thật không dời đổi .
Điều này chắc như đinh chư môn đệ phải thấy rõ. Trong công tác làm việc tập thể mà lúc bấy giờ những đệ tử được lôi kéo tham gia, mỗi người đều có thời cơ tăng trưởng tổng thể những đức tính thiết yếu để được điểm đạo trong một thời hạn không xa lắm, theo ý niệm thời hạn của chúng tôi trên góc nhìn ẩn vi nội tại .
Giáo Lý Huyền Môn vẫn luôn luôn dạy rằng người đệ tử hay đạo đồ phải hòa mình với thực trạng cà rút những bài học kinh nghiệm tâm linh do những điều kiện kèm theo thân thế và thực trạng bên ngoài mà cuộc sống trần gian đặt để y vào trong kiếp hiện tại. Đó là một trong những điều sơ đẳng trên đường đạo. Tuy nhiên so với người đệ tử và đạo sinh sơ cơ nó là một ý niệm có khi cũng mới như giáo lý mà tôi đưa ra cho nhóm đệ tử này, và như cái thời cơ đặc biệt quan trọng này mà tôi muốn cho chư môn đệ nắm lấy. Sự huấn luyện và đào tạo từ trước đến nay vẫn được thực thi trên những cõi giới siêu linh mà người đệ tử thường không hay biết gì cả trong trạng thái thức tỉnh, giờ đây phải nắm vững, sử dụng và làm chủ một cách ý thức trong lúc thức tỉnh và bằng khối óc vật chất .
Trong quá khứ, người đệ tử tìm cách thiết lập chung những quan hệ điều hòa với thực trạng bên ngoài. Sự điều hòa vốn là một trong những mãnh lực giải thoát phải được đi trước việc giải tỏa năng lượng để sử dụng sau khi Điểm Đạo. Người ấy thực hành thực tế đức kiên trì, khoan dung năng tương hỗ, phụng sự, do bởi một phép xử thế đối ngoại chân chính địa thế căn cứ trên sự chuyển hướng bên trong và một thái độ tâm linh ngay chính. Nhưng với trào lưu văn minh của trái đất lúc bấy giờ, cần có một ý niệm nói, theo đó phép xử thế đối ngoại ngay chính nói trên trong KỶ NGUYÊN MỚI phải đi tuy nhiên đôi với những đối sánh tương quan nội tại chân chính, được tạo nên một cách ý thức, giữ gìn một cách ý thức bởi khối óc và lý trí của người đệ tử. Bởi vậy, điều này cần có sự hiểu biết chân chính về mối đối sánh tương quan tập thể tâm linh nội tại của người đệ tử, sự xâm nhập linh hồn vào đời sống bên trong của một bạn đồng môn và sự hỗn hợp đồng loạt của toàn bộ những liên thức trên những cõi giới nội tại và ngoại tại trong toàn mạng lưới hệ thống tâm, trí và não bộ của người đệ tử. Điều này cho đến nay vẫn chưa được thực thi. Đó là một trong những nguyên do chính của sự xây dựng nhóm này, có tương quan đến mỗi trường hợp riêng rẽ của mỗi thành viên trong nhóm. Việc ấy sẽ được triển khai một cách tuần tự và bảo đảm an toàn bằng công phu thiền định tập thể hằng ngày do tôi chỉ định, bằng sự thú vị về yếu tố công tác làm việc TGCC và bằng một tình thương mật thiết hơn, sâu đậm hơn do toàn bộ chư môn đệ đều vun bón bảo trì .
Có ba điều quan trọng mà mỗi đệ tử nên coi như nghĩa vụ và trách nhiệm cá thể của mình :
1 ) Quan hệ thuận tiện : Với tư cách là một thành viên trong nhóm, mỗi đệ tử cần trau dồi hai góc nhìn của “ Nghệ thuật đối sánh tương quan ” vốn địa thế căn cứ trên sự mê hoặc bằng tình thương .
a ) Quan hệ hay tiếp xúc với Chân Ngã bằng sự điều chỉnh tâm linh và sự thiền định đúng phép .
b ) Quan hệ tiếp xúc với những bạn đồng môn trong nhóm. Điều này đặt nền tảng cho công tác làm việc thiết kế xây dựng và hòa hợp .
2 ) Vô tư : Tôi hoàn toàn có thể nói gì hơn về yếu tố này ? Chư môn đệ phải tập đồng ý những ý tưởng sáng tạo hay đề xuất của một bạn đồng môn với một thái độ “ Thản nhiên siêu thoát ” trọn vẹn và có tập luyện kỹ. Hãy ghi nhận danh từ siêu thoát vì nó là tuyệt kỹ của thái độ cần có .
Nó là một cái gì khác hẳn với sự thản nhiên bất cần đời, hay thản nhiên do một thái độ lẩn trốn những gì xấu xa, không vui thích, nó cũng không phải là sự thản nhiên do mặc cảm tự tôn. Đó là sự thản nhiên đồng ý mọi sự xảy đến, thản nhiên dùng những gì hoàn toàn có thể dùng được, học hỏi những gì hoàn toàn có thể học hỏi được, nhưng không bị dội ngược bởi những phản ứng của Phàm Ngã. Đó là thái độ thông thường của linh hồn so với ngoại vật, của Chân Ngã so với Chân Ngã. Đó là sự thoát ly ra khỏi mọi thành kiến chật hẹp, mọi tiếp thị quảng cáo của bản ngã, mọi ảnh hưởng tác động hay danh vị. Đó là cái phương pháp thoát khỏi “ Thế gian xác thịt và hung thần quỷ ác ”, có đề cập đến trong quyển TÂN ƯỚC .
3 ) Tình thương là sự thông cảm gồm có không chỉ trích, có sức mê hoặc từ điển và là cái thái độ nó giữ gìn : sự hòa hợp của nhóm trong công tác làm việc tập thể, phát huy, hòa điệu tập thể và không để cho những thái độ tách biệt, phân loại của Phàm Ngã xen vào làm trở ngại cho việc làm chung của toàn nhóm .
Quan hệ tương giao, vô tư và tình thương, Đó là ba tiềm năng cá thể mà tôi đặt ra cho mỗi người và cho toàn bộ chư môn đệ. Những nhu yếu tập thể mà mỗi nhóm đệ tử phải đạt được và giữ gìn với tư cách một nhóm hội đồng, gồm có như sau :
a ) Thành tín : Điều này có được là do một sự tích hợp đúng đắn và đề cập tới sự quân bình tế nhị cần được duy trì giữa những thành viên trong nhóm. Cứu cánh sẽ Open một sự hợp nhất vững vàng bền vững và kiên cố, không bị rời rạc, lỏng lẻo làm gián đoạn và đối sánh tương quan tập thể. Điều này sẽ đến nếu mỗi thành viên trong nhóm chỉ cần lo việc của mình và để cho những bạn đồng môn lo việc của họ. Nó sẽ đến nếu mọi người gìn giữ sao cho những vấn đề cá thể, những mối lo nghĩ và những chuyện rắc rối riêng tư của mình được đặt ở ngoài vòng hoạt động và sinh hoạt tập thể. Nó sẽ đến nếu chư môn đệ giữ đừng trò chuyện cùng nhau và đừng đem ra phẫu thuật những việc riêng và những cử chỉ thái độ của mình. Điều này rất quan trọng trong tiến trình này của công tác làm việc tập thể. Điều ấy có nghĩa là nếu hoàn toàn có thể giữ gìn được như trên, chư môn đệ sẽ hoàn toàn có thể giữ cho tâm hồn mình không bị vướng bận bởi những sự li ti thuộc về sự sống của Phàm Ngã. Đó có nghĩa là tâm lý sẽ được tự do để phụng sự trong công tác làm việc tập thể .
b ) Đó là năng lực của nhóm để hoạt động giải trí như đơn vị chức năng. Điều này tùy nơi sự có được một thái độ cá thể đúng đắn, và trong khi thao tác, đạt tới cái năng lực quên hết mọi sự trừ ra việc làm phải làm và một tình thương sâu xa so với bạn đồng môn .
c ) Thông cảm : Tôi dùng chữ này để chỉ sự hiểu biết của Chư môn đệ về việc làm phải làm, chứ không phải để nói cái thái độ thông cảm so với chính mình hay so với những bạn đồng môn. Điều này có nghĩa là mọi nhóm thi hành công tác làm việc đã được chỉ định cho mình một cách khôn ngoan và với niềm tin thông cảm, vì biết rằng việc làm ấy góp thêm phần vào cái toàn thể đã có sẵn trong trí của Chân Sư .
Thành tín, hòa hợp, thông cảm, đó là trật tự của công phu tu tập để tăng trưởng tân tiến. Tất cả những nhóm hoạt động giải trí ngoài trần gian trong sự đối sánh tương quan liên hệ tới những Đạo Viện của những Chân Sư, sẽ theo vài quy trình tiến độ sơ khởi và ở đầu cuối trong việc làm của họ. Những quy trình tiến độ này sẽ giống hệt cho tổng thể những nhóm, bất luận họ làm những công tác làm việc nhất định nào cũng vậy. Như thế sẽ có một sự liên hệ đối sánh tương quan giữa những nhóm và do đó sẽ có sự củng cố tăng cường cho những nhóm riêng không liên quan gì đến nhau. Giai đoạn thứ ba của việc làm phải làm là sẽ đặc biệt quan trọng khác hẳn nhau ở mỗi nhóm và phải được mỗi nhóm noi theo một cách rành rọt tỉ mỉ. Tôi nhu yếu tổng thể những nhóm thao tác dưới sự tinh chỉnh và điều khiển của tôi hãy lo việc làm riêng trong nhóm của họ và đừng phê phán nghị luận gì về đặc thù của việc làm mà những nhóm khác đang làm .
Đây là những quá trình phải noi theo :
– Giai đoạn một : Điều chỉnh, thức động chân ngã, tự tại tâm linh. Tự tại là sự giữ gìn cho chân ngã, sau khi đã được thức động, ở vào trạng thái vững vàng, không lay chuyển dời đổi .
Kế đó là gạt bỏ mọi phản ứng phàm ngã một cách ý thức .
Tiếp theo là sự nhìn nhận sự kiện tình thương như một biểu lộ của sự thúc động chân ngã ( biểu lộ qua sự trung gian của phàm ngã ) .
Sau cùng là sự hòa hợp cung thuộc về linh hồn và cung của phàm ngã. Đó là quy trình tiến độ theo mạng lưới hệ thống dọc .
– Giai đoạn hai : Giai đoạn trên đây sẽ được tiếp nối bằng sự tích hợp, hòa hợp tập thể, được thực thi một cách ý thức .
Bằng cách đem mỗi thành viên trong nhóm vào một sự đối sánh tương quan ý thức, do sự gọi tên và do tình thương .
Bằng cách thấy toàn bộ những thành viên trong nhóm như một vòng tròn những điểm ánh sáng, với chính mình cũng ở trong chu vi vòng tròn nhưng không ở tại TT .
Bằng cách tương tượng toàn bộ những điểm ánh sáng đó như hòa hợp lẫn nhau để tạo thành một ngôi mặt trời chói rạng với những tia sáng phóng ra đến tận bốn phương trời .
Đó là tiến trình theo mạng lưới hệ thống ngang .
– Giai đoạn ba : Kế đó là sự xem xét tỉ mỉ mục tiêu và kỹ thuật của nhóm. Kỹ thuật này sẽ khác nhau ở mỗi nhóm. Việc vận dụng tích cực và tiếp tục kỹ thuật đặc biệt quan trọng được chỉ định cho mỗi nhóm sẽ đưa đến những hiệu quả mong ước. Kỹ thuật này không được đổi khác bởi bất kể một người nào ngoài những tôi .
Những tiến trình I và II sẽ hiệu suất cao mau chóng và phần nhiều cấp thời sau 3 tháng công phu tập luyện. Hãy để tâm chú ý quan tâm và cẩn trọng vào những quy trình tiến độ này để tăng trưởng được những thói quen vững chãi và tránh mọi khó khăn vất vả trắc trở về sau. Những quá trình sơ khởi trong việc làm thuộc loại này có một tầm quan trọng rất lớn .
– Giai đoạn bốn : Sau khi kết thúc công tác làm việc tập thể đặc biệt quan trọng trong quá trình III, những thành viên trong nhóm sẽ cố gắng nỗ lực giao cảm với những nhóm khác cũng giống như họ đã giao cảm với những người cùng trong một nhóm với mình. Tuy nhiên, trong trường hợp này, những đệ tử sẽ không liên hệ gì với những nhân viên cấp dưới của bất kể một nhóm nào, mà với tư cách là một nhóm tập thể, họ chỉ thông suốt nhóm của họ với những nhóm khác. Như vậy những ý niệm về ảo giác và chia rẽ và việc thực thi sự hòa hợp sẽ hiện rõ dưới tầm mức đúng đắn của chúng trong trí của chư môn đệ .
a ) Kế đó trong tư cách tập thể của nhóm, hãy thốt lên 3 lần lời cầu nguyện này :
“ Cầu xin những lực lượng của ánh sáng đem sự giác ngộ đến cho trái đất. ”
“ Cầu xin niềm tin của sự bình an được ban rải khắp nơi. ”
“ Ước mong những người có thiện chí ở khắp nơi sẽ gặp nhau trong ý thức hợp tác. ”
“ Cầu xin Quyền Năng hỗ trợ cho những cố gắng nỗ lực của Những Đấng Cao Cả. ”
b ) Kế đó đọc Thánh Ngữ AUM ba lần .
c ) Chấm dứt với lời cầu nguyện của phàm ngã so với linh hồn :
“ Cầu xin những lời do miệng tôi thốt ra và sự suy gẫm trong tâm của tôi sẽ luôn luôn đồng ý được so với nhãn quang của Ngài, hỡi Chân Ngã, Thượng Đế ngự trong lòng tôi và Đấng cứu rổi của tôi. ”

Mỗi nhóm đệ tử cần có một năng lực TGCC bén nhạy. Điều này địa thế căn cứ trên ba việc thiết yếu sau đây mà tôi muốn cho Chư môn đệ hiểu biết được rõ ràng hơn :
Sự thiết lập một mối đối sánh tương quan liên hệ trong nhóm có đặc thù TGCC trên cõi trí tuệ là một điều thiết yếu. Điều này vẫn luôn là một sự việc cố định và thắt chặt trong trường hợp của Chân Sư và đệ tử, và giữa những cao đồ trong mỗi nhóm đệ tử chính thức .
Nay đã đến lúc mà vì nhu yếu của thế hệ, cái đặc thù đó phải được tăng trưởng bởi những đệ tử ở những cấp dưới trong nhóm .
Sự tăng trưởng năng lực TGCC này sẽ đưa đến một năng lực nhạy cảm lớn lao hơn so với kẻ khác. Đó là cái tuyệt kỹ trong việc làm của Chân Sư, nó là cái yếu tố giúp NGÀI hành vi xuyên qua những đệ tử, và dùng họ như những tiền đồn cho tâm thức của NGÀI. Để làm được điều này một cách đúng đắn, NGÀI phải biết rõ thực trạng tâm linh, trí tuệ và sức khỏe thể chất của họ lúc nào NGÀI muốn. Bằng cách đó, NGÀI hoàn toàn có thể biết rõ họ hoàn toàn có thể chuẩn bị sẵn sàng được sử dụng hay không trong một công tác làm việc nhất định nào đó, hoặc họ hoàn toàn có thể được sử dụng cách bảo đảm an toàn hay không, sự nhạy cảm của họ có đủ sức bén nhạy và đúng chuẩn chăng để cung ứng nhu yếu một cách mưu trí sáng suốt. Phải chăng tôi đã từng có lúc xem xét tổng thể chư môn đệ trên phương diện này ? Hãy suy gẫm về điều này và toàn bộ những góc nhìn liên hệ .
Khả năng TGCC bén nhạy này cũng sẽ đưa đến sự tăng trưởng một ngành khoa học mới về chiêu thức viễn thông sẽ được thông dụng và hiểu biết trong KỶ NGUYÊN MỚI. Máy vô tuyến truyền thanh là một hình tượng ngoại tại trên cõi vật chất của năng lực mới này .
Vài câu hỏi hoàn toàn có thể được nêu ra về yếu tố này. Một câu hỏi là người ta có quyền tác động ảnh hưởng bằng TGCC trên trí não người khác không ? Câu vấn đáp là tất cả chúng ta vẫn làm điều ấy bất kể khi nào, hoặc hữu thức hay vô thức và không nghệ thuật và thẩm mỹ ( ? ) hay không mục tiêu, hay là nếu có mục tiêu thì nó thường là một đích ích kỷ. Chính do TGCC mà những ý niệm được thông dụng trên trần gian bằng phương pháp gây ấn tượng trên trí não của một đệ tử hay của một người nhạy cảm. Kế đó, những người này mới tìm ra và tinh chỉnh và điều khiển trí não và hoạt động giải trí của những người có trách nhiệm, không những là cung ứng với những ấn tượng đó, mà còn chuyển đạt nó vào tâm thức của những tư tưởng gia trên quốc tế .
Chư môn đệ có khi nào tự hỏi rằng những góc nhìn nào của việc làm tương quan tới TGCC nêu ra những câu hỏi trong trí của mình ? Phải chăng đó là sự nghi vấn một ý đồ hay quan điểm của Phàm Ngã, và phải chăng đó cũng là sự tự vấn lương tâm về sự thành thật hay hậu ý của chính mình ? Không thể nào có sự bảo đảm an toàn trong việc làm này trừ phi nó được thi hành một cách vô kỷ và trọn vẹn không có thành kiến hay dục vọng cá thể dù trên địa hạt chính trị hay tôn giáo. Vì thế nên tôi phải nhấn mạnh vấn đề rằng, chư môn đệ cần làm công tác làm việc này ở điểm cao nhất trong cơn Thiền định và với sự tuyệt đối tuân theo những quyết định hành động của tôi trong yếu tố này .
Một câu hỏi khác hoàn toàn có thể là : việc làm mà tôi gợi ý cho chư môn đệ và việc làm của những vị SẮC GIỚI THIÊN THẦN khác nhau như thế nào ? Không khác gì cả, trừ ra động lực hành vi và cái khởi điểm từ đó chư môn đệ phải nỗ lực hoạt động giải trí. Các vị SẮC GIỚI THIÊN THẦN hoạt động giải trí trọn vẹn trên những cảnh giới thấp của cõi THƯỢNG GIỚI và với năng lượng của sự hiểu biết. Khía cạnh Bác Ái của linh hồn lại bất động và bởi đó, xét theo quan điểm của THIÊN CƠ, họ có những động cơ hành vi trái đạo và những tiềm năng ích kỷ. Điều này đúng với cá thể cũng như đúng với những tập thể. Đừng quên rằng những vị SẮC GIỚI THIÊN THẦN này là những linh hồn có tuổi tác rất cao và rất mù quáng. Nhưng về sau, trong một chu kỳ luân hồi xa xôi trong tương lai, khi họ đã trả dứt tổng thể những nghiệp quả xấu, họ cũng sẽ khởi đầu tăng trưởng góc nhìn Bác Ái và chuyển hướng những tiềm năng hành vi của họ. Chư môn đệ cũng phải hoạt động giải trí từ những mức độ trí tuệ, nhưng kỹ năng và kiến thức và tình thương phải cùng biểu lộ song song, để tạo nên những tác dụng tương thích một cách điều hòa và mưu trí với kế hoạch của THIÊN CƠ. Nhưng đệ tử không được phép chuyển vận và ảnh hưởng tác động đến góc nhìn Ý CHÍ của linh hồn, trừ phi họ là những bậc Đạo Đồ đã có từ 3 lần ĐIỂM ĐẠO. Trước tiến trình đó ít khi họ đánh giá và nhận định sự khác nhau giữa việc áp đặt ý chí và việc gieo ý niệm một cách ý thức, có điều kiện kèm theo. Họ hãy còn quá nhiều dục vọng ( vốn là ý chí còn ở trong trạng thái phôi thai ) để có được đáng tin cậy với cái góc nhìn cao siêu này của sự hoạt động giải trí trí não. Trong công tác làm việc tiếp xúc bằng TGCC mà những nhóm đệ tử dưới sự hướng dẫn của tôi phải làm, hãy nên biết rằng chính giao ý niệm mới là cái lý tưởng tập thể của nhóm chứ không phải là sự áp đặt ý chí của mình để chỉ huy kẻ khác. Đó là hai điều rất khác nhau .
Chư môn đệ cũng hoàn toàn có thể nêu ra câu hỏi : Làm sao việc giao ý niệm tập thể đó hoàn toàn có thể liên tục mà vẫn để cho người ta được tự do ? Đó là vì nó sẽ không dính dáng gì đến sự vận dụng mãnh lực của Ý Chí. Những phụng sự viên và đệ tử trong nhóm của tôi chỉ nỗ lực làm được điều này là gieo ấn tượng vào trí não 1 số ít người về những ý niệm đại cương hay những điểm gợi ý liên hệ đến THIÊN CƠ. Những ý niệm này sẽ đặc biệt quan trọng đề cập tới cái ý niệm rằng sự chia rẽ, phân làn là một điều của quá khứ nay đã lỗi thời và sự hợp nhất là tiềm năng của tương lai tiếp cận, rằng sự thù hận, ganh ghét là một điều lỗi thời và bất hảo, còn sự thiện chí mới là tuyệt kỹ để chuyển hướng và biến hóa quốc tế. Trong việc làm này, làm thế nào giữ cho trí óc được tự do, không bị tác động ảnh hưởng bởi những dục vọng và thiên kiến riêng tư của mình ? Bằng cách thực thi sự yên lặng thư thả nơi hai góc nhìn thấp thỏi của Phàm Ngã là thể tình cảm và bộ óc sức khỏe thể chất cũng như cái phách của bộ óc. Những bộ phận này pháp luật những phản ứng của những bí huyệt ở dưới, nhất là bí huyệt nơi rún. Chừng đó cái trí sẽ được tự do để thi hành chức vụ sau đây :
1 ) Thức động chân ngã : Điều này sẽ đưa đến sự thông tuệ, sáng suốt để hiểu biết những góc nhìn tiếp cận của THIÊN CƠ .
2 ) Phát động tư tưởng và tạo hình tư tưởng. Khi đó một hình tư tưởng rõ ràng hoàn toàn có thể được tạo nên và hoàn toàn có thể được tinh chỉnh và điều khiển một cách tích cực .
3 ) Hoạt động trên tầm mức trí tuệ với những bạn đồng môn để hỗn hợp những hình tư tưởng của mình với họ. Chừng đó chư môn đệ sẽ cùng tạo nên một hình tư tưởng sôi động, hưu thể để hoàn toàn có thể tùy nghi tinh chỉnh và điều khiển theo sự chỉ định của tôi .
Một câu hỏi khác hoàn toàn có thể được nêu ra cần phải tuân theo những luật nhất định nào không ? Vài quy luật sau đây hoàn toàn có thể được tuân theo nhưng hãy nhớ rằng trong việc làm này, cái tâm niệm của mình mới là điều đáng kể hơn bất kỳ điều nào khác. Yếu tố số 1 là sự vô hại không sát phạt trong tư tưởng và lời nói. Điều này nên được thực hành thực tế với một sự quan sát đúng đắn, sẽ trợ giúp rất nhiều cho tổng thể. Kế đó là không nghĩ quấy, hay phê bình chỉ trích, nhất là so với những người mà mình muốn giao cảm bằng cách gieo ý niệm trong trí họ. Sự yên lặng trọn vẹn và liên tục, về việc mà mình đang làm, cũng là một yếu tố thiết yếu. Thật ra những lời nói có liên hệ đến việc làm có tính cách vô cùng tế nhị và riêng tư này hay thậm chí còn bàn luận về việc làm này với một bạn đồng môn, hoàn toàn có thể phá vỡ cái hình tư tưởng tế vi mà mình đang muốn thiết kế xây dựng. Nó hoàn toàn có thể làm hỏng mất một khu công trình đã được xây đắp công phu trong nhiều tuền lễ, kế đó cũng cần phải vun trồng, tu dưỡng một thái độ quân bình, không thiên lệch so với những nhân vật cầm quyền ở khắp nơi trên quốc tế. Họ cần có trên hết mọi sự, nguồn cảm hứng thiêng liêng mà TGCC hoàn toàn có thể đem đến cho họ từ cõi trên .
Bởi vậy, tôi nhu yếu chư môn đệ hãy thanh lọc tâm chí mình và tẩy trừ mọi tư tưởng chỉ trích, bất hảo để hoàn toàn có thể đạt đến một thái độ thản nhiên siêu thoát so với những phàm nhân biến hóa vô thường những cảnh hỗn độn, điên cuồng ở bất kể nơi đâu mà mình nhìn thấy và nỗ lực kiểm soát và điều chỉnh theo cùng nhịp độ của TIÊN THÁNH. Điều này đặt nặng trọng tâm trên góc nhìn tâm thức và gồm có việc quan sát tỉ mỉ tổng thể những gì diễn ra trong sự kín kẽ bí mật, trong khi đó, cố gắng nỗ lực thức tỉnh và kích động đám quần chúng từ trước vẫn vô ý thức cho họ có một hoạt động giải trí trí não can đảm và mạnh mẽ. Nhân loại vẫn luôn luôn sôi động và thức tỉnh so với những giá trị tâm linh ẩn tàng. Đ.Đ.C.G vẫn luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng ứng đáp với nhu yếu của trái đất cần có sự dìu dắt hướng dẫn. Sự nhạy cảm của trái đất do hậu quả của cuộc chiến tranh kinh tế tài chính bấp bênh, lo âu sợt sệt và đau khổ gây nên, đã trở nên bén nhạy đến nỗi chúng tôi là những người hoạt động giải trí trên góc nhìn ẩn vi nội tàng của cuộc sống, phải nhanh lẹ gieo tâm lý của những người nhạy cảm và thức tỉnh tâm linh những ấn tượng và ý niệm đúng đắn. Do đó mới có sự cố gắng xây dựng những nhóm này và sử dụng chư môn đệ là những người vô hại ( trên triết lý ), nhưng thật sự còn đầy thành kiến và xét đoán hấp tấp vội vàng. Chúng tôi phải sử dụng những gì có sẵn trong tầm tay và luôn luôn bị vấp phải những chướng ngại rất lớn .
Sau khi đã nỗ lực thanh lọc tâm lý mình và vô hiệu thành kiến cùng những xét đoán và quyết định hành động cẩu thả hấp tấp vội vàng ( địa thế căn cứ trên thân thể truyền thống lịch sử, chủng tộc và vị thế xã hội ) chừng đó chư môn đệ sẽ suy gẫm về phương pháp tạo hình tư tưởng. Hãy nhớ rằng vì những tiềm năng tập thể của nhóm và để cho được đơn giản và giản dị, cần ghi nhận 3 tiến trình sau :
1 ) Suy gẫm về những ý niệm mà mình định gieo vào trí não của một người nào đó. Sự suy gẫm và tư tưởng được tinh chỉnh và điều khiển cẩn trọng tạo nên việc thiết kế xây dựng, đó là một hoạt động giải trí phát minh sáng tạo và là quy trình tiến độ đầu trong việc làm của tất cả chúng ta. Tôi không muốn chư môn đệ tạo nên hình tư tưởng. Tôi chỉ muốn rằng chư môn suy gẫm rõ ràng theo những đường lối của tôi đưa ra. Chừng đó những hình tư tưởng mong ước sẽ đương nhiên thành hình và toàn bộ chư môn đệ đều sẽ góp phần phần nào công lao trong đó .
2 ) Khi hình tư tưởng được thiết kế xây dựng bằng cách đó trong trí của chư môn đệ, sẽ đến một thời kỳ mà nó trở nên sôi động. Nó lần lần trở nên sự biểu lộ sôi động của sáng tạo độc đáo mong ước với sự rung động đầy sức sống và sẵn sàng chuẩn bị được sử dụng .
3 ) Khi đã đạt tới tiến trình này, chừng đó chư môn đệ sẽ hoạt động giải trí tập thể như một nhóm để khởi đầu việc làm tinh chỉnh và điều khiển. Khi đã nhắm cẩn trọng trong trí cái đối tượng người tiêu dùng mà mình định gieo tác động ảnh hưởng và phân định rõ sự kiện rằng nhóm của mình là động lực gieo ý niệm ( như vậy để tạo nên lưỡng cực đối tượng người dùng cho sự ảnh hưởng tác động mong manh ( chư môn đệ sẽ nhìn cái ý tưởng sáng tạo biểu lộ đang hoạt động và sinh hoạt và động tác vãng lai giữa đối tượng người dùng ấy. Chư môn đệ sẽ phóng nó ra trên những luồng sóng của tình thương do sự thôi thúc của ý muốn phụng sự và tuân theo thông tư của tôi. Thỉnh thoảng nó hoàn toàn có thể quay về với chư môn đệ để tiếp thêm sinh khí và bồi dưỡng sinh lực trước khi việc làm của nó được thành tựu mỹ mãn .
Tất cả những nhóm đệ tử này đều được coi như những biểu lộ của một loại đối sánh tương quan tập thể nó sẽ được biết và hiểu rõ hơn khi quốc tế bước vào thế hệ độc lập tới đây. Như chư môn đệ đã biết, trong tương lai, vài loại thần lực sẽ được những nhóm sử dụng vào những mục tiêu tập thể nhất định và vào việc phụng sự trần gian. Chư môn đệ không nên quên những động lực thôi thúc tổng thể những việc làm phụng sự đó, trong khi học hỏi và hoạt động giải trí trong một nhóm đệ tử của Chân Sư. Mục đích không phải là đem sự trợ giúp và văn minh cá thể cho mỗi người mà là sự huấn luyện và đào tạo trong vài việc kiểm soát và điều chỉnh và hoạt động và sinh hoạt tập thể để giúp cho những nhóm đệ tử này hoạt động giải trí theo một giải pháp nhất định. Tuy nhiên, sự kiện cho rằng một nhóm sẽ thao tác với một loại năng lượng và một nhóm đệ tử khác sẽ sử dụng một loại năng lượng khác nữa, không nên coi như tín hiệu của sự hoạt động giải trí cách biệt hay chia rẽ. Tất cả đều sẽ nhằm mục đích một mục tiêu chung và sẽ thao tác với một năng lượng vạn vật thiên nhiên duy nhất. Năng lực này chỉ phân hóa thành nhiều sức mạnh khác nhau vì mục tiêu phụng sự trong một ngành này hay ngành khác của đời sống nhân sinh. Hãy suy gẫm sâu xa về những góc nhìn khác nhau của kế hoạch làm công tác làm việc tập thể mà tôi đã phác họa những nét đại cương, vì nó là một nỗ lực bộc lộ vài tiến trình hoạt động và sinh hoạt của THIÊN CƠ trên địa cầu .
Cái năng lượng được sử dụng trong công tác làm việc TGCC, người Ấn Độ gọi là Chitta, tức là cái trí lực, vốn là cái vật liệu cơ bản của sự biểu lộ thiên hà. Tuy nhiên THƯỢNG ĐẾ tác động ảnh hưởng với một vật liệu còn tế vi hơn trí lực này trên một tầm mức cao hơn nữa, và những mãng trên cõi trí tuệ là sự phản ảnh hay đúng hơn là sự kết tinh đông đặc của cái vật liệu tế vi đó. Những sức mạnh đó, cái trí lực vẫn luôn luôn chuyên động không ngừng. Điều này gây nên cái tác động ảnh hưởng cá thể hay tập thể. Trong mọi công tác làm việc TGCC thật sự ( thi hành một cách đúng mực không lầm lẫn và xuất phát từ một khởi điểm bình tĩnh yên lặng ). Những giòng trào lưu của trí lực này được luân chuyển giữa những điểm đó bởi ý chí và bởi cái ý niệm rõ ràng trong trí của người dữ thế chủ động. Một phần trí lực đó ( đã hoạt động ) được tạo thành trong sự giao cảm này, thí dụ như tôi ví dụ điển hình, trước hết thiết lập một trào lưu quan hệ giữa tôi với một đệ tử. Dọc theo trào lưu đó, tôi gieo cái ấn tượng hay hình tư tưởng mà tôi cố gắng nỗ lực làm cho nó gắn chặt trong trí người đệ tử, và sau đó ghi sâu vào bộ óc của ý thức nếu người này hoàn toàn có thể tự kiểm soát và điều chỉnh để tiếp đón. Phương thức này hoàn toàn có thể mau hoặc chậm. Nếu sự kiểm soát và điều chỉnh được đúng đắn, người đệ tử hoàn toàn có thể ngay tức khắc đáp lại tư tưởng của tôi. Nếu không thì chỉ sau nhiều ngày hay nhiều tuần, y mới nhận được ấn tượng ấy trong trí óc của mình .
Ngoài ra còn những nhóm đệ tử khác hoạt động giải trí với một loại năng lượng hoàn toàn có thể dẹp tan ảo ảnh và ảo giác. Đó là thứ năng lượng trên cảnh giới cao nhất của cõi trung giới. Cảnh giới này hoàn toàn có thể cung ứng với loại năng lượng gọi là năng lượng trực giác hay năng lượng của Minh Triết ( Buddhi ). Loại năng lượng của minh triết này gọi là loại năng lượng duy nhất hoàn toàn có thể giải tán mọi thứ mù hỏa sa mưa của quốc tế ảo ảnh. Những đệ tử hoạt động giải trí trong những nhóm ấy cần phải tập sử dụng loại năng lượng này để thao tác một cách khôn ngoan, suy tư một cách sáng suốt và nhận thức rằng Minh Triết là một sức mạnh. Chính sự nhận thức này làm cho người ta đi tìm một người khác có Minh Triết hơn, khi mà y gặp sự rắc rối khó khăn vất vả và mong ước nhìn thấy rõ ràng con đường mà mình phải noi theo. Chính sự nhận thức đó thôi thúc quả đât đi tìm những Chân Sư Minh Triết .
Hỡi thời đại của Châu Atlantide, trách nhiệm chính của Chân Sư Minh Triết là xử lý yếu tố đại ảo ảnh hay ảo giác của trần gian. Hồi đó những Ngài hành vi nhiều nhất là trên cõi Trung giới, và nếu không có việc ấy thì đời sống và điều kiện kèm theo hoạt động và sinh hoạt của trái đất đã không được tốt đẹp như giờ đây .
Ngày nay, cái Ngài đặt trọng tâm hoạt động giải trí trên cõi Thượng Giới, hành vi với tư tưởng ý niệm và gieo ấn tượng về những tư tưởng ấy vào trí não những đệ tử và của những thành phần tân tiến trong quả đât. Vấn đề khó khăn vất vả của toàn thể quả đât nói chung là hoạt động giải trí trong ảo ảnh của trần gian. Những đệ tử ở ngoài đời có nghĩa vụ và trách nhiệm dìu dắt trái đất mê đồ của ảo giác. Người đời phải tập hiểu biết yếu tố này và với sự trợ giúp của những cao đồ sống ngoài trần gian, cứu cánh họ hoàn toàn có thể đổi khác và giải tán mọi ảo ảnh và ảo giác .
Bởi vậy chư môn đệ hãy nhớ rằng, trách nhiệm của người đệ tử lúc bấy giờ là gieo vào thời đại mới cái ý niệm trình diện đại ảo ảnh và ảo giác ra trước ánh sáng. Trong ánh sáng những điều hư ảo sẽ biến mất. Trong thời đại này, con người đã kìm hãm được những sức mạnh vạn vật thiên nhiên và đem lại cho tất cả chúng ta sự thụ hưởng một cách sung mãn những tài nguyên vật chất của cõi hồng trần. Chúng ta đã chinh phục và sử dụng những sức mạnh đó để triển khai ý muốn và thỏa mãn nhu cầu mọi nhu yếu, thường là một cách kỹ, nhưng cũng có khi với một ý niệm trong sáng, tốt đẹp. Trong Kỷ Nguyên Mới, con người sẽ kìm hãm được những mãnh lực ảo ảnh ảo giác và làm chủ được những hiện tượng kỳ lạ của quốc tế siêu linh. Trong hiện tại tất cả chúng ta tìm cách tương khắc và chế ngự những sức mạnh đó bằng trí lực và trên kim chỉ nan. Nhưng chỉ có năng lượng của Minh Triết mới đủ sức dẹp tan những mãnh lực của ảo ảnh ảo giác trên trần gian .
Hãy thực hành thực tế Minh Triết để trợ giúp quả đât và rút ngắn sự tranh đấu của họ chống mọi điều hư ảo .
Những nhóm khác có trách nhiệm hoạt động giải trí với năng lượng sinh khí ( Prana ). Việc sử dụng đúng phép những năng lượng sinh khí ( có 7 loại toàn bộ ) sẽ chữa trị được nhiều bệnh tật đau khổ thể xác. Về việc chữa bệnh này, cần có nhiều cơ bản, nhưng hai điều ấy lại ít khi đi chung với nhau .
1 ) Năng lực của linh hồn, cũng như trí năng của ngoài hành tinh và năng lượng của trực giác phải được luân chuyển trên cõi phàm trần bởi người bệnh và người chữa bệnh. Cả hai đều phải hợp tác với nhau .
2 ) Cần phải biết rõ bệnh lý và nguyên do của chứng bệnh, cùng với nghiệp quả của người bệnh, trạng thái của những TT bí huyệt về mức độ tiến hóa của y. Cho đến nay, tất cả chúng ta chỉ biết những điều sơ đẳng về những khoa học mới mẽ này, và phần nhiều việc làm của tất cả chúng ta tiên phong phải có đặc thù khai quang, dọn đường, chính bới lúc bấy giờ những yếu tố này đã bị hiểu một cách xô lệch và đã có nhiều sự lạm dụng những thế lực kể trên .
Những nhóm khác nữa có tương quan lạ kỳ với số lượng 4. Họ làm việc làm bắc cầu thông thương giữa Phàm ngã và Chơn thần, tức là thông suốt tam thế hạ của Phàm nhân với Nhất Nguyên gồm Tam Thế Thượng hay Chơn nhiên, tức loài người, là một loài trung gian thông suốt 3 cấp đẳng siêu nhân loại và 3 loài thấp hơn ( thú cầm, thảo mộc và khoáng thạch ). Mặt khác nữa, cõi giới thứ tư là cái khoan tiếp nối 3 cõi giới tâm linh tối cao với ba cõi hạ giới ( tam giới ), là cái trường sở kinh nghiệm tay nghề và tiến hóa của con người. Năng lực mà nhóm đệ tử này sử dụng trong việc làm của họ là ánh sáng của linh hồn và nên nhớ rằng ánh sáng cũng là một vật liệu. Trên cương vị cá thể cũng như tập thể, họ cố gắng nỗ lực tạo nên một đường ánh sáng giao thông vận tải giữa Phàm ngã và Tam Thế Thượng ( ý chí, trực giác, trí tuệ ) ( Atma, Budhi, Manas ) .
Tôi không có bàn đến vài hoạt động giải trí của những nhóm đệ tử kể trên trong KỶ NGUYÊN MỚI, hay nêu ra những loại năng lượng mà họ phải sử dụng để nhấn mạnh vấn đề lại một lần nữa với chư môn đệ những kế hoạch phác họa cho những nhóm đệ tử riêng của tôi. Những nhóm này mà tôi có trách nhiệm hướng dẫn như một phần hoạt động và sinh hoạt trong Đạo Viện của tôi, vốn là những nhóm Giống. Họ được dự liệu làm những tiền đồn tâm thức của Đ.Đ.C.G trong khi cái tâm thức ấy tập trung chuyên sâu xuyên qua tôi, cũng như một đệ tử mới nhập môn là một tiền đồn tâm thức của Chân Sư y trên trần gian. Đó là mối đối sánh tương quan mà tôi muốn nhấn mạnh vấn đề, tức là sự biểu lộ việc làm bí nhiệm của Đ.Đ.C.G lần tiên phong trong lịch sử dân tộc và sự phát huy của một trạng thái ẩn vi nội tại. KỶ NGUYÊN MỚI đã đến với tất cả chúng ta và sự hòa hợp của quả đât trong ba cõi cần có những sự đổi khác rõ ràng về kỹ thuật, tuy rằng không cần biến hóa về những đường lối cơ bản .
Tuy nhiên, đây là một cuộc thí nghiệm mà tôi và nhiều vị Đạo Đồ khác đang thực thi với tư cách là những thành viên của một tổ chức triển khai tâm linh lớn. Nếu có thành công xuất sắc và nếu sự hưởng tâm linh của toàn bộ chư môn đệ khá đủ để theo kịp với sự cố gắng được triển khai, và nếu chư môn đệ hoàn toàn có thể liên tục một cách kiên tâm kiên trì, thì quá trình thí nghiệm hoàn toàn có thể đi đến chỗ kết thúc. Chừng đó Thánh Đoàn hoàn toàn có thể nhìn nhận vài điểm tập trung chuyên sâu năng lượng đã được thiết lập một cách hữu hiệu trên địa cầu. Những điểm này hoàn toàn có thể dùng làm những TT từ điển hay những điểm tập hợp cho nền giáo lý mới, ý thức khoa mới, giáo dục mới và chính trị mới. Những tiềm lực lớn đang chờ tất cả chúng ta. Những nổi khó khăn vất vả không phải là không hề vượt qua, vì nếu không như vậy thì tôi đã không được phép làm cuộc thí nghiệm lớn lao này. Chúng tôi không khi nào thao tác gì mà mình biết trước sẽ đưa đến thực sự bại hiển nhiên. Nhiều cuộc thí nghiệm ngày này đang thực thi trên trần gian bởi những ĐẤNG CAO CẢ ở những đẳng cấp và sang trọng khác nhau trong Thánh Đoàn, cùng với những nhóm đặc biệt quan trọng của những NGÀI. Điều này chỉ thành công xuất sắc khi nào những đệ tử ngoài trần gian mong ước có việc ấy, sẵn lòng làm những quyết tử thiết yếu và nhận định và đánh giá rõ những tiềm năng phải đạt được .
Tôi phải nói rõ điều ấy trong lúc này, chính bới dưới áp lực đè nén nặng quá của thế sự, trong sự khó khăn vất vả tranh đấu cho đời sống cá thể, trong sự căng thẳng mệt mỏi của việc làm hàng ngày, với những hậu quả ốm đau, bệnh tật hoặc suy nhược sức khỏe thể chất, không khỏi có lúc người đệ tử cảm thấy sự nhiệt thành nhiệt huyết lúc đầu đã nguội bớt và đâm ra nhàm chán những nỗ lực liên tục liên tục mà việc làm phụng sự yên cầu không ngừng .
Người đệ tử phải tập đừng chú ý những đổi khác vô thường đó trong đời sống hàng ngày vì y biết rõ lý lẽ nhị nguyên tương đối của sự vật và sự tác động ảnh hưởng của định luật chu kỳ luân hồi. Tuy nhiên tôi muốn vạch rõ mối nguy hại đó vì nó là một rủi ro tiềm ẩn thật sự và nhu yếu chư môn đệ hãy liên tục việc làm có vẻ như nó vẫn mới mẽ và đầy hứng thú .
Trong những nhóm đệ tử này được dự trù sẽ trở nên những nhóm giống của KỶ NGUYÊN MỚI, chư môn đệ cũng cần phải nhớ hai yếu tố liên hệ như sau :
1 ) Đây là một cuộc thí nghiệm độc lạ vì tất cả chúng ta biết những tiềm lực, năng lực của những gì hoàn toàn có thể xảy đến trong tương lai và hiểu biết không ít về những năng lượng đang từ từ Open trong môt quốc tế thích ứng mau chóng với những tiết điệu hoạt động và sinh hoạt mới. Tuy nhiên có là một cuộc thí nghiệm trước hết do tôi chủ trương với sự hợp tác của vài vì Đạo Đồ khác. Như tôi đã nói trước đây, tôi không là người duy nhất phụng sự theo đường lối này, và những nhóm Giống này không phải là những đơn vị chức năng duy nhất lúc bấy giờ trên trần gian. Thí dụ có nhiều nhóm giống khác đang thành hình trong khuôn khổ giáo hội Gia Tô, dưới sự hướng dẫn tâm linh của Chân Sư Jésus. Tuy nhiên, những nhóm này có đặc thù chủ thể hơn là những nhóm mà tôi đặc biệt quan trọng chú trọng, và họ Open chậm hơn nhưng tựu trung họ vẫn có. Ngoài ra họ cũng có hai Nhóm Giống tương tự như ở Trung Quốc, và bốn nhóm ở Ấn Độ. Tôi nói thế để chư môn đệ đừng tưởng rằng nhóm của mình là độc lạ trên trần gian, rồi từ đó sinh ra cái mầm mống tế nhị của đại ảo giác phân loại .
2 ) Tất cả những nhóm đệ tử này đều đang trải qua tiến trình hình thành và còn phải qua nhiều sự đổi khác và kiểm soát và điều chỉnh. Cơ cấu hiện tượng kỳ lạ của họ hãy còn co và giãn, chưa cố định và thắt chặt do tại có quá nhiều đệ tử chỉ biết tiếp nhận lời, lẽ ngôn từ của Chân Sư mà ít thụ cảm hơn so với những ý niệm cơ bản làm nòng cốt cho việc làm của những NGÀI. Chư môn đệ hãy chú ý quan tâm đến điểm này. Về sau khi đã có những sự kiểm soát và điều chỉnh thiết yếu và những nhóm đệ tử hoàn toàn có thể thao tác chung với nhau mà không có sự chỉ trích hay hiểu nhầm, thì chừng đó họ sẽ bước qua quy trình tiến độ công tác làm việc tập thể có tổ chức triển khai. Điều này đương nhiên tùy thuộc vào mức độ chung của sự cố gắng tập thể, hoài bão, nguyện vọng và kiên tâm kiên trì của họ .
Thiện chí muốn hoạt động giải trí qua sự trung gian của những nhóm này vốn có sẵn về phía chúng tôi trên bình diện ẩn vi nội tàng. Còn việc đáp ứng một khí cụ hữu hiệu, nhờ đó chúng tôi hoàn toàn có thể thực thi mục tiêu, phải đến từ phía của chư môn đệ .
Tuy nhiên, sẽ đến lúc mà việc làm của mỗi nhóm đệ tử phải được củng cố một cách nhất định và đổi khác từ góc nhìn triết lý và thực nghiệm qua góc nhìn đơn cử và thực tiễn. Chừng đó thời kỳ quyền lợi tập thể sẽ lớn. Điều này tự nhiên sẽ tùy thuộc nơi hai việc sau đây :
1 ) Khi nhóm đệ tử đã đạt tới một tiến trình tổng hợp nhất định nào đó, nhóm ấy sẽ hoàn toàn có thể hoạt động giải trí như một tập thể có thế lực .
2 ) Nếu những nhóm đệ tử không hề hòa hợp và không biết tận dụng thời cơ hoạt động và sinh hoạt tập thể để phân phối với lý tưởng phụng sự đặc biệt quan trọng này, thì lúc ấy sẽ cần phải sắp xếp lại yếu tố nhân sự. Chừng đó vài đệ tử sẽ hoàn toàn có thể bị loại, và người nào không hội đủ những điều kiện kèm theo bắt buộc mà linh hồn họ đã đạt ra cho họ và không đạt tới trình độ mong ước sẽ được sáp nhập vào những nhóm khác, hoặc làm trụ cột cho việc tổ chức triển khai lại một đơn vị chức năng khác .
Tất cả mọi giáo lý nói về những nhóm đệ tử hoạt động giải trí trong KỶ NGUYÊN MỚI, đều được truyền thụ cho tổng thể những nhóm và cũng để về sau sẽ được thông dụng sâu rộng. Giáo lý về công tác làm việc tập thể nhất định được đưa ra đến một mức độ mà nó hoàn toàn có thể sử dụng một cách ý thức và trong trường hợp mà những kỹ năng và kiến thức được trình diễn hoàn toàn có thể được dùng vào những mục tiêu trong thực tiễn trong việc phụng sự trần gian. Công việc phụng sự trần gian chính là việc làm thiết yếu trong thời đại này .

Thiên Đoàn rất chú trọng đến những biến cố xảy ra trên trần gian. Khi cuộc chiến tranh ( Thứ hai ) chấm hết việc làm của tất cả chúng ta phải thực thi với bất kể giá nào và dù phải đương đầu với toàn bộ mọi chướng ngại. Nhóm người Phụng sự Thế gian phải duy trì sự hợp nhất của mình và kiên tâm hoạt động giải trí mà lòng không nao núng. Với sự trung kiên kiên cường, những người biết rõ THIÊN CƠ sẽ giúp sức quả đât và hỗ trợ cho những nỗ lực của Thánh Đoàn. Họ không thù hận và họ thao tác cho sự hợp nhất, bên trong lẫn bên ngoài .
Hãy nên biết rằng trái đất được tự do hành vi. Chí đến Thánh Đoàn cũng không biết được lực lượng nào, chánh hay tà, rốt cuộc sẽ thắng, ví dù cho những lực lượng minh chánh thắng cuộc trong thời chiến, họ có chắc gì thắng lợi trong thời bình ? Điều thiện rốt cuộc phải thắng, nhưng Đ.Đ.C.G không biết chắc việc gì sẽ xảy đến cho quả đât trong một tương lai gần đây, chính bới con người tự quyết định hành động lấy vận mạng của mình. Luật nhân quả không hề bị đảo lộn, nó đã cần đến những sự can thiệp của những sức mạnh lớn hơn những luồng sinh lực có sẵn trong lúc này trên địa cầu tất cả chúng ta. Những sức mạnh lớn đó hoàn toàn có thể can thiệp nếu những đệ tử và Đạo sinh của trần gian làm cho tiếng gọi của họ đủ sức lay chuyển …
Trong kỳ nhiễu nhương này, tôi muốn nhắc nhở chư môn đệ rằng không nên có ý tưởng sáng tạo tầm thường nhỏ nhen. Những nhóm đệ tử mới là những nhóm Giống đang ở vào quá trình tăng trưởng và đang bành trướng trong sự bí mật lặng lẽ. Giai đoạn này rất quan trọng, vì tùy theo đặc thù lành của hột giống có năng lực phóng rễ ăn sâu vào lòng đất và từ từ kiên trì hướng lên Ấn Độ mà những nhóm ấy hoàn toàn có thể góp phần một phần công quả xứng danh cho KỶ NGUYÊN MỚI. Tôi muốn nhấn mạnh vấn đề sự kiện này với chư môn đệ. KỶ NGUYÊN MỚI đã đến với tất cả chúng ta và tất cả chúng ta đang nhìn thấy trước mắt những mầm móng của một nền văn hóa truyền thống mới và một nền văn minh mới. Những gì cũ rích bất hảo và lỗi thời bị đào thải, và trong những điều bất hảo này, lòng thù ghét và óc phân ly chia rẽ phải bị loại trừ từ trước nhất .
Mục tiêu chính trong việc làm chung của tất cả chúng ta vẫn là sự hòa hợp tập thể và sự thiết lập mối liên giao giữa những thành viên trong nhóm, tác dụng là sẽ đưa đến việc tiếp xúc bằng TGCC thiết yếu giữa họ với nhau. Điều này rốt cuộc sẽ thiết lập một màng lưới ánh sáng, có công dụng tạo nên một điểm tập trung chuyên sâu can đảm và mạnh mẽ, làm cái khí cụ tiếp đón ân huệ thiêng liêng và phục sinh sinh khí tâm linh cho toàn thể trái đất. Đó là một lời công bố cơ bản và quan trọng. Điểm tập trung chuyên sâu này cũng sẽ trợ giúp vào việc hồi sinh sinh khí cho cái phách của địa cầu với một kho năng lượng mới và một động cơ hoạt động và sinh hoạt mới .
Trong nhiều năm, tôi đã thử làm thầy, làm Chân Sư và hoàn toàn có thể nói là làm một bạn hữu của chư môn đệ. Giữa tất cả chúng ta đã có một sợi dây liên lạc rất can đảm và mạnh mẽ và vững chãi, kết bằng tình thương và thông cảm về phía tôi, và bằng sự thành thật với lòng mong ước hợp tác về phía chư môn đệ. Thái độ của tôi so với chư môn đệ ra làm sao ?
Trên cương vị cá thể, chư môn đệ hoàn toàn có thể là không quan trọng lắm, nhưng với tư cách là những đơn vị chức năng trong nhóm mà tôi đang chuẩn bị sẵn sàng và giảng dạy để phụng sự trong những kiếp tương lai, thậm chí còn còn nhiều hơn trong kiếp này, thì chư môn đệ có đủ tầm mức quan trọng để cho tôi phải chú ý quan tâm. Một nhóm không can đảm và mạnh mẽ hơn một thành viên yếu kém nhất của nó. Về phương diện huyền môn, toàn thể một nhóm sẽ bị tổn thương và quyền lực của nó bị giảm sút một cách nhất định, khi một thành viên tỏ ra cái lý tưởng cao quý để bỏ lỡ thời cơ và thụt lùi trở lại những ảo giác của phàm ngã. Điều này chư môn đệ đã thấy xảy ra. Tôi chỉ trợ giúp những đệ tử trên phương diện cá thể với triển vọng để họ họ sống hòa hợp tập thể, gây tác động ảnh hưởng thông cảm tập thể và tình thương tập thể cùng với sức mạnh mà mỗi người hoàn toàn có thể góp phần vào khối tập thể hội đồng .
Bởi vậy tôi lôi kéo chư môn đệ, vơi tư cách là môt nhóm, hãy tăng cường tình thương, mục tiêu là phụng sự tập thể để cho sự hòa hợp chủ thể bên trong thuộc góc nhìn ẩn vi nội tàng, hoàn toàn có thể hàng loạt khai triển và tân tiến. Tôi có ba điều muốn nói với chư môn đệ trên cương vị của một nhóm. Trước hết ưu điểm và khuyết điểm của nhóm đệ tử này là do bởi sự kiện rằng những thành viên của nhóm không phải chỉ link với nhau trên phương diện linh hồn, mà còn có sự liên lạc mật thiết trên góc nhìn phàm ngã ( với toàn bộ mọi sự yếu kém của nó ) và một lòng yêu dấu sâu đậm giữa họ với nhau, mặc dầu họ chưa gặp mặt nhau lần nào. Nói về ưu điểm thì tình thân hữu tự nhiên vô thức đó vốn là tác dụng của nhiều kiếp trong đó họ đã từng có sự liên lạc mật thiết với nhau trong việc làm phụng sự cũng như trong sự giao du bạn hữu và liên hệ mái ấm gia đình. Còn về ở khuyết điểm thì thực trạng này hoàn toàn có thể làm cho nhóm đệ tử có những phản ứng thiên lệch, vị kỷ. Nhóm đệ tử này vốn là một thực thể trên toàn bộ ba phương diện trong tam giới ( sức khỏe thể chất, tình cảm và trí tuệ ) với một sự link về phương diện linh hồn .
Điều thứ hai : Có thể vận dụng cho những khó khăn vất vả của thời đại hiện tại trong sự khó khăn vất vả khó nhọc của công tác làm việc tập thể mỗi người nên có sự vui tươi khuyến khích, nhiệt huyết mà ghi nhớ rằng mình có chân trong nhóm đệ tử đặc biệt quan trọng này để sẵn sàng chuẩn bị được điểm đạo tập thể, và đây là một công tác làm việc mới là mà HỘI ĐỒNG TIÊN THÁNH sẽ thực thi, tuy rằng nó vẫn tương thích với cơ tiến hóa. Trong những thế hệ tương lai, những đệ tử, nam và nữ sẽ cùng nhau bước qua cửa Điểm Đạo tập thể thay vì đơn độc là một mình từ trước đến nay .
Bởi vậy về yếu tố này, sự văn minh chung của nhóm hoàn toàn có thể được thực thi hay trì hoãn bởi sự cố gắng của mỗi thành viên. Những sự khó khăn vất vả của một thành viên hoàn toàn có thể làm cho trầm trọng thêm bởi sự khuyến khích của toàn nhóm, sức mạnh và hiệu năng của y hoàn toàn có thể được tăng cường bởi sức mạnh thế lực và sự cảm thông của toàn nhóm. Bởi đó chư môn đệ có một nghĩa vụ và trách nhiệm chung rất lớn với một thời cơ văn minh mau chóng, thật sự và khác thường. Khi chư môn đệ cùng nhau bước qua cửa Điểm Đạo do tôi trình làng với những Đấng Cao Cả có trách nhiệm dẫn dắt chư môn đệ tiến lên quả vị cao hơn, chư môn đệ sẽ thấy những năng lực thương mến, linh cảm và phụng sự của mình được tăng cường đến mức làm cho chư môn đệ sẽ nắm vững một cách chắc như đinh những gì mà giờ đây mình chỉ cảm thấy một cách mơ hồ và nhận thức được sự huy hoàng của tình thương tập thể, công tác làm việc tập thể và phụng sự tập thể. Bằng cách đó, chư môn đệ sẽ cùng có một sự giác ngộ tập thể, một sự phân phối chung và một sự cố gắng chung. Khi ấy chư môn đệ sẽ hiểu rằng hoàn toàn có thể có một đường phân loại tâm linh. Chỉ những người nào hoàn toàn có thể vượt qua quá trình sẵn sàng chuẩn bị điểm đạo tập thể và những người nào phải tự sẵn sàng chuẩn bị Điểm Đạo lấy một mình. Những người trong hạng sau này, phần đông thuộc về thế hệ Song Ngư ( Piscean Age ). Họ bước qua cửa Điểm Đạo như những đơn vị chức năng khác biệt, còn chư môn đệ hoàn toàn có thể được Điểm Đạo từng nhóm .
Trong việc làm chuẩn bị sẵn sàng điểm đạo, không ai hoàn toàn có thể định trước về yếu tố thời hạn, yếu tố này do mỗi thí sinh quyết định hành động làm lấy. Tuy nhiên, mỗi đệ tử hãy gìn giữ sao cho cả nhóm không bị trì hoãn và bởi những khó khăn vất vả chướng ngại riêng của mình, ví dụ điển hình như vô minh, thiếu cái nhìn sáng suốt, ảo ảnh ảo giác, những vướng mắc riêng tư hoặc phản ứng chậm so với chân lý .
Điều thứ ba : Mà tôi muốn nói là bất luận chư môn đệ đã đạt tới vị thế nào trên đường Đạo trong lúc này, tôi cũng sẽ trợ giúp chư môn đệ như trong quá khứ. Tôi sẽ nói thực sự như tôi nhìn thấy cái quan điểm riêng của tôi. Nếu chư môn đệ bị u tối trên địa hạt nào, tôi sẽ cố gắng nỗ lực rọi ánh sáng. Tôi sẽ vạch rõ những khuyết điểm, nếu chư môn đệ chịu thành thật chú ý quan tâm để nghe tôi. Những khuyết điểm đó có chư môn đệ chưa phải là bậc Đạo Đồ, tất yếu hãy còn có những lỗi lầm, yếu kém, vô minh, hôn trầm và tự mãn. Vài người có khuynh hướng tự bào chữa rất mạnh, không khi nào nhìn nhận lỗi lầm, hay thậm chí còn đồng ý trên triết lý rằng mình hoàn toàn có thể lỗi lầm. Những người khác có khuynh hướng tự kiểm quá đáng, đặt trọng tâm quá nặng trên phàm ngã, luôn luôn chú trọng khi nghĩ đến phàm ngã là một điều rất tai hại cho sự văn minh tâm linh. Những khuynh hướng đó tuy rất thường thì, có tiềm ẩn một mối rủi ro tiềm ẩn thật sự cho người đệ tử. Chư môn đệ hãy chú ý coi chừng những tín hiệu của khuynh hướng đó khi chúng vừa Open. Hãy có thái độ chuẩn bị sẵn sàng làm những mày mò giật mình về chính mình. Một trong những bài học kinh nghiệm tiên phong mà người đệ tử cần phải học là điều nào mà y cho rằng y sở trường nhất và đắc ý nhất lại thường là điều nguy khốn nhất và khuyết điểm nhất. Những vấn đề ở cõi trung giới thường được nhìn thấy đảo ngược, do đó người đệ tử thường mắc phải ảo ảnh và ảo giác .
Về yếu tố này tôi sẽ kể một chuyện riêng, thường xảy ra trong đời người của người đệ tử, nó hoàn toàn có thể có ích như một bài học kinh nghiệm và một sự cẩn trọng. Nhiều kiếp trước đây sư phụ tôi nhận thấy nơi tôi một khuyết điểm. Đó là một khuyết điểm mà tôi trọn vẹn không hay biết, thật ra nó là một đức tính mà tôi coi như một ưu điểm và lấy làm hãnh diện. Hồi đó tôi là một người trẻ tuổi, nhiệt tình, nhiệt tâm phụng sự Chân Sư và trái đất, nhưng xét cho kỹ, tôi lấy làm tự hào là một Đạo Đinh chí nguyện, tôi rất tự bằng lòng, tự mãn với chính mình và che dấu sự mãn nguyện đó dưới một lớp vỏ hình thức bề ngoài nhỏ nhoi, nhã nhặn. Chân Sư bàn tìm cách thức tỉnh tôi bằng tác động ảnh hưởng thần diệu của Ngài, đến nổi điều mà tôi tưởng là một đức hạnh tốt và không hề nghĩ rằng đó là một thói xấu đã làm cho tôi vấp ngã nặng nề. Chư môn đệ hoàn toàn có thể hỏi thói xấu ấy là gì ? Chính tình thương của tôi so với sư phụ đã làm cho tôi bị vấp ngã. Sau đó, sư phụ chỉ cho tôi thấy rằng tình thương của tôi so với Ngài thật ra địa thế căn cứ trên lòng kiêu căng, tự mãn so với những ý nghĩ rằng mình là người đệ tử chí nguyện. Tôi cực lực đính chính điều ấy và rất buồn thảm vì Ngài hiểu nhầm tôi như vậy. Sau cùng tôi nhận thấy Ngài nói đúng sau khi đã bị vấp ngã một cách đau thương do bởi sự tự mãn, tự tôn nặng nề của chính mình. Tôi học được bài học kinh nghiệm hay do sự thất bại đó, nhưng đã phí mất nhiều thì giờ đáng lẽ dùng vào việc phụng sự hữu hiệu. Tôi nhận thấy rằng thật ra tôi chỉ phụng sự chính mình chưa không phụng sự trái đất .
Kể chuyện này tôi muốn tránh cho chư môn đệ khỏi vấp ngã những lầm lạc tương tự như để khỏi mất thì giờ, vì thì giờ là một yếu tố quan trọng trong việc phụng sự. Đối với hầu hết người trên trần gian, thời giờ không đáng kể bao nhiêu, nhưng so với người phụng sự nó quan trọng vô cùng. Bởi vậy đừng để mất thì giờ vì tự kiểm, tự phê hay tự bào chữa một cách quá đáng, không thiết yếu. Về phương diện tăng trưởng cá thể, hãy thực thi trong sự phân biện. Về phương diện tập thể, hãy xử sự trong tình thương và thông cảm. Còn so với tôi, chư môn đệ hãy dành cho những lời nói của tôi một sự chú ý quan tâm thiết yếu và hãy cố gắng nỗ lực hợp tác với tôi. Chừng đó có ngày tôi sẽ vui mừng nghênh tiếp chư môn đệ tại “ nơi bí nhiệm ” là nơi gặp gỡ và hợp nhất sau cuối của toàn bộ những người Đạo Đồ và những người phụng sự chân chính .
Tôi đã cho chư môn đệ biết tên thật của tôi. Có những nguyên do khiến cho tôi phải từ bỏ thái độ ẩn danh. Một là để khỏi phải làm cái đầu đề tranh luận phỏng đoán của một vài đệ tử về tung tích của tôi. Hai là để khuyến khích vài đệ tử khác tích cực nỗ lực tăng gia công phu trên đường đạo. Một nguyên do khác là tôi muốn chư môn đệ biết rằng mình là những đệ tử được thâu nhận chính thức với tổng thể những gì mà vị thế đó đương nhiên đem đến kể về nghĩa vụ và trách nhiệm cũng như về thời cơ phụng sự. Còn một yếu tố quyết định hành động khác nữa so với tôi, là thử thách năng lực kín miệng của chư môn đệ cho đến khi nào không còn thiết yếu. Sự im re, kín kẽ là một trong những điều kiện kèm theo tiên quyết cho sự Điểm Đạo, mà mỗi đệ tử nhất định bắt buộc phải có. Bởi vậy nên mới đặt ra sự thử thách. Nhiều người trong chư môn đệ đã tự thâm tâm biết chắc tôi là ai. Chư môn đệ đã không có sư thổ lộ sự tin cậy của mình cho ai về việc này trừ phi A.A.B ( Alice A. Bailey ) mà bà ấy cũng không có cung ứng lại bằng sự xác nhận hay bình phẩm gì cả. Nếu chư môn đệ không hề an toàn và đáng tin cậy về sự kín miệng và biết giữ gìn một thái độ tách rời, hồn nhiên, vô tư, thì chư môn đệ chưa chuẩn bị sẵn sàng đảm nhiệm giáo lý mà tôi đưa ra, và tất cả chúng ta phải oi điều này càng sớm càng hay. Nếu chư môn đệ không giữ kín miệng, dù giữa bạn đồng môn với nhau, thì tức là chư môn đệ không hề đáng tin cậy được và tôi không muốn thấy việc ấy xảy ra. Khi tôi đã bật mý tung tích cho biết tôi là ai, nếu chư môn đệ hoài nghi sự khôn ngoan của quyết định hành động này cho rằng có lẽ rằng tôi nên giữ kín tên tuổi, thì điều đó cũng là một sự hay và sẽ giúp tôi có một thái độ thích nghi trong tổng thể mọi cuộc tiếp xúc về sau với những đệ tử. Nếu việc biết tôi là ai đưa chư môn đệ vào con đường nguy khốn của kẻ sùng tín, thì chư môn đệ hãy nên mày mò cái khuynh hướng đó ở tự nơi mình. Nếu từ nay trở đi, chư môn đệ gán cho những lời dạy của tôi một tầm mức quan trọng quá đáng, và rơi vào cái thói quen nguy khốn là nhắm mắt tuân lệnh và chấp nhập quyền pháp, thì sự yếu kém đó sẽ hiện rõ trước mắt, trước chư môn đệ và trước những bạn đồng môn. Điều này sẽ có ích cho toàn bộ tất cả chúng ta. Chư môn đệ sẽ tò mò ra một điểm yếu kém ẩn tàng của chính mình, do sự phát hiện tung tích của tôi đưa đến. Nếu sự phát hiện này đưa đến một gánh nặng thì chư môn đệ phải mang lấy cái gánh nặng đó trên vai, nếu không thì chư môn đệ sẽ trở thành vô dụng và không hề làm một người phụng sự trần gian .
Sự kiện tôi là một Chân Sư không có đổi khác gì so với tôi. Tôi vẫn là người Đạo Sư Tây Tạng đã từng dạy bảo cho chư môn đệ trong nhiều năm. Tôi vẫn là người ấy chứ không có gì khác cả .
Mọi phản ứng về phía chư môn đệ sẽ là một phản ứng của phàm ngã và bởi đó phải đưa ra nghiên cứu và phân tích và kìm hãm .
Hởi chư môn đệ, tất cả chúng ta hãy cùng nhau tiến bước trên đường phụng sự. Chúng ta hãy cùng nhau bước vào ánh sáng, đi trên con đường đưa đến độc lập quốc tế, chứ không phải đưa đến giác ngộ cho riêng mình. Sự giác ngộ là điều tất yếu nhưng là điều nhờ vào ,
Còn nói về tổng thể chư môn đệ, thì tôi phải xử sự với những ai đây ? một nhóm chưa được thử thách, một nhóm bất động, một nhóm hay chỉ trích và một nhóm bị ảo ảnh ảo giác rất trầm trọng. Đó là cái vật liệu mà tôi phải dùng để thực thi công tác làm việc. Tôi hoàn toàn có thể làm gì với một thực trạng như vậy ? Tôi hoàn toàn có thể an toàn và đáng tin cậy ở sự thiết tha của chư môn đệ so với quả đât, sự sẵn lòng học hỏi và quyết tâm của chư môn đệ để đi trên con đường phụng sự với bất kể giá nào. Chắc chắn là tôi sẽ tin như vậy .
Trước hết, tôi muốn triển khai những mục tiêu mà tôi ý niệm cho toàn bộ chư môn đệ :
1 ) Mục tiêu chính hiện tại : Tôi nỗ lực triển khai sự hòa hợp tập thể rất thiết yếu cho hoạt động và sinh hoạt của nhóm. Sự kiểm soát và điều chỉnh nhóm này như một đơn vị chức năng hợp nhất trên cõi trí tuệ vẫn chưa được triển khai xong. Điều này rất thiết yếu trước khi hòa hợp được thực thi, thì sự giao cảm hỗ tương hay công tác làm việc tập thể mong ước trong nhóm sẽ không hoàn toàn có thể có. Nhiều đệ tử cần tâm lý chín chắn và tích hợp bằng tình thương với những bạn đồng môn, loại trừ sự chỉ trích và tự mãn trong sự xét đoán riêng của mình .
2 ) Mục tiêu tương lại của những nhóm đệ tử này : Có điều thiết yếu cơ bản là những nhóm đệ tử mới đang mở bán khai trương trong một Kỷ Nguyên Mới trên đường hành ĐẠO, cứu cánh là phải thiết lập một sự tương quan hỗ tương bằng TGCC giữa họ với nhau. Về sau, khi đã có một sự liên giao ngặt nghèo giữa những đệ tử trên phương diện cá thể, tôi sẽ hoàn toàn có thể đưa ra những pháp môn nhất định để thực thi điều này từng bước một, nhưng trong thời điểm tạm thời thì sự gợi ý cũng đủ. Nó vốn là một điều cơ bản trong vạn vật thiên nhiên, phải được đồng ý và hiểu biết phần nào trước khi hoạt động giải trí có hiệu quả hữu hiệu trong toàn bộ những nhóm tiên phong này. Chư môn đệ hãy nghĩ đến nhau trong tình thương. Chỉ có vậy thôi, hỡi những đệ tử, và không cần làm gì hơn nữa trong lúc này. chư môn đệ hoàn toàn có thể gật đầu chăn một quy luật giản dị và đơn giản như vậy .
Bằng cách đó, thể dĩ thái của nhóm đệ tử sẽ được sinh động bởi năng lượng và ánh sáng của tình thương, và như vậy, một màng lưới ánh sáng sẽ được thiết lập để làm thành một TT năng lượng trong chính thể dĩ thái của trái đất nói chung và cứu cánh trong cả cái thể dĩ thái của bầu hành tinh tất cả chúng ta đang ở đây .
3 ) Mục tiêu tập thể của nhóm : Đây là việc chuyển di tâm linh của tổng thể những người đã phối hợp mỗi lúc càng phần đông lên, đến mức độ dĩ thái của tâm thức và hoạt động và sinh hoạt. Điều này gồm có việc làm ý thức trên những cảnh giới đó với tư cách là những đơn vị chức năng năng lượng, mỗi đơn vị chức năng góp thêm phần công lao cá thể và phần năng lượng đặc biệt quan trọng của mình vào tổng số năng lượng dĩ thái hiện hữu và thao tác đó một cách vừa ý thức vừa khôn ngoan .
Khi điều này đã được triển khai, chừng đó người hành giả chuẩn bị sẵn sàng bước qua cuộc Điểm Đạo thứ nhất và là một nhà huyền học chân chính, biết sử dụng năng lượng trong việc làm phụng sự dưới sự hướng dẫn của Thiên Đoàn .
4 ) Mục tiêu cá thể : Điều này cần có sự sẵn sàng chuẩn bị đời sống và tâm thức cho việc Điểm Đạo tập thể. Việc Điểm Đạo tập thể này vốn có một tầm quan trọng thật sự. Nó tùy nơi sự cố gắng của đơn vị chức năng trong nhóm để chuẩn bị sẵn sàng điểm đạo và đồng thời tập đặt những ước vọng và tham vọng tâm linh của mình vào cái tiết diệu chung của toàn nhóm và vào sự pháp luật thời giờ đúng mực liên hệ đến những bạn đồng môn của y. Bởi vậy, việc này yên cầu một thái độ song hành so với những phương pháp Điểm Đạo một là sự hòa tâm hồn với sự phối hợp thiết yếu, và hai là sự cung ứng tâm linh so với những ấn tượng đến từ những mức độ của linh hồn Thiên Đoàn. Nó cũng yên cầu óc xét đoán và khôn ngoan trong việc thiết lập một mối đối sánh tương quan đúng đắn với nhóm đệ tử, để cho cả nhóm hoàn toàn có thể cùng tiến bước chung một lượt. Điều này cần có những điều kiện kèm theo chung cho cả nhóm, giống như những điều kiện kèm theo thường thì cho cá thể, đó là sự tích hợp đúng đắn trên Ba mức độ của phàm ngã và trên mức độ của linh hồn, cùng với ấn tượng hay sự phân phối đúng đắn của nhóm so với những làn sóng từ điển tâm linh thượng đẳng .
Điều này sẽ phải mất nhiều năm và việc làm triển khai những thái độ chung tập thể và đối sánh tương quan tập thể xuyên qua sự thông cảm cá thể và niềm tin vô tư chân chính, hoàn toàn có thể triển khai trên cõi trần gian trong kiếp đầu thai hiện tại, hoặc hoàn toàn có thể liên tục ở cõi giới bên kia với một sự thuận tiện tựa như. Hãy luôn luôn nhớ rằng tâm thức vẫn không đổi khác dù trong kiếp sống trần gian hay ở cõi giới bên kia, và sự tăng trưởng tâm thức hoàn toàn có thể thực thi ở bên kia còn thuận tiện gấp bội hơn là trong khi nó bị số lượng giới hạn và gò bó bởi bộ óc vật chất .
Sự đạt được những tiềm năng này sẽ đưa đến một tầm nhãn quang sáng suốt và một sự hiểu biết thâm sâu. Nó cần có sự tăng cường tình thương tập thể và liên giao tập thể một cách liên tục và ý thức. Nó sẽ dìu dắt tổng thể những đệ tử sống một cuộc đầy những tiềm năng khôn ngoan, minh triết và tăng trưởng tâm linh .
Đến đây, chư môn đệ hoàn toàn có thể hỏi rằng : có một giải pháp duy nhất nào giúp cho người đệ tử hoàn toàn có thể tiến gần cái tiềm năng có vẻ như không hề triển khai đó không ? Tôi sẽ vấn đáp bằng cách thực hành thực tế tiếp tục đức tính vô tư, một thái độ thản nhiên so với dục vọng cá thể tiếp xúc cá thể và những mục tiêu ích kỷ. Sự vô tư đó thường không được hiểu rõ, và thậm chí còn khi nó được vun trồng, tập luyện bởi những đạo sinh đầy thiện chí, nó vẫn có một cơ bản ích kỷ. Hãy suy gẫm về điều này và nỗ lực thực thi đức vô tư qua sự quân bình và dời đổi trọng điểm của tâm thức phàm ngã ( là trọng tâm thường thì của nó ) cho nó chuyển qua Chân Ngã sôi động và đầy tình thương .
Có bốn điều thường gây chướng ngại cho một nhóm đệ tử trong sự triển khai công tác làm việc và hoạt động giải trí hữu hiệu :
Thiếu nhãn quan tâm linh, do bởi thiếu một trí năng sáng suốt .
Ảo ảnh, ảo giác cá thể, do tác động ảnh hưởng sự vật cõi trung giới .
Những yếu tố khó khăn vất vả cá thể, gồm có sự quá ư bận rộn về những vấn đề phàm trần với những nghịch cảnh, chướng ngại, khó khăn vất vả của cõi trần ai khổ lụy này .
Hồn trầm bất động hay chậm phản ứng so với giáo lý truyền dạy và thời cơ tốt được đưa ra .
Nhiều đệ tử và đạo sinh trên trần gian ngày này, nhất là những người không theo sát tình hình quốc tế, mà chỉ nhìn vào thế cuộc từ đàng xa, cần có sự suy gẫm sâu xa của tính cách của thời đại và nhận thức cái số phận khổ đau của quả đât. Thật là một điều đơn giản và giản dị mà bày rõ lòng ưu tiên, nhưng đồng thời cũng nên tránh việc phung phí quá nhiều sinh lực trong việc phụng sự và phải làm một cố gắng nỗ lực quá nhọc nhằn để trợ giúp kẻ khác .
Dấu hiệu của người đệ tử hoàn toàn có thể nguyện hiến dâng, một đức tính, ngày càng phải điển hình nổi bật và chi phối cuộc sống của y là cái năng lực đồng nhất một phần hay với toàn thể tùy nhu yếu ở vào một lúc nhất định nào đó. Thái độ đó đương nhiên gồm có tình thương bát ngát để phụng sự cho một số lượng tối đa và cho những kẻ thiếu thốn nhất .
Điều lỗi lầm lớn nhất của đa số những nhóm đệ tử trong thời kỳ này là biểu lộ một sự thản nhiên sai lầm không đúng chỗ, làm cho họ bận rộn với những ý tưởng sáng tạo cá thể và những việc làm ích kỷ. Điều này có hại đến sự hòa hợp tập thể và hay làm bế tắc việc làm .
Một trong những điều thiết yếu nhất cho mỗi đệ tử là vận dụng giáo lý truyền dạy vào ý niệm phát động và tăng gia công tác làm việc phụng sự trần gian. Được như vậy, những kỹ năng và kiến thức và cảm hứng là họ tiếp đón được sẽ trở nên vận dụng thực tiễn và hữu hiệu trong đời sống hàng ngày để phụng sự kẻ khác. Đây là một điểm gợi ý chư môn đệ nên thật sự lưu tâm .
Đến đây, tôi cũng muốn chư môn đệ quan tâm về điểm này, là một đệ tử chính thức thật ra không phải là người được chân sư thâu nhận để đào tạo và giảng dạy. Đây là sự méo mó xô lệch của một ý niệm chân chính. Vì trong sự diễn tiến của nó từ cõi Thượng giới đến cõi phàm trần, nó đã bị trọn vẹn đảo ngược hay xiêu vẹo. Đệ tử chính thức là một người :
1 ) Đã gật đầu sự kiện về tổ chức triển khai của Thánh Đoàn với một lòng trung thành với chủ hợp tác với Thiên Cơ .
2 ) Đã đồng ý sự kiện rằng toàn bộ những linh hồn đều hợp nhất làm một và thế cho nên, y tự nguyện biểu lộ như một linh hồn. Việc phụng sự phải làm là sự thức tỉnh và khích động tổng thể linh hồn mà y tiếp xúc .
3 ) Đã đồng ý kỷ luật phụng sự của Huyền Môn. Lý tưởng phụng sự quả đât quyết định hành động toàn bộ mọi hoạt động giải trí của y và đạt phàm ngã y chịu ràng buộc và nhu yếu của thế hệ. Hãy ghi nhận câu sau này : Hãy vun trồng trực giác và ứng đáp uyển chuyển với trách nhiệm cấp bách, chứ không phải phản ứng thụ cảm với một mục tiêu còn xa xôi .
4 ) Đã gật đầu Thiên Cơ như những bậc Giáo chủ của trái đất đã chỉ dạy. Y tìm hiểu và khám phá những đặc thù của Thiên Cơ và giúp vào việc làm thực thi Thiên Cơ .
Những điểm khác ( thuộc tính cá thể ) cũng hoàn toàn có thể được nêu ra, nhưng tôi muốn cho chư môn đệ đặt trọng tâm nơi những điều đồng ý trên đây là những động cơ cho những thái độ của mình, chứ đừng đặt quá nặng trong tư tưởng cái ý nghĩ rằng mình đã được một vị chân sư thâu nhận. Cái tư tưởng này mà nhiều tổ chức triển khai Huyền Môn đã thông dụng, đã đem lại nhiều hiểu nhầm, đau khổ và tuyệt vọng .
Một đệ tử là người được đào tạo và giảng dạy về một vài yếu tố quan trọng nào đó chứ không phải trong mối liên hệ giữa y với một Chân Sư. Những yếu tố đó là :
1 ) Vấn đề trái đất : Trình độ hiện tại, những khó khăn vất vả lúc bấy giờ và thời cơ đưa đến trong lúc này. một đệ tử là người khi nào cũng tìm cách trợ giúp và thôi thúc sự tiến hóa của trái đất, cùng tăng trưởng tình thương sâu xa so với trái đất. Đó là cái tín hiệu đặc biệt quan trọng của vị Đạo Đồ và của Chân Sư .
2 ) Vấn đề Điểm Đạo : Sự khảo cứu về yếu tố này sẽ đưa đến một sự xem xét tiềm năng cơ bản của nó là sự tuần tự đồng nhất, hỗn hợp với linh hồn của người đệ tử với linh hồn của toàn nhóm, với linh hồn của toàn thể quả đât nói chung và với linh hồn của tổng thể vạn vật .
3 ) Vấn đề phụng sự : Đây không phải là phụng sự theo cái ý nghĩa thường thì. Các sử dụng thường thì của danh từ này đã làm mất phần nhiều cái ý nghĩa của nó do sự hiểu sai. Vị Đạo Đồ coi yếu tố phụng sự như việc biểu lộ tự nhiên, thuận tiện của sự thức động chân ngã, được triển khai ở cõi phàm trần và đem cảm hứng tâm linh đến cho người đệ tử trong khi hoạt động giải trí ở trần gian. Phần nhiều những đệ tử chỉ bận lo nghĩ một cách mơ hồ làm thế nào đạt tới nguồn cảm hứng tâm linh, nhưng không biết gì về những quá trình trước đó, là một nhãn quang nội tại giúp cho họ cung ứng một cách khôn ngoan và thực tiễn những nhu yếu của quả đât trong đời sống hàng ngày .
Một trong những nỗ lực quan trọng của người đệ tử chính thức là đổi khác từ một người có lý tưởng và thiện chí thành một người hành vi tích cực để phụng sự trái đất .
Khi một nhóm đệ tử hoàn toàn có thể hàng loạt suy gẫm về những yếu tố này và thao tác theo những đường lối kể trên, thì họ đã làm một bước tiên phong đưa đến việc Điểm Đạo tập thể. Điều này là mục tiêu của người đệ tử trong KỶ NGUYÊN MỚI. Sự Điểm Đạo tập thể gồm có :
1 ) Việc đạt tới một tầm nhãn quang hợp nhất, một cái nhìn tập thể của toàn nhóm mà người đệ tử chịu chịu ràng buộc vào đó .
2 ) Sự hàng loạt đối sánh tương quan giữa những đệ tử trong nhóm với linh hồn của cả nhóm trên bình diện riêng của nó ( tức là cái hồn của nhóm chung gồm những linh hồn của mỗi thành viên riêng rẽ họp chung lại ). Điều này đưa đến sự hợp nhất tập thể trên mức độ tâm linh .
3 ) Sự tiếp xúc giữa những cá thể trong nhóm trên 3 trạng thái biểu lộ của phàm ngã, tức ba bình diện của tâm thức : Trí tuệ, dĩ thái hồng trần và tình cảm. Vài đệ tử trong nhóm tiếp xúc với nhau trên một bình diện và vài người khác trên một bình diện khác, nhưng mục tiêu phải là một sự tiếp xúc ngặt nghèo trên toàn bộ ba bình diện hay trạng thái tùy ý muốn và toàn bộ cùng chung nhau khi cả nhóm nhu yếu. Điều này rất khó nói, nhưng về sau sẽ đến lúc người ta được hiểu rõ ràng hơn về ý nghĩa của nó và hiệu quả đem đến sẽ như thế nào .
Khả năng hợp nhất của nhóm không để cho một bước rào chướng ngại nào ngăn cách những thành viên trong nhóm. Điều này đương nhiên bắt buộc phải quyết tử mọi phản ứng, ước vọng và kế hoạch của Phàm ngã. Hiện thời, những ước vọng, thái độ và ý niệm khác nhau là những mối chia rẽ giữa những đệ tử. Những điều này phải được loại trừ .
Lẻ tất yếu còn có những điều kiện kèm theo bắt buộc khác nữa, nhưng nếu chư môn đệ hoàn toàn có thể hiểu những điều trên đây và nỗ lực cung ứng đến mức tối đa, thì đó là tổng thể những gì tôi mong ước trong lúc hiện tại. Một trong những điều thiết yếu nhất là hãy thản nhiên rứt bỏ những triết lý sai lầm đáng tiếc về đời sống, về con đường đệ tử và Thiên Cơ. Cần giữ một tâm hồn cởi mở luôn sẵn sàng chuẩn bị chờ đón sự giật mình và nhãn quang tâm linh đủ sáng suốt, hoàn toàn có thể đảo lộn mau chóng toàn bộ những thành kiến đã có. Điều này cũng bắt buộc phải có một thái độ cậy trông, đợi chờ một tầm nhãn quang tâm linh mới sẽ Open, những chân lý mới được làm sáng tỏ và những tiềm năng mới càng lúc càng ảnh hưởng tác động hữu hiệu. Những thái độ này rất khó tập so với những đệ tử thuộc về Cung 6 là cung sùng tín và lý tưởng, vì những lý tưởng của một đệ tử thuộc cung 6 cô động và kết tinh rất mau chóng và do đó cũng vì méo mó, xiêu vẹo rất mau. Lý tưởng trong thời điểm tạm thời ( để hướng dẫn người sơ cơ ) hoàn toàn có thể trở nên một chướng ngại, ngăn cách với chân lý và ngăn trở sự triển khai một tầm nhãn quang sáng suốt hơn .
Bởi vậy tôi nhu yếu chư môn đệ hãy nhắm mục tiêu thực thi một sự đơn thuần khoáng đạt, lan rộng ra cõi lòng để chờ đón một cái gì mới mà ngày này đã chuẩn bị sẵn sàng Open, nhưng điều này lại bị ngăn trở bởi những lý tưởng của quốc tế hơn là bởi những người thường. Những người này có phản ứng đơn giản và giản dị hơn, và sẵn sàng chuẩn bị nhận định và đánh giá tình thế để thoát ra khỏi cơn bế tắc hơn là nhà thần bị hay là nhà thần học, do tại họ suy tưởng theo trái đất. Những đệ tử của trần gian, với những lý tưởng hào nhoáng rất đẹp, thường bị mê hoặc bởi những ảo giác của một sự mỹ lệ huy hoàng tương lai do tại họ quên lãng cái thời cơ hiện tại. Nhiều người về sau đó sẽ nhận thấy rằng họ đã bị chậm trễ trong việc đảm nhiệm chân lý mới. Đấng Christ đã đề cập đến việc ấy khi Ngài nói rằng không hề để rượu mới trong bình cũ, vì những gì cũ kỹ lỗi thời sẽ bị tàn phá đào thải bởi sức sống mới đang tăng trưởng .
Bởi đó, người Đạo Đồ túc trực chuẩn bị sẵn sàng để làm gì ? Để mặc nhiên nhận thức cái gì mới, thấu triệt nó ngay tức khắc và bước một bước mới trong việc khai mở tâm thức tiền phong dọn đường để phô diễn những ý niệm mới. Những ý niệm này có một năng lực sôi động mãnh liệt và ứng đáp thỏa đáng nhu yếu của trái đất trong chu kỳ luân hồi sắp tới. Người Ấn Độ chuẩn bị sẵn sàng từ bỏ ngay tức khắc tổng thể những gì tầm thường nhỏ nhen, không thiết yếu và không đủ cung ứng nhu yếu của thời đại. Người ấy sẵn sàng chuẩn bị tiếp đón thế lực thiêng liêng từ cõi trên để tàn phá những gì đã trở nên cũ kỹ lỗi thời và trở nên vô dụng. Y sẵn sàng chuẩn bị hoạt động giải trí như một nhà huyền học thực tiễn ( chứ không phải là một lý tưởng gia huyền bí ) trên mức độ tâm linh cũng như trên những yếu tố trong thực tiễn của thế sự .
Tôi muốn gợi ý rằng pháp môn thiền định của chư môn đệ chia làm hai phần, một đằng là công phu thiền định cá thể và tập thể có kế hoạch nhất định, và một đằng là chăm nom có chiêu thức một nếp sống phản ảnh tâm linh. Sự phản ảnh tâm linh này sẽ phát huy một đời sống tuy nhiên đôi, chủ thể và khách thể của người đệ tử, còn công phu thiền định sẽ trợ giúp va trụ ánh sáng chân ngã vào bộ óc để đặt nền tảng cho việc phụng sự một cách linh động và sáng suốt .
Việc phụng sự chỉ là việc biểu lộ những thái độ và hoạt động giải trí của chân ngã trên cõi hạ giới, trong khi linh hồn chứng tỏ được thái độ đó trên cõi tâm thức riêng của nó. Một tiến trình của đời sống tuy nhiên đôi kể trên tức quy trình tiến độ phản ảnh tâm linh, gồm có việc nhận thức và biểu lộ một đời sống có ý thức, có mục tiêu. Nó đưa đến một nếp sống có chiêu thức, có kế hoạch rập theo kế hoạch của Thiên cơ và những động lực hoạt động và sinh hoạt của Thánh Đoàn. Giai đoạn thứ nhì biểu lộ trong công phu thiền định đúng phép và đều đặn tiếp tục, cứu cánh nó sẽ là đưa đến sự tiếp xúc bằng TGCC rất hữu hiệu giữa những đệ tử trong một nhóm, và giữa đệ tử với Chân Sư và toàn thể Đạo Viện. Nó cũng sẽ làm cho người đệ tử được nhạy cảm so với những “ luồng sóng tâm linh và ân huệ thiêng liêng từ cõi trên. Bởi vậy toàn thể công phu thiền định gồm cả hai phần ” này gồm có sự phối hợp thông suốt giữa tim và óc, sự hòa hợp cả hai đường lối thần bí và huyền môn, phối hợp tình cảm và kiến thức và kỹ năng .
Thật ra những luồng năng lượng có tính năng phối hợp, tiếp nối chỉ hoàn toàn có thể tuôn từ bí huyệt ở quả tim. Chính vì lý do đó mà tôi đã chỉ dạy vài phép công phu có tính năng kích động quả tim, nối tiếp bí huyệt của quả tim ( giữa hai xương chả vai với nô hườn cung luân xa hình hoa sen ngàn cánh ở trên đỉnh đầu ). Bí huyệt ở quả tim khi được thức động đúng mức, sẽ thông suốt những đệ tử giữa họ với nhau và với cả trần gian. Nó cũng sẽ tạo nên sự ảnh hưởng tác động TGCC mong ước và có ích một cách kiến thiết xây dựng so với Thánh Đoàn, miễn là ảnh hưởng tác động này được thiết lập trong một nhóm đệ tử hữu thệ, tự nguyện hiến dâng trong việc làm phụng sự quả đât. Chừng đó, họ hoàn toàn có thể được trọn vẹn tin tưởng .
Một trong những việc làm của toàn bộ những đệ tử là sự lôi kéo đến góc nhìn Ý CHÍ của linh hồn. Những góc nhìn cao siêu của Ý CHÍ vốn thường yên lặng trước khi con người bước vào đường ĐẠO của người đệ tử .
Trong KỶ NGUYÊN MỚI như tôi đã nói trước đây, cái điểm then chốt trong sự văn minh của người đệ tử sẽ là tình thương nhân loại. Điều này là do nơi sự thức động bí huyệt nơi quả tim. Trong quá khứ và cho đến thời hạn gần đây, điểm then chốt đó vẫn là phụng sự, chính do thao tác phụng sự một cách vị tha vô kỷ là một kỹ thuật đương nhiên làm thức động bí huyệt nơi quả tim. Tình thương nhân loại là điều thiếu sót lớn lao nhất trong tâm linh của nhiều đệ tử trong thời đại này. họ yêu dấu những người mà họ có tình kết thân giao hảo, hay họ thương mến việc làm có tương quan đến sự cố gắp tập thể, hoặc họ thương mến Tổ quốc của họ. Họ cũng hoàn toàn có thể thương mến một lý tưởng hay một triết lý nhưng họ không có thật sự thương mến toàn thể trái đất nói chung. Khả năng yêu quý của họ có số lượng giới hạn và việc vượt qua những số lượng giới hạn là điều khó khăn vất vả chính của họ trong lúc này. họ phải biết rằng quả đât cần đến sự chăm nom, yêu quý và niềm tin phụng sự của họ. Hãy suy gẫm về những lời nói này. Và trong đó cũng có hàm xúc việc làm tương lai khi chư môn đệ sẵn sàng chuẩn bị bước vào cuộc Điểm Đạo thứ nhất hay thứ hai. Tôi cũng muốn nhắc nhở chư môn đệ rằng cuộc sống của người đệ tử luôn luôn là một cuộc sống đầy gian lao và nguy hại, mà người ấy sẵn lòng và quyết tâm bước vào vì lý tưởng tăng trưởng tâm linh và phụng sự trái đất. Nhưng tôi nhu yếu mỗi đệ tử hãy dò xét những phản ứng và đời sống tình cảm của mình một cách vô cùng thận trọng và nhất là những ảnh hưởng tác động của ảo ảnh ảo giác. Hãy quan tâm rằng sự Open của những thái xúc cảm hay ảo giác trong nếp hoạt động và sinh hoạt thông thường, không nhất thiết có nghĩa là thất bại. Chỉ có sự thất bại là khi nào người đệ tử đồng nhất với những trạng thái đó và để cho những nề nếp của nó thắng đoạt được mình. Sự Open của những trạng thái bất hảo đó hoàn toàn có thể là tín hiệu thành công xuất sắc trong công phu thiền định liên tục. Khi đó phải bình tĩnh nhận định và đánh giá đặc thù của chúng, với một sự “ thản nhiên siêu thoát ” để cho xúc cảm hay ảo giác đó tự nó tiêu tan dần vì thiếu sự chú ý quan tâm. Đó là hàng loạt tuyệt kỹ để kìm hãm mọi sự xúc cảm thấp hèn. Phương pháp triển khai sự kềm chế đó là một trong những tiến trình khó khăn vất vả nhất trong đời người đệ tử, và là một trong những thời kỳ vĩnh viễn nhất, nói về góc nhìn thời hạn. Chư môn đệ phải sẵn sàng chuẩn bị ứng phó với điều đó. Thời kỳ này là quy trình tiến độ đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả nhất để tương khắc và chế ngự xúc cảm do tại đoàn thể mái ấm gia đình quả đât nói chung đang chịu phụ thuộc trạng thái xúc cảm dồn dập và thực trạng kinh khiếp sợ hãi do ảnh hưởng tác động của bên hắc phái tả đạo gây ra. Điều này làm cho những nổi khó khăn vất vả của chư môn đệ, cũng như của toàn bộ những đệ tử càng trầm trọng phức tạp hơn : Nó có khuynh hướng tạo nên một thứ ảo ảnh, ảo giác mãnh liệt nhất. Bởi vậy chư môn đệ hãy tiến tới trong sự can đảm và mạnh mẽ, vui tươi, thông cảm, cực kỳ thận trọng và đồng thời với tốc lực mau chóng. Tôi cũng muốn nhấn mạnh vấn đề rằng tổng thể những đệ tử chân chính đều muốn sát cánh với những bạn đồng môn trong nhóm họ trong tình thương và hiểu biết. Chư môn đệ hoàn toàn có thể tin yêu ở điều này. Tôi cũng bảo vệ rằng tình thương che chở của Chân Sư luôn luôn bao trùm chư môn đệ, và tôi sẽ không khi nào bỏ rơi một người nào .

Mục đích của việc Điểm Đạo được những Chân Sư đưa ra những đệ tử và những Ngài chuẩn bị sẵn sàng truyền dạy những điều thiết yếu cho việc Điểm Đạo trong quá trình sơ khai này, tôi muốn nhắc nhở lại rằng chỉ có những gì chư môn đệ tự mình hiểu biết và kinh nghiệm tay nghề bản thân mới là điều quan trọng và là chân lý so với mình. Những gì cho kẻ khác hay do cả chính tôi nói lại với chư môn đệ đều không ích lợi thiết thực, trừ phi để làm điển hình nổi bật hay xác nhận một chân lý đã biết .
Điểm Đạo hoàn toàn có thể được định nghĩa như trong cơn khủng hoảng cục bộ mà tâm thức lướt trên đường ranh giới của sự bật mý huyền diệu. Những nhu yếu của linh hồn và những sự gợi ý của Sư Phụ hoàn toàn có thể được coi như xích míc xung đột với những nhu yếu của khoảng trống và thời hạn, biểu lộ nơi phàm ngã của con người. Bởi đó, trong thực trạng này, con người bị lôi kéo mãnh liệt giữa những cặp đối tượng người tiêu dùng lưỡng nguyên và sự xung đột, căng thẳng mệt mỏi này vốn diễn ra trong tâm hồn của người đệ tử đang “ đứng ở điểm ngã ba đường ”. Y sẽ ứng đáp một cách ý thức với tiếng gọi thiêng liêng chăng và bước vào những kinh nghiệm tay nghề tâm linh mới mẽ và cao quý hơn ? Hay là y sẽ thụt lùi trở lại để rơi vào ảo ảnh, ảo giác của thời hạn, khoảng trống và chốn mê đồ dục vọng của cuộc sống trần gian ? Y sẽ đứng vững được chăng trong một trạng thái yên lặng, tịch mịch mà không bị giao động bởi ảnh hưởng tác động của những dẫn lực hấp dẫn y từ trên hay dưới ? Một trong 3 trạng thái kể trên sẽ định đoạt số phận của y và sẽ chấm hết thực trạng chần chừ trước đây, trong khi người đệ tử còn đang phân vân chưa quyết định hành động hẳn bề nào giữa hai con đường thanh cao hay thấp hèn. Trong thực trạng đó, Chân Sư vẫn chú ý xem xét. Ngài không hề làm gì được vì đó là yếu tố riêng tư của người đệ tử. Ngài chỉ hoàn toàn có thể nỗ lực tăng cường ước vọng của chân ngã bằng quyền lực của tư tưởng của Ngài. Phàm ngã cũng không hề làm gì được, vì đến điểm đó cả hai thể xác và thể tình cảm chỉ còn là những thể vô thức và vô tri, chờ đón ứng đáp quyết định hành động của người đệ tử lúc ấy đang hoạt động giải trí trong thể trí. Chỉ có người đệ tử mới hoàn toàn có thể hành vi trên mức độ trí tuệ của tâm thức ở điểm nỗ lực công phu này. Một khi y hành vi như vậy, thì số phận y đã quyết định hành động. Hoặc là y tiến trên cửa Đạo diệu huyền, nơi đây Chân Sư đang chờ đón y và đấng Hiện Diện Thiên Thần cũng ảnh hưởng tác động một cách mà tôi không hề nói ngay đây cho chư môn đệ biết được. Hoặc là y trong thời điểm tạm thời y rơi rớt trở lại trạng thái hoạt động và sinh hoạt thấp thỏi của trần gian, ảo ảnh và ảo giác lại kìm hãm được y và “ kẻ giữ cửa ” lại chen mình vào giữa người đệ tử và ánh Đạo diệu huyền do cánh cửa mở ngỏ và tái hoạt động giải trí như trước. Trong hai lẽ đó, hoặc là người đệ tử đùng một cái thức tỉnh để thấu triệt chân lý và hiểu biết thiên cơ, một cách thâm sâu hơn, cùng vai trò của y trong Thiên Cơ mầu nhiệm, hoặc là bức màn vô minh lại bao trùm lấy y, làm cho nhãn quang tâm linh của y bị lu mờ, và y lại quay về với đời sống tầm thường của một người phàm tục, có lẽ rằng suốt trọn kiếp sống mà thời cơ tốt đẹp đã đưa đến cho y. Tuy nhiên, nếu y tiến bước qua cái cửa đó thì tùy theo trình độ Điểm Đạo mà những Bí Nhiệm của Thiên cơ sẽ được bật mý cho y cùng với những hậu quả tốt đẹp liên hệ. Sự mặc khải đó sẽ không phải là chỉ bật mý cho những năng lực hay vấn đề hoàn toàn có thể xảy ra. Đó là một kinh nghiệm tay nghề của bản thân thật sự, đưa đến cho y những quyền lực mới, cùng những thời cơ và những lãnh vực phụng sự mới. Do những quy trình tiến triển công phu trên đường đạo mà y mới sở đắc được những quyền lực này, cùng với một sự tự do hành vi “ trong khoanh vùng phạm vi hoạt động giải trí của HỘI ĐỒNG TIÊN THÁNH ” điều này vốn cao quý thiêng liêng hơn bất kỳ những gì mà y hoàn toàn có thể ước mong từ trước đến giờ .
Những cuộc tiếp xúc mới với Thánh Đoàn, nay đã ở trong tầm tay y, y được phó thác những nghĩa vụ và trách nhiệm mới và có quyền tự do sử dụng những kho thần lực mới trong việc làm phụng sự trần gian .
Có một điều mà toàn bộ chư môn đệ vốn biết trước khi tham gia công tác làm việc với tôi. Đó là trong một nhóm đệ tử như trong nhóm này, phần lớn đã bước qua cửa Điểm Đạo thứ I và đang bước vào những cuộc Điểm Đạo cao hơn. Lời nói đó không có gì phải làm cho ai kinh ngạc, hoặc sung sướng hay khoan khoái. Có rất nhiều Đạo sinh do sự thức tỉnh so với yếu tố tâm linh, do nguyện vọng, tham vọng nhiệt thành, do sự chiến đấu không ngừng để trở nên tốt đẹp, và hiến dâng đời mình cho lý tưởng phụng sự, đã chứng tỏ rằng TÂM BỒ ĐỀ hay đấng Christ ẩn vi nội tại đang tác động ảnh hưởng và hiện hữu trong tâm hồn họ. Hàng ngàn người đã trải qua cuộc Điểm Đạo thứ I đang thành thật và nhất quyết tiến lên những cấp bậc cao hơn trên đường đạo. Tôi muốn nhắc nhở chư môn đệ nhớ rằng rất nhiều luân hồi sinh tử còn phải trải qua giữa cuộc Điểm Đạo thứ I và cuộc Điểm Đạo thứ nhì, trong khi đó có những quá trình tiến hóa trong lặng lẽ, bí mật và phần đông không hiển hiện. Chư môn đệ không phải là độc lạ hay tiến hóa vượt bực hơn những đạo sinh thâm niên của trần gian. Điều này có tính cách khuyến khích và gây nên sự nhã nhặn. Tuy nhiên tôi không có ý muốn nói ai là người đang được chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc Điểm Đạo nào. Đó là một yếu tố mà mỗi đệ tử phải tự tò mò lấy. Đó là một yếu tố khuynh hướng của nội tâm, chớ không phải là một yếu tố tìm hiểu và khám phá bên ngoài .
Đến đây tôi muốn đề cập đến một điểm tương quan đến 3 cuộc Điểm Đạo tiên phong, 3 cuộc Điểm Đạo này luôn luôn được thực thi trong khi người đệ tử còn trong xác thân và ở trên cõi hồng trần. Việc ấy chứng tỏ tâm thức Điểm Đạo xuyên qua hai phần trí và óc. Đó là một điểm thường không được nêu ra và nhiều lúc bị hiểu sai lầm .
Tôi cũng muốn nhấn mạnh vấn đề với tổng thể sự rõ ràng và năng lực của tôi, về đức nhã nhặn là một điều tối thiết yếu của người học đạo. Tôi không nói đến tự ti mặc cảm mà nói đến cái ý thức đúng đắn về tỷ suất so với sự vật, nó khiến cho người đệ tử có được một ý niệm hài hòa và hợp lý, quân bình so với bản thân, nghĩa vụ và trách nhiệm và công phu hành đạo của y. Khi y có được đức tính đó y sẽ có một nhận xét hồn nhiên, vô tư so với chính mình và so với những thời cơ đưa đến. Tất cả chư môn đệ chắc rằng đã có lúc phỏng đoán về quả vị, tư thế của mình trên đường đạo và quả vị của những bạn đồng môn. Dầu sao điều đó cũng là tự nhiên và cận nhân tình. Vài đệ tử lại quá nhỏ nhoi theo ý nghĩa cá thể, chứ không phải theo ý nghĩa của đức nhã nhặn thật sự. Tôi muốn nói rằng chư môn đệ quá sợ mắc phải thói kiêu căng, ngã mạn và tập nhìn nhận năng lực mình quá cao đến nổi không chịu nhìn thẳng vào thực sự mà lại hạ thấp quá mức những năng lực và giá trị của mình .
Đức nhã nhặn thật sự vốn địa thế căn cứ trên vấn đề, tầm nhận xét và áp lực đè nén thời hạn. Ở đây tôi đưa ra một điểm gợi ý để chư môn đệ suy gẫm sâu xa về 3 nền tảng kể trên của thái độ nhã nhặn là một thái độ của Phàm ngã cần phải giữ gìn và chứng tỏ trước mỗi cuộc Điểm Đạo. Tôi muốn nhắc nhở rằng luôn luôn phải co đức nhã nhặn trước một viễn ảnh tâm linh chân chính .
Cuộc thí nghiệm mà tôi thực thi có những rủi ro tiềm ẩn của nó. Những đệ tử trong một Đạo Viện của Chân Sư trên cõi giới siêu hình, biết rõ không ít về quả vị của những bạn đồng môn, nhưng họ không phải luôn luôn nhớ lại những vấn đề đó qua tâm thức của bộ óc vật chất .
Điều này là một yếu tố bảo vệ, ngăn ngừa, chính do họ không hề được đáng tin cậy rằng họ sẽ sử dụng sự hiểu biết đó một cách đúng đắn trên cõi phàm trần. Họ hoàn toàn có thể chỉ trích một bạn đồng môn trong thời điểm tạm thời không sống xứng danh với mục tiêu Điểm Đạo của y. Họ hoàn toàn có thể ganh tỵ một cách kín kẽ tế nhị, hoặc tự kiểm tự phê một cách quá đáng. Họ hoàn toàn có thể coi một bạn đồng môn tiến vượt bực hơn y trên đường Đạo như một nhân vật đặc biệt quan trọng cao quý, rồi tách rời một nơi và gây phiền phức phức tạp thêm cho những khó khăn vất vả và những nỗ lực của y. Họ hoàn toàn có thể mất ý thức tỷ suất so với chính cuộc Điểm Đạo cùng những phương pháp và trạng thái của nó, qua sự tiếp xúc quá thân thiện thân thiện hay do sự hiểu nhầm một bạn đồng môn cũng đang nỗ lực trên đường sẵn sàng chuẩn bị. Hãy coi chừng có rất nhiều hố sâu vực thẳm. Hãy lo cuộc sống của mình và lo việc riêng của chính mình. Đừng suy luận phỏng đoán gì về quả vị của những đệ tử khác trong nhóm. Họ là những cộng tác viên mật thiết của chư môn đệ và những người khác cùng san sẻ công tác làm việc trong cuộc thí nghiệm của tôi. Hãy vun trồng đức nhã nhặn địa thế căn cứ trên sự hiểu biết và nhãn quang tâm linh, để phụng sự trần gian, phụng sự đắc lực những bạn đồng môn và phụng sự tôi nữa .
Tôi vẫn thường nói rằng tín hiệu để nhận ra một người đệ tử là tác động ảnh hưởng của y so với thực trạng bên ngoài và những người chung quanh và tín hiệu của người Đạo Đồ là tầm mức to lớn của việc làm phụng sự trần gian. Như vậy tại sao có vài đệ tử ( không phải toàn bộ ) không tỏ ra điển hình nổi bật tron việc phụng sự đó và tương đối kém cỏi trong những việc thế sự ? Có nhiều nguyên do để lý giải điều này. Trước hết, một đệ tử có lẽ rằng cần phải giao dịch thanh toán một vài nghiệp quả, để trả dứt những duyên nghiệp, nợ nần từ truyền kiếp và dọn đường cho việc phụng sự trái đất một cách hoàn hảo nhất và liên tục trong tương lai. Điều này thường xảy ra giữa hai cuộc Điểm Đạo thứ nhất và thứ hai. Đôi khi một đệ tử hoàn toàn có thể thao tác phụng sự hữu hiệu trên những cõi giới siêu linh, trên một quy mô rộng nhưng điều này không phản ảnh qua một dẫn chứng gì rõ ràng trên cõi giới hồng trần, trừ ra một đời sống thanh cao tốt đẹp. Những người khác hoàn toàn có thể học hỏi một vài kỹ thuật nào đó về liên hệ tâm ý và phân phối năng lượng và hoàn toàn có thể dành trọn một kiếp sống nhất định cho việc sơ đắc những khoa thí nghiệm này. Một kiếp sống chỉ là một tiến trình ngắn ngủi trong chu kỳ luân hồi hoạt động và sinh hoạt dài vô tận của linh hồn. Người đệ tử chân chính sẽ không khi nào thụt lùi trở lại những nguyên do trên đây như những bằng cớ để bào chữa cho sự thiếu nỗ lực. Hãy nhớ rằng tác động ảnh hưởng thế lực trong cuộc sống trần gian không phải luôn luôn là tín hiệu của người đệ tử. Có nhiều nhóm tiếng tăm và tác động ảnh hưởng lớn dưới sự chỉ huy của những vị lãnh tụ tài ba, nhưng những người này không nhất thiết là những đệ tử huyền môn. Nói về nhóm đệ tử này và cuộc thí nghiệm mà tôi đang thi hành, chư môn đệ cần đạt tới một tiến trình kinh nghiệm tay nghề tập thể, trong khi đó chư môn đệ sẽ không còn bận tâm nhiều đến sự văn minh cá thể, quả vị và công lao phụng sự của mình. Chư môn đệ cần phải tập hướng mọi tâm tư nguyện vọng ra bên ngoài để cho việc làm phụng sự chung trở nên yếu tố quan trọng số 1. Được như thế thì chừng đó những mối lo toan ích kỷ, những sự yếu nhược trong tâm tính, những tiềm năng cá thể v.v … đều sẽ không còn. Chư môn đệ sẽ nhận thấy rằng sự vun trồng đức tính “ thản nhiên siêu thoát ” như tôi đã nói trước đây sẽ rất có ích và sẽ trợ giúp rất nhiều vào việc loại trừ phàm ngã. Cái Tiểu ngã đây, do thói quen thường bành trướng lớn lao đến nổi nó che khuất mất chân ngã, đó là bức rào chướng ngại giữa người đệ tử và Chân Sư, nó ngăn chận mọi sự giao cảm, tiếp xúc với những bạn đồng môn và làm vô hiệu hóa mọi việc làm phụng sự .
Còn một điểm nữa mà tôi muốn nêu ra cho chư môn đệ hiểu rõ. Có những thời kỳ trong đời người đệ tử mà y thấy có vẻ như y không còn tiếp xúc được với Chân Sư và tổng thể mọi liên lạc với Ngài có vẻ như như gián đoạn. Đối với những đệ tử chính thức tôi muốn nhấn mạnh vấn đề rằng sự liên hệ đó hoàn toàn có thể có trên khía cạnh huyền môn, việc ấy không thể nào có được. Chỉ có một điều hoàn toàn có thể gây ra sự gián đoạn liên tục đó, ấy là khi nào mà người đệ tử cố ý và dụng tâm nỗ lực một cách ý thức trong một thời hạn rất lâu để gây ra thực trạng đó. Một vị Chân Sư không thâu nhận một người đệ tử nào vào trong nhóm của Ngài một cách hời hợt, cẩu thả, và một khi Ngài đã thâu nhận, thì việc ấy trở thành cố định và thắt chặt và không hề xóa bỏ. Mọi sự văn minh hay chậm trễ hay gián đoạn liên hệ vĩnh viễn với Ngài trọn vẹn do người đệ tử hết cả. Có thể xảy ra việc trong thời điểm tạm thời ngưng mọi việc tiếp xúc liên lạc và điều này hoàn toàn có thể lê dài suốt một đời. Tuy nhiên, việc ấy cũng không phải là xấu, xét về góc nhìn linh hồn, nó chỉ là một lúc ngắn ngủi với một ý nghĩ nhỏ bé trong diễn trình tiến hóa của linh hồn. Nó có vẻ như lớn lao quan trọng so với sự sống của phàm ngã. Nhưng chỉ có ý nghĩa bỏ lỡ mất thời cơ so với linh hồn, mà sự sống trường cửu khi nào cũng là Trường cửu bất diệt .
Bởi vậy, tôi đã thân mật và quan sát từng kỳ hạn sự hoạt động và sinh hoạt tâm linh của những đệ tử. Tôi đã ghi nhận sự tân tiến và sự trì hoãn của từng người. Tôi đã tận mắt chứng kiến sự thành công xuất sắc và thất bại của mỗi đệ tử. Tôi làm như vậy bằng cách cảm nhận sự thoi thóp và ánh sáng của chư môn đệ, chứ không phải dò xét từng cụ thể sự hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của mỗi đệ tử. Điều này không thích hợp trong thời kỳ khủng hoảng cục bộ cấp bách như ngày này, và do đó trình độ tiến hóa của những đệ tử nó cũng sẽ không khi nào thích hợp nữa. Chư môn đệ vẫn còn ở trong hào quang của Đạo Viện của tôi. Vị trí của mỗi người trong đó đều do nơi họ tự quyết định hành động chứ không phải do nơi tôi. Có những thời kỳ có một cái gì giống như một sự thoi thóp trong mối liên hệ giữa Chân Sư và đệ tử, một sự rút lui và tiến tới của người đệ tử dự bị, và một sự vững lòng chờ đón về phía Chân Sư. Khi những sự giằng co, chần chừ trong sự tiếp xúc ấy đã chấm hết, khi người đệ tử đã không thay đổi ý thức và trở nên “ một điểm năng lượng tiến đến một cách vững vàng ” thì chừng đó y trở nên vị đệ tử chính thức. Vài đệ tử trong nhóm của tôi đã không thay đổi, vài người khác đang suy thoái và khủng hoảng, 1 số ít ít đang tiến tới và tôi đang quan sát một cách chú ý những đợt sóng tâm linh khi đầy khi vơi của họ giống như mực nước thủy triều .
Sự động viên toàn bộ mỗi đệ tử rất thiết yếu trong lúc này. Và khi tôi nói đến “ Trong lúc này ” tôi muốn nói đến thời kỳ hiện tại và 50 chục năm tới đây. Sự động viên này gồm có việc kêu gọi tập trung chuyên sâu mọi năng lượng, thời giờ và tài nguyên của người đệ tử để Giao hàng trái đất. Nó yên cầu một niềm tin hiến dâng mới cho việc phụng sự, một sự thánh hóa đời sống của mình và bỏ quên phàm ngã, loại trừ tổng thể mọi xúc cảm, dục vọng, oán hờn và tổng thể mọi sự nhỏ nhen thường tình trong sự tiếp xúc với mọi người xung quanh. Trên cõi hồng trần, điều đó có nghĩa là sắp đặt cuộc hoạt động và sinh hoạt hằng ngày cách nào đó để cho cuộc sống mình trở nên một đời sống có xu thế và phụng sự tích cực. Hãy điều tra và nghiên cứu kỹ những lời dạy trên đây để nhận thức rõ mình còn thiếu sót về điểm nào và phải làm gì để bổ cứu lại .
Trong quá khứ, tôi đã đưa ra rất nhiều lời huấn giáo, giúp sức và khuyến khích. Những điều ấy, mà chư môn đệ vẫn còn giữ sẽ rất có ích nếu mỗi người chịu nhớ lại. Nhưng giờ đây thì hãy mở màn một quy trình tiến độ mới, không phải cho chư môn đệ mà trợ giúp cho quốc tế đang cần sự trợ giúp rất khẩn thiết. Hãy tự quên mình để làm việc làm này .
Trong thời hạn gần đây, tôi sẽ gánh trên vai rất nhiều việc và nghĩa vụ và trách nhiệm nặng nề do bởi sự chuyển biến của tình hình quốc tế, tình hình khủng hoảng cục bộ trầm trọng đã khiến cho ĐẠI ĐOÀN CHƯỞNG GIÁO phải cố gắng nỗ lực rất nhiều để ngăn chận sự sụp đổ tổng lực cơ cấu tổ chức của nền văn minh quả đât lúc bấy giờ. Những nền tảng lành mạnh của một phần cơ cấu tổ chức đó phải được bảo vệ, kỳ dư phải bị sa thải .
Có nhiều vấn đề gây nên thực trạng bất động trậm trệ mà thời nay có vẻ như nhiều đệ tử ngoài trần gian đang mắc phải, thay vì họ phải hoạt động giải trí tích cực để trợ giúp việc làm phụng sự. Điều này cũng vận dụng cho chư môn đệ. Áp lực của thực trạng cuộc chiến tranh, sự lo nghĩ bận rộn về những việc tiêng tư, cùng những thái độ và phản ứng cá thể so với cuộc sống làm cho chư môn đệ quên lãng những lời giáo huấn của tôi. Một trong những bài học kinh nghiệm khó khăn vất vả tiên phong của đệ tử là cái thái độ tuy nhiên đôi, nó gật đầu những hoạt động giải trí chính đáng của phàm ngã và sự chú trọng lành mạnh đến những vấn đề cá thể, nhưng đồng thời lại không được cho phép những vấn đề cá thể can thiệp vào đời sống tâm linh nội tại, vào việc làm phụng sự và công phu tập để sẵn sàng chuẩn bị Điểm Đạo .
Trên hết mọi sự, tôi muốn nói rằng, hãy tìm cách hồi sinh lại sự nhiệt thành, nhiệt huyết cùng nguyện vọng tâm linh của buổi khởi đầu. Nếu chư môn đệ chưa khi nào để mất nó ( tuy rằng nhiều đệ tử đã mất ) hãy tìm cách làm cho năng lượng của tham vọng tâm linh đó ảnh hưởng tác động trong những việc làm đơn cử, hữu hiệu ở cõi hồng trần. Chư môn đệ hoàn toàn có thể hỏi : Bằng cách nào ? Bằng cách tăng gia cường độ ánh sáng tâm linh của chư môn đệ trên trần gian xuyên qua tình thương và công phu thiền định, để cho kẻ khác thành viên hướng về chư môn đệ như ngọn hải đăng chiếu rọi trong đêm hôm của cuộc sống, nó có vẻ như đang làm chìm đắm quả đât trong thế kỷ này. Hãy cố gắng nỗ lực yêu quý nhiều hơn là chư môn đệ tưởng rằng hoàn toàn có thể để cho kẻ khác, trong lòng đang tê tái, nóng bức vì những sự phủ phàng đắng cay của cuộc sống trên thế, hoàn toàn có thể hướng về chư môn đệ để tìm sự an ủi và sưởi ấm tâm hồn. Những gì mà tôi và tổng thể những vị có liên hệ đến Thánh Đoàn ( nỗ lực triển khai trong thời đại khủng hoảng cục bộ vô vọng ngày này, là tìm kiếm những người có vừa đủ tư cách làm những khí cụ trung gian để ban rải tình thương, sức mạnh và ánh sáng mà trần gian đang cần và phải có, nếu muốn làm cho cơn giông tố này lắng dịu. Tôi nhu yếu chư môn đệ hãy làm công tác làm việc phụng sự này cho tôi và cho quả đât. Tôi không đòi điều gì độc lạ. Tuy nhiên nó cần một nỗ lực ráo riết của linh hồn, nếu chư môn đệ muốn phân phối đầy. Tôi không có yên cầu điều gì không hề làm được .
Tôi muốn nhắc nhở chư môn đệ rằng sự hôn trầm của thể xác và bộ áo, sự khô khan bất động của xúc cảm và sự lười biếng của trí não có vẻ như là những chướng ngại ngăn trở chư môn đệ khi phải đương đầu với những yếu tố lớn .
Lại một lần nữa, tôi chỉ đường cho chư môn đệ và sẵn lòng chờ đón chư môn đệ sẽ tăng trưởng đời sống nội tâm hay không, để đạt cái quyền lực nó giúp cho chư môn đệ vừa sống như một người tốt đẹp hữu hiệu và đồng thời lại vừa như một chân ngã sôi động và đầy tình thương. Sự thực hiện liên tục lối sống song phương đó chính là điều thiết yếu của chư môn đệ trong lúc này, nó sẽ đưa đến việc hòa hợp chân ngã và phàm ngã và một hiệu năng hoạt động giải trí can đảm và mạnh mẽ to lớn gấp bội phần. Nhiều đệ tử không còn trẻ tuổi nữa và cái thói quen cố định và thắt chặt về tư tưởng và cảm hứng không dễ gì phá bỏ. Tuy nhiên, những điều này phải được phá bỏ và chư môn đệ không lấy làm bực tức, mà phải biết loại trừ những nhịp điệu cũ của phàm ngã và tạo nên những tiết điệu mới của lối sống tốt đẹp .
Những người đang oằn oại trong đau khổ, lo âu và vô vọng ( những người này rất nhiều ) nhưng vẫn nỗ lực bền gan chịu đựng, hãy nên biết rằng, cái giả tưởng bên ngoài không phải luôn luôn là thực sự, những gì gây tổn thương, đau khổ cho phàm ngã lại thường là những phương tiện đi lại giải thoát, nếu biết nhận xét đúng mức. Những gì Open khi những lực lượng của ánh sáng xâm nhập bóng tối của trần gian sẽ chứng tỏ đặc thù thiêng liêng của linh hồn bất diệt .
Tôi hoàn toàn có thể nói với toàn bộ : tình thương của tôi bao trùm chư môn đệ và hào quang của Đạo Viện mà tôi là cái TT vẫn đứng vững như bức tường thành vĩ đại che chở, bảo vệ chung quanh tổng thể những người nào chiến đấu cho lẽ phải. Vậy chư môn đệ hãy chiến đấu. Chừng đó chư môn đệ sẽ hoàn toàn có thể cảm nhận được sự che chở đầy tình thương này. Mỗi ngày nếu chư môn đệ muốn, giao cảm với Chân Sư của mình. Chúng tôi không phải là mù quáng hay cẩu thả, bất cần. Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng có những điều ác còn tệ hại hơn hơn là sự chết và đau khổ. Chúng tôi biết rằng đây là một thời kỳ mà thời cơ lớn lao ngàn năm một thuở đã đến với trái đất, và nếu con người hoàn toàn có thể vượt qua tiến trình này trong sự thành công xuất sắc và bằng sức mạnh của linh hồn mình, thắng đoạt được điều ác ở trong hiện tại, thì chừng đó sự tiến hóa của quả đât sẽ hối thúc mau chóng ngoài sức tưởng tượng. Việc này có ý nghĩa thâm sâu trong đời sống của quả đât cũng như có ý nghĩa trong đời sống cá thể của người đệ tử .
Khi chư môn đệ nghĩ đến chúng tôi ở những nơi gọi là trú ẩn bảo đảm an toàn trên non cao đông thẳm này, chư môn đệ không hề biết rằng cái năng lực đồng nhất với toàn bộ những gì liên hệ tới sự khốn khó của trần gian thời nay và sự nhạy cảm của Đấng Cao Cả trong Thánh Đoàn so với thực trạng khổ đau của trái đất, làm cho những Ngài rất đau thương, có vẻ như đứng trước một cơn hấp hối tâm linh vô cùng trầm trọng. Cái Ngài hiểu rõ sự phản ứng sâu xa của quả đât bởi những Ngài là một với toàn bộ mọi người. Điều này yên cầu một sự hiểu biết thâm sâu hơn nhiều, nó vượt rất xa những gì mà chư môn đệ hoàn toàn có thể hiểu, nó chỉ hoàn toàn có thể được bày tỏ không thiếu bằng danh từ đồng nhất. Các Ngài cần đến sự trợ giúp trung kiên, tình thương bền chặt, thái độ trung thành với chủ và sự cung ứng mau chóng của tổng thể những đệ tử so với những nhu yếu của trái đất, để giúp cho những Ngài nuôi nấng một cách thuận tiện hơn cái gánh nặng mà nghiệp quả đã đặt nặng trên vai những Ngài, mà những Ngài đã tình nguyện đảm trách .
Chư môn đệ có sẵn sàng chuẩn bị cho ra những thứ đó chăng, chư môn đệ có muốn trợ giúp vào công cuộc của chúng tôi bằng mọi cách chăng ? Vừa là với tư cách cá thể hiến dâng cuộc sống cho việc làm phụng sự vừa là như những linh hồn bước chân trên con đường Đạo, đường Đạo đầy ánh sáng. Nhu cầu tình thương và ánh sáng của trái đất, nhu yếu của Thánh Đoàn cần đến những đường vận hà và những người phụng sự trần gian, hoàn toàn có thể lôi kéo đến tổng thể những gì mà chư môn đệ hoàn toàn có thể ban phát .
Đó là phần thương thật sự duy nhất mà người đệ tử mong ước. Điều đó sẽ đến với chư môn đệ, nếu chư môn đệ hãy quên đi cái phàm ngã nhỏ bé của mình .
Cầu mong sự hiểu biết của chư môn đệ hoàn toàn có thể thăng hoa trở thành minh triết và nhãn quang tâm linh điều khiển và tinh chỉnh tổng thể mọi hành vi và hoạt động và sinh hoạt của chư môn đệ. Đó là điều ước vọng sâu xa trong lòng tôi so với mỗi đệ tử cũng như so với toàn bộ chư môn đệ .
Người Bạn và Người Thầy của chư môn đệ
CHÂN SƯ TÂY TẠNG


Gửi : E.S.D.

Tháng 11/1931

Em thân mến ,
Tôi muốn nói với em những lời này, đừng tiêu tốn lãng phí thời giờ để nghĩ đến những công quả em đã làm trong những năm qua hoặc nôn nả tiên liệu những năm tương lai mà em định dành cho sự cố gắng tu luyện dưới sự hướng dẫn của tôi. Vấn đề xem xét thời hạn có lẽ rằng đã chiếm phần đông trong tư tưởng của em và em phải tập quên nghĩ đến những văn minh tương lai bằng cách tập trung chuyên sâu niềm tin vào việc làm hiện tại. Em cũng phải quên phần hình thức trong cơn tham thiền, vì em cần thức động trực giác. Làm việc thiết tha đến hiệu quả là một bài học kinh nghiệm đáng kể. Bởi vậy những huấn thị đặc biệt quan trọng dưới đây hoàn toàn có thể trong thời điểm tạm thời gây cho em một sự kinh ngạc nhưng sau này em sẽ biết nguyên do :
Điểm thứ nhất : Hãy gạt bỏ toàn bộ mọi hình thức ra ngoài công phu thiền định của em và hãy ngồi trọn vẹn lạng lẽ, tập trung chuyên sâu sự quan tâm đến những biểu lộ tình thương, tức là Chân Ngã. Hãy kiềm hãm tư tưởng cho vững vàng ( so với em việc này không khó ) và kế đó hãy vô hiệu cái ý niệm gốc. Hãy lắng nghe và ngưỡng vọng. Kết thúc mỗi cơn thiền định bằng sự ban rải tình thương cho tổng thể mọi loài. Sự ban phát tư tưởng này là một sự buông xả rất hữu hiệu và mỗi đệ tử trong nhóm cần buông xả, tách rời khỏi một cái gì. Đối với em, đó là sự tách rời ra khỏi trong mọi hình thức trong việc làm phụng sự. Em đã biết tôi muốn nói gì .
Điểm thứ hai : Từ nay cho đến ngày rằm tháng năm hãy ngưng toàn bộ mọi sự tập luyện hơi thờ. Em đã theo dõi sự tập luyện này trong nhiều năm và nay cần phải nghỉ. Mọi sự trong vạn vật thiên nhiên đều diễn tiến từng chu kỳ luân hồi hoạt động giải trí và nghỉ ngơi, và trước khi tôi dắt em bước thêm một bước nữa, tôi muốn em hãy giải tỏa sự căng thẳng mệt mỏi trí não, và chú tâm đến sự nhiệt thành nó vẫn quản lý đời sống của em …
Bây giờ, em hoàn toàn có thể liên tục công phu thiền định và luyện hơi thở mà tôi đã hướng dẫn. Trong cơn thiền, hãy nỗ lực hướng ngoại và mở tâm thay vì là kẻ mở trí và hướng nội như em lúc bấy giờ. Con đường tách rời, buông xả trong trường hợp của em là con đường bác ái và tình thương phải là điểm trụ cột trong tổng thể mọi công phu thiền định của em. Bởi vậy hãy cẩn trọng tuân theo những thông tư, và nhớ rằng so với em tôi vẫn tránh né không chú trọng đến phần hình thức. Chủ đề của mọi cơn thiền định của em hoàn toàn có thể tóm lược như sau :
“ Tôi nguyện noi theo con đường bác ái. Tôi tự nhắc nhở với linh hồn mình rằng tôi sẽ hành vi luôn luôn như một vận hà của lòng từ ái và một khí cụ của tình thương. Tôi phụng sự với một ý đồ trong sáng. Tình thương và lòng nhiệt thành nơi tôi phải là cái nguồn sống để nuôi dưỡng những tham vọng tâm linh nơi những kẻ đồng loại của tôi. Tôi tự nguyện làm những điều này với một niềm tin hiểu biết và sáng suốt ” .
Sự góp phần của em cho nhóm đệ tử này là những tham vọng nồng nhiệt linh động và hăng say, nó vốn là đặc thù tâm linh của cung 6 là cung của em .

Hỡi đệ tử chính thức ,
Nay tôi đã hoàn toàn có thể gọi em bằng thương hiệu đó, chính do em đã đạt tới một điểm ( mong ước từ lâu trên đường Đạo ) mà giờ đây em đã tự biết rằng mình đã bước vào con đường của người đệ tử chính thức. Tôi không hề gọi em như thế sớm hơn, chính bới sự nhìn nhận trạng thái tâm linh nội tại đó phải đến từ bên trong đặc thù riêng biệt của người đệ tử. Chúng tôi là những Đạo Sư, chỉ được phép nhìn nhận sự kiện ấy sau khi đã xảy ra. Trong nhiều năm, em đã tích cực hoạt động giải trí trên cõi trí tuệ, kể về riêng em và cùng với nhiều người mà em được phép hướng dẫn trên con đường của người đệ tử dự bị. Tuy nhiên em vẫn luôn luôn mong mỏi, có một sự tiếp xúc bén nhạy trên địa hạt tình cảm và mở rộng lòng từ ái. Hiện nay em đã đạt được mục tiêu này sau hai năm công phu, nỗ lực, và tác dụng là em đã khởi đầu hợp nhất hoạt động giải trí của trí tuệ và tình thương. Khi điều này được thực thi do tác động ảnh hưởng của ý chí, và khi nào biểu lộ trên thực tiễn trong việc làm phụng sự, thì chừng đó người đệ tử bước vào con đường nhập môn. Chừng đó y cũng hoàn toàn có thể tìm thấy thời cơ gia nhập và nhóm đệ tử của một vị Chân Sư, miễn là có một chỗ trống. Việc này đã xảy ra trong trường hợp của em, em cũng tự mình biết được điều ấy, và bởi đó, tôi hoàn toàn có thể tiếp đón em như một đệ tử chính thức .
Tôi muốn sửa đổi một vài điều trong phép luyện khí công và công phu thiền định của em. Về cả hai loại công phu nầy, em hãy giữ một quyển sổ tay, và sau một thời kỳ 6 tháng, hãy ghi nhận những hiệu quả thu nhận được, những ảnh hưởng tác động huyền diệu cùng mọi sự khai triển tâm thức mà em cho rằng nhất định là do những công phu ấy mang đến. Trong trường hợp của em, hãy ghi nhận những tác dụng ấy trong tâm thức thông linh. Chính trong địa hạt này trong thực chất của em, sự tăng trưởng tâm linh có phần nào bị số lượng giới hạn. Sự stress trí não trong 30 năm qua đã làm cho ảnh hưởng tác động tự nhiên của những sức mạnh thông linh bị ngăn trở không ít .
Em đã có một trí lực vững chắc vững vàng để hoàn toàn có thể tập luyện khai mở thông linh một cách bảo đảm an toàn và hữu dụng dưới sự giám sát của tôi. Nhưng trên phương diện nầy, tất cả chúng ta phải đi từ từ. Trong vòng 6 tháng tới đây tất cả chúng ta sẽ vận dụng chiêu thức “ tẩy uế thông linh ” tổng lực bằng bảy hơi thở dẫn điện, tác động ảnh hưởng bằng ý chí. Những hơi thở dẫn điện này sẽ lưu thông khắp toàn thân thể em và tạo nên một sự kích thích chung, đưa em đến một sự thụ cảm bén nhạy hơn trước. Bởi vậy hãy ghi nhận sự ứng đáp của em so với tâm thức nội tại đó, và trong vòng nửa năm tới đây, em hãy giữ một cuốn nhật ký riêng để ghi nhận mọi diễn biến thông linh, mỗi khi hoàn toàn có thể cảm thông bằng TGCC với nhu yếu hay với tư tưởng của những người chung quanh. Em hãy cố gắng nỗ lực hòa nhịp một cách ý thức hơn với tâm thức của những bạn đồng môn trong nhóm. Cuốn nhật ký của em sẽ làm cho kẻ khác thú vị và sẽ là một bảo vệ cho sự văn minh cá thể em …
Tháng 6/1935
Hôm nay tôi muốn nghiên cứu và phân tích tỉ mỉ thực trạng những bí huyệt thông linh của em, từ bí huyệt rún trở lên. Em đang trải qua một tiến trình tuy nhiên đôi của sự tách rời và đồng thời sự tăng trưởng thông linh. Em cần nhớ rằng những quy trình tiến độ tách rời có nhiều thứ khác nhau. Có loại tách rời khỏi quốc tế của giác quan hoặc như trong trường hợp của em, sự tách rời trong thời điểm tạm thời và tương đối khỏi quốc tế tiếp xúc của lý trí. Đó là sự tách rời địa thế căn cứ trên một thái độ nội tâm chứ không phải là một trạng thái thuộc về ngoại cảnh. Điều này được thực thi chu toàn và đa dạng và phong phú hóa sự hoạt động và sinh hoạt xúc cảm và thông linh của em .
Sự hoạt động và sinh hoạt thông linh của một đệ tử là một phần nhất định của sự biểu lộ tâm linh của y. Chỉ khi nào nó không được kiềm chế, khi nó được chú trọng quá đáng và được gán cho một giá trị quá cao, thì nó mới là bất hảo. Nó là một chướng ngại khi nó bị lạm dụng, hay khi nó được coi như một giải pháp hoàn toàn có thể thay thế sửa chữa cho những hình thức khác của sự biểu lộ thiêng liêng. Chừng đó nó tạo nên những ảnh hưởng tác động bất hảo và nhận chìm người đệ tử trong quốc tế của ảo ảnh và ảo giác. Những thế lực thông linh là những trợ lực đáng kể cho việc làm phụng sự khi chúng được tăng trưởng đúng phép và được sử dụng một cách lành mạnh. Chúng hoàn toàn có thể khai mở một cách bảo đảm an toàn bởi người nào đã mở mang trí tuệ và hướng cuộc sống mình theo con đường phụng sự .
Chắc hẳn em lấy làm kinh ngạc mà thấy tôi đã chọn em là người tiên phong trong nhóm đệ tử này để chuẩn bị sẵn sàng cho công tác làm việc thông linh. Lý do là vì dưới một tác phong dè dặt và một trí lực được kiềm chế, em còn có một thể thông linh can đảm và mạnh mẽ đã tăng trưởng đến một trình độ khá cao. Thể thông linh này, em chưa khi nào sử dụng trong kiếp hiện tại, nhưng nó đã được tăng trưởng đến mức độ này trong những kiếp trước. Những khuynh hướng thông linh của em đã can đảm và mạnh mẽ đến nổi trong kiếp này linh hồn em muốn quân bình hóa và chu toàn phàm ngã của em bằng cách đặt trong tâm trên góc nhìn trí não. Tuy nhiên chính những mối ràng buộc thông linh trong quá khứ đã đưa em bước vào cơ quan mà em đã trợ giúp việc làm trong vài năm, một cơ quan mà phần đông việc làm được triển khai trên mức độ thông linh và trung giới .
Sự tăng trưởng thông linh, khi nó không bắt nguồn từ nơi bí huyệt rún, phải được triển khai bằng việc trấn áp đúng phép những bí huyệt linh nhỡn, cuốn họng, tim và rún bởi “ con người tâm linh ” tọa thủ ở trên đầu .
Trong trường hợp của em, bí huyệt linh nhỡn được khích động rất ít. Nó hãy còn yên lặng và xoay rất chậm. Bởi đó, hạch mũi hãy còn ở mức độ dưới thông thường. Bí huyệt rún đã khai mở, nhưng em không biết dùng nó làm phương tiện đi lại tiếp xúc, và chỉ trong vòng hai năm qua em mới mở màn đặt nó chịu ràng buộc vào bí huyệt đầu bằng cách vun trồng lòng từ ái. Bí huyệt cuống họng luân chuyển lờ đờ, nhưng hoàn toàn có thể làm khích động thuận tiện, còn bí huyệt tim đang thức động mau lẹ .
Bởi vậy thực trạng những bí huyệt của em hoàn toàn có thể được miêu tả như sau :
Bí huyệt đầu : 40 % thức động
Bí huyệt linh nhỡn : 15 % thức động
Bí huyệt cuống họng : 60 % thức động
Bí huyệt tim : 50 % thức động
Bí huyệt rún : 75 % thức động
Như thế bí huyệt linh nhỡn hiện thời của em phải được chú trọng nhất. Nó càng được thức động để luân chuyển hai năng lực quan trọng của nó. Trong trường hợp của em thì đó là :
Khả năng phóng phát hình tư tưởng
Khả năng tác động ảnh hưởng như một cơ quan linh thị ( thần nhãn )

Mỗi ngày em phải tập
luyện phép khí công sau đây trước khi bước vào công phu thiền định … Em có thể
tập hai lần mỗi ngày chứ đừng nhiều hơn vì nó có cường lực rất mạnh. Không bao
lâu nó sẽ thức động bí huyệt linh nhỡn và làm cho bí huyệt này hoạt động mạnh
hơn. Nếu cảm thấy nhức đầu hay cảm thấy thần kinh căng thẳng, em hãy ngưng tập
một hai ngày, rồi sẽ tiếp tục lại. Hãy giữ một thái độ bàng quang và đừng trông
chờ kết quả. Kết quả vẫn có nhưng lúc đầu chỉ có tôi mới nhận thấy mà thôi …

Tháng 6/1936

Tôi muốn nói với em hai điều xuất phát tự nơi lòng và hai việc thực tiễn mà tôi nghĩ tới trong trí. trước hết tôi muốn ban cho em mọi lời ban tặng, tuy tôi biết rằng em không mong ước điều đó và em vẫn luôn hành vi theo sự thôi thúc và cảm hứng của Chân Ngã. Em thao tác để cung ứng những nhu yếu của quốc tế chứ không phải vì ý muốn làm sung sướng tôi, hay thậm chí còn để phối hợp ngặt nghèo hơn với nhóm bạn đồng môn. Em thao tác chỉ vì ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm và ý thức hoạt động giải trí đúng đắn. Dù sao, tôi muốn khen Tặng Ngay em vì đức tính kiên cường mà em vẫn giữ, mặc dầu có nhiều sự bất mãn tâm linh và mặc dầu những nỗ lực tiếp tục của em không đem lại bao nhiêu hiệu quả trên góc nhìn diệu huyền. Em đã gạt bỏ ra ngoài mọi sự quan tâm vào bản thân mình và chỉ làm những gì cần phải làm mà em tin yêu rằng đó là con đường của mình cũng như của toàn bộ những đệ tử chân chính .
Nhiều năm trước đây, em còn mong ước thâu lượm những tác dụng tốt của những việc làm của mình. Nay em vẫn tích cực hoạt động giải trí, nhưng em vẫn sẵn lòng không nghĩ đến tác dụng. Đó là một điều rất tốt. Tuy nhiên tôi muốn nói với em rằng hiệu quả vẫn có, và có lẽ rằng những tác dụng ấy đã mở màn Open rõ ràng hơn trong trí của em. Tôi hoàn toàn có thể chỉ cho em thấy hai hiệu quả và tôi đã cố ý lựa chọn hai loại tác dụng này và chúng có liên hệ đến tôi và đến việc làm của em với tôi, là thầy và bạn của em. Điều thứ nhất tôi đã thâu nhận em làm đệ tử chính thức và em đang xuất hiện trong nhóm đệ tử của tôi … Điều thứ hai, tôi đã cho em và những bạn đồng môn biết rằng tôi đang bắt tay cho em được Điểm Đạo. Em vừa kết thúc một chu kỳ luân hồi hoạt động giải trí trong tháng vừa mới qua vào giờ trăng tròn ngày rằm tháng 5. Nay em đang bước vào một chu kỳ luân hồi khác. Em hãy nhớ rõ điều này trong trí và tiến bước đến việc phụng sự tự do hơn, thông cảm sâu xa hơn, với một nhãn quang sáng suốt hơn. Em đã đạt một nền tảng vững chãi .
Hai tư tưởng xuất phát tự nơi lòng mà tôi muốn nói với em hoàn toàn có thể tóm tắt dưới đây. Hãy ghi nhận rằng những tư tưởng này xuất phát nơi tâm tôi, còn những điểm gợi ý là do trí óc tôi. Đó là sự gợi ý về công việc làm của em trong tương lai so với những người tìm đến sự trợ giúp của em trong đời sống tâm linh của họ .
1 ) Nay em cần hoạt động giải trí dứt khoát hơn và tự tín hơn với tư cách một đệ tử chính thức. Điều này có nghĩa gì ? Đó có nghĩa là em phải thao tác trong sự nhận định và đánh giá rằng, do tại em đã nhập môn, nên em có sự liên lạc trực tiếp với Thánh Đoàn, và bởi đó, đặc thù phụng sự của Thánh Đoàn cũng phải được biểu lộ nơi em và xuyên qua em. Tính chất đó như thế nào ? Đó là sự minh triết tự biểu lộ một cách mưu trí bằng tình thương em phải suy ngẫm về câu này. Em vẫn luôn luôn phụng sự một cách mưu trí, vì em có nhiều ý thức hiểu biết cho tác dụng của những kinh nghiệm tay nghề cũ, tư tưởng sâu xa và công phu tập luyện trong kiếp này. Tuy nhiên những kiến thức và kỹ năng đó phải được diễn dịch thành minh triết xuyên qua năng lực linh động của tình thương. Tôi không nói gì thêm để miêu tả ý niệm này. Nó phải được dùng là đề tài suy luận dồi dào, đa dạng chủng loại của em .
20 Tư tưởng thứ hai xuất phát tự lòng tôi là muốn cho em hãy nhớ rằng vị thế đệ tử đương nhiên gồm có ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm, và ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm được tăng trưởng bằng sự đau khổ. Điều này không khỏi đưa đến sự buông xả tách rời. Phương thức tách rời này sẽ diễn tiến so với tổng thể mọi người trong nhóm và hẳn là phải có sự khó khăn vất vả. Sự khó khăn vất vả này hoàn toàn có thể gây nên một loạt những yếu tố rắc rối và phiền lụy luôn luôn đến với em trong cuộc sống phụng sự, trong đời sống mái ấm gia đình và trong những dịp tiếp xúc ngoài trần gian. Điều này có lẽ rằng cần có một đức tin và can đảm và mạnh mẽ thuộc loại cao hơn. Nhưng tôi không quan ngại cho em, hỡi người đệ tử trên đường Đạo. Em có một đức tin vững như sắt thép không sao lay chuyển …
Tháng 1/1937
Em thân mến ,
Tôi rất mừng mà thấy em tỏ ra nhạy cảm so với sự rung động từ điển của tôi. Nhưng em không phải luôn luôn nhạy cảm như em tưởng. Các Đạo sinh dễ lầm sự rung động của cung Hai, là cung của nhóm đệ tử này với sự rung động cá thể của tôi. Các đệ tử cần phải tập luyện để hoàn toàn có thể phân biệt những loại rung động sau đây :
Sự rung động cung hai, là cung Minh triết bác ái .
Sự rung động của Chân Sư M. hay Chân Sư K.H. khi những Ngài sử dụng sự rung động từ điển để khuyến khích một nhóm đệ tử
Sự rung động của tôi, tự nhiên là có nhuộm sắc tố rất đậm của cung hai .
Sự rung động của một nhóm đệ tử thuộc cung hai, vốn là sự tổng hợp của tổng thể những đặc tính và sắc tố của những đệ tử trong nhóm .
Sự rung động của những đệ tử hạng sang cung hai, đôi lúc hoàn toàn có thể làm lẫn lộn với những rung động của tôi
Sự rung động của những đệ tử thuộc cung sáu, ứng đáp với sự rung động của cung Hai. Công việc của họ phần đông diễn ra trên cõi Trung giới và hoàn toàn có thể được tiếp xúc một cách thuận tiện .
Sự nhận xét này hoàn toàn có thể giúp cho em thấy vài điều hay lạ. Có điểm lạ lùng nào em và những bạn đồng môn B.S.W. tiêu biểu vượt trội cho 2 đối tượng người dùng cực đoan trong sự nhận xét này trên phương diện triết lý. Cả hai đều biết nhận ra đối tượng người tiêu dùng mỗi khi có sự giao cảm, nhưng B.S.W. lại nhạy cảm hơn em so với sự rung động của tôi. Tuy nhiên, y bị mất nhiều nhạy cảm đó bởi một sự vô tư gượng ép còn em mất nhiều do bởi nhiều lúc em quá tự tín .
Về yếu tố cảm nhận sự rung động, nên nhớ rằng mọi sự cảm xúc rung động vốn là một phản ứng xúc cảm. Khi xem xét nhóm đệ tử, tôi nhận thấy rằng có vài người, nhất là em, đã cố gắng nỗ lực gạt bỏ sự bén nhạy của xúc cảm. Vài đệ tử gật đầu sự nhạy cảm này, nhưng coi nó như một điều bất hảo. Những người khác coi nó như một điều nên khỏa lấp, trừ tiệt và quên hẳn đi. Ít có người, nếu có, biết coi thể tình cảm như một sự biểu lộ linh diệu của thực sự, với những công dụng rõ ràng và nhất định của nó .
Thể tình cảm, ở vào đúng thời hạn và vị trí của nó, vốn có giá trị, mục tiêu và công dụng thật sự cũng như thể trí. Nó có công dụng thông suốt ấn tượng thanh cao với ấn tượng thấp kém, và chính nhờ sự trung gian của nó mà em hoàn toàn có thể ghi nhận sự rung động của tôi trong tâm thức của bộ óc vật chất. Em hoàn toàn có thể nhận thức được sự rung động của tôi trên cõi giới của linh hồn, và tâm thức thể trí của em hoàn toàn có thể ghi nhận được ấn tượng của nó ( nghĩa là bất động xấu đi so với quốc tế cảm xúc và thụ cảm so với ấn tượng trí não ) thì ấn tượng này sẽ không hề ghi nhận được trong bộ óc hay trong khi thức tỉnh .
Những bản báo cáo giải trình viết tay của em về yếu tố này có nói về ảnh hưởng tác động mà việc làm và đời sống của em gây ra so với kẻ khác. Ảnh hưởng đó được biểu lộ qua việc sử dụng những sức mạnh mà những đệ tử phải tập điều khiển và tinh chỉnh để tạo nên những quyền lợi thật sự cho kẻ khác. Trong khi đó, những đệ tử cũng khảo sát những người này để thăm dò nhận xét những phản ứng gây nên. Tuy nhiên cần ghi nhận những phản ứng gây ra trong những trường hợp dưới đây :
1 ) Khi em công tác làm việc với những người thấp kém hơn, những người thường hay những đệ tử dự bị lần tiên phong mới bước chân vào Đường Đạo. Với những người này, em có nhiều việc phải làm. Ảnh hưởng họ gây ra cho em thuộc về loại tốt nhất không ?
2 ) Trong sự tiếp xúc với những người ngang hàng với em trên Đường Đạo, và những người mà sự rung động có đặc thù hóa giải hoặc có một cường độ tương tự với sự rung động của em, và bởi đó không gây nơi em một sự phản ứng nào, trừ ra một cảm xúc êm dịu hay thân hữu .
3 ) Khi em nhận ra những bậc Trưởng thượng trên đường Đạo, họ hoàn toàn có thể khêu gợi nơi em một sự phân phối can đảm và mạnh mẽ .
Em đã khởi đầu tiếp xúc với những yếu tố huyền môn tế nhị hơn trong việc làm của tất cả chúng ta, và về việc này, em phải chuẩn bị sẵn sàng chuẩn bị sẵn sàng. Những bài vở, sách vở mà em soạn để vấn đáp những câu hỏi đã lý giải công việc làm của em so với những kẻ thấp kém hơn trên Đường Đạo. Nhưng còn so với những kẻ ngang hàng và những vị trên trước thì sao ? Hãy đọc lại những câu hỏi và câu vấn đáp để xem sự phản ứng của em như thế nào .
Vị Đạo Đồ cấp 5 của thời kỳ ATLANTIDE phải tỏ ra biết sử dụng xúc cảm đúng phép. Trong thời kỳ ARYAN, vị Đạo Đồ cấp 2 cũng phải chứng tỏ như vậy. Còn em, hỡi đệ tử, em hoàn toàn có thể nói là em đã chuẩn bị sẵn sàng để chứng tỏ điều đó chăng ?
Em được tham gia vào việc làm tập thể này là do hiệu quả của sự hăng say tầm đạo, của những liên hệ nghiệp quả từ trước, của sự tìm tòi học hỏi, nó khêu gợi sự cung ứng của Chân Ngã và bởi đó em đã thụ hưởng được cái quyền của một phụng sự viên hữu thệ đã từng kiên tâm phụng sự một mình trong nhiều năm. Em đã góp phần vài sự hoạt động giải trí tập thể này không ít sở trường đặc biệt quan trọng và vài sở đoản cũng độc lạ không kém, cũng như toàn bộ những bạn đồng môn khác trong nhóm. Nhiệm vụ của tôi là sử dụng những những sở trường trong nhóm và chúc em loại trừ những sở đoản. Bởi vậy, tôi muốn em hãy suy gẫm về yếu tố này, với tư cách là một Chân Ngã đi trên con đường gay go và bén nhọn như lưỡi dao cạo giữa những cặp xích míc đối tượng người dùng, tức là những sở trường và sở đoản của em, và nhìn chung với một thái độ trọn vẹn khách quan vô tư .
Tháng 7/1937
Em thân mến ,
Trong trường hợp của em, thể trí bị quản lý bởi năng lượng của cung 5. Đó là một thực trạng rõ ràng và gây nhiều sự khó khăn vất vả trong đời em. Trong trường hợp của toàn bộ những Đạo sinh hoàn toàn có thể trí ở vào thực trạng đó, đó là cái nguyên tắc của thái độ “ phản từ điển ” của họ. Hiểu theo ý nghĩa tâm ý của danh từ này. Hãy nhớ rằng thái độ “ phản từ điển ” ở vào quá trình tiến hóa của em có nghĩa là em không hề phát huy sự sống chân ngã của em cho kẻ khác như ý em muốn. Bởi vì dưới tác động ảnh hưởng của Cung 5 ( là cung của Khoa Học Thực Nghiệm, đơn cử như em đã biết ). Thể tình cảm của em bị cô lập và có khuynh hướng phân biệt tẩy chay, nó đưa đến sự chia rẽ, cách biệt. Hậu quả ngược lại cũng vẫn đúng. Sự phóng xạ từ điển của kẻ khác cũng hoàn toàn có thể bị ngăn ngừa và do đó mà em không hề đảm nhiệm được những ấn tượng thần giao cách cảm. Tuy nhiên, một thể trí thuộc Cung 5 cũng có một giá trị rất lớn, vì nó là một thể trí sắc bén, hữu dụng và là một cánh cửa mở ngỏ để đảm nhiệm nguồn cảm hứng siêu linh ( suy gẫm về điều này ) .
Thể tình cảm của em chịu ảnh hưởng tác động của Cung 6, tức cung sùng tín hay lý tưởng, nhưng điều này hoàn toàn có thể được chuyển Cung và biến hóa thuận tiện dưới tác động ảnh hưởng của Cung 2 Minh Triết Bác Ái. Nhiệm vụ của em trong kiếp này là triển khai điều đó để qua kiếp sau, em có một thể tình cảm thuộc Cung 2. Khả năng tiến tới mặc kệ mọi chướng ngại để thực thi lý tưởng là sở trường của em và cứu cánh sẽ đưa em đến mục tiêu. Trong lúc này sự khó khăn vất vả lớn nhất của em là Thể Trí thuộc Cung 5. Phải vậy chăng .
Em có một thể xác thuộc Cung 3 ( tức la Cung hoạt động giải trí thích nghi ) hầu hết bị kiềm chế từ bên trong Thể Trí thuộc Cung 5. Một lần nữa, em lại thấy tác động ảnh hưởng của Cung này trong cơ cấu tổ chức thực chất của em dưới đây :
Chân ngã thuộc Cung 3 : Hoạt động thích nghi
Phàm ngã thuộc Cung 6 : Sùng tín
Thể Trí thuộc Cung 5 : Khoa học thực nghiệm
Thể tình cảm thuộc Cung 6 : Sùng tín
Thể Xác thuộc Cung 3 : Hoạt động thích nghi
Sự nghiên cứu và phân tích này hoàn toàn có thể soi sáng cho yếu tố của em và em sẽ nhận thấy sự điển hình nổi bật của Cung 3 và cung 6 .

Tháng Giêng, 1938
Trước đây tôi có chỉ em biết quan điểm của tôi khi nhận xét năng lực và bước tiến của toàn nhóm, và trên góc nhìn đó, tôi lấy làm hài lòng về sự tân tiến của em. Trong vài năm qua, tôi đã nhiều khi nói với em một cách quang minh và cứng cỏi. Tôi đã cố gắng nỗ lực trui rèn cho em có một phản ứng lớn lao hơn so với sự thôi thúc của Chân Ngã và loại trừ hai yếu tố ngăn chận sự tiếp xúc tự do giữa Chân Ngã và Phàm Ngã. Tôi vẫn luôn luôn gợi ý chứ không khi nào ra lệnh vì mục tiêu của tôi luôn luôn là khêu gợi sự hoạt động giải trí của Chân Ngã và do đó mới thật là một sự vâng lời chân chính. Những yếu tố đó là gì ?
1 ) Sự hoạt động giải trí của em tuy hoàn toàn có thể được quân bình, nhờ bởi công việc làm tập thể trong nhóm, nhưng có một tác động ảnh hưởng, khép chặt và không khích động được những thế lực tối thượng của Chân Ngã. Em đã cố gắng nỗ lực cứu vãn thực trạng này và nâng nhịp điệu chung lên cao hơn, nhưng một đệ tử đơn độc rất khó mà đảo ngược sự rung động của cả một nhóm đã có sự tích hợp can đảm và mạnh mẽ về phương diện xúc cảm. Em biết tôi muốn nói gì chăng ?
2 ) Em có khuynh hướng hay bị thối chí ngã lòng. Điều này em đã thắng được bằng cách giữ lòng thanh tịnh và bằng một thái độ kiên tâm phụng sự. Tuy nhiên nó làm cho cuộc sống em thêm phức tạp và đồng thời nó cũng là một yếu tố giáo dục tâm linh quan trọng .
Kinh nghiệm sống của em đã đem lại cho em những hiệu quả tốt đẹp. Em sẽ bước vào chu kỳ luân hồi tới đây với rất nhiều bào học quý giá khác nữa vì em đã có thời cơ thanh toán giao dịch nhiều mối duyên nghiệp trần gian trong kiếp sống hiện tại. Vậy kiếp nào đem lại cho em những quyền lợi nào ?
Trước hết là sự chuyển hướng trọng tâm cuộc sống từ viêc làm hữu vi ngoại tại đến nhận thức những Chân Lý Vô Vi Nội Tại. Để triển khai điều đó, em đã đầu thai kiếp này vào trong những môi trường tự nhiên thu hẹp và có số lượng giới hạn để tránh cho em khỏi bị ảnh hưởng tác động điệu đàng của sự vật ngoại cảnh, nhờ đó em hoàn toàn có thể tập trung chuyên sâu niềm tin vào những Chân Lý ẩn vi nội tàng. Em đã tích lũy được nhiều quyền lợi nhờ những kinh nghiệm tay nghề này, và chuyển hướng cuộc sống em đã được củng cố vững vàng trên một nền tảng đúng đắn. Em chỉ còn phải làm một kiểm soát và điều chỉnh quan trọng và một quyết tử lớn lao. Như em đã biết, yếu tố của em là triển khai sự kiểm soát và điều chỉnh đó .
Điều thứ hai, em đã chuyển thể tình cảm của em lên những hoạt động và sinh hoạt thanh cao hơn, và đã thành công xuất sắc đến mức làm cho sự xúc cảm bén nhạy của em so với kẻ khác nay đã trở thành một lợi khí hữu hiệu trong việc làm phụng sự. Tôi muốn em hãy phát sinh sự nhạy cảm này đến một mức độ có ích lớn lao hơn nữa bằng phương pháp động bí huyệt tim và tăng gia sự quan tâm đến những con đường mở tâm. Vì mục tiêu đó, em hãy suy gẫm sâu xa về lời huấn thị cá thể này và hãy vận dụng ngặt nghèo cho đến khi có lệnh mới .
Điều thứ ba, trong kiếp này em đã rời khỏi quy trình tiến độ dự bị để bước vào con đường đệ tử chính thức và đã tân tiến khả quan trên con đường này. Sự khẩn trương của thời đại và sự cố gắng công phu của em đã đưa em tiến xa trên con Đường Đạo và tôi nghĩ rằng em đã nhận thức được điều này mà đôi lúc chính em cũng phải kinh ngạc .
Sự nhìn nhận những sự kiện ( những sự kiện tâm linh và chủ thể ) là một phần trong công phu rèn luyện thiết yếu của tổng thể những đệ tử. Sự nhìn nhận một điều kiện kèm theo trên cõi vật chất cõi vật chất hồng trần không cần đến sự nhạy cảm yên cầu một công phu tập luyện như vậy .
Năm vừa mới qua không được thuận tiện tốt đẹp so với em. Em đã đau khổ nhiều trong câm lặng mà không ai biết ngoài tôi ra. Tôi đã đứng kề bên em và theo dõi tâm trạng em. Tôi đã ủng hộ ý thức em khi có dịp thuận tiện và có 2 lần tôi đã đem tới cho em sự trợ giúp đáng kể. Em có nhận ra những dịp đó không ? Các đệ tử như em nên tập luyện để ghi nhận những sự trợ giúp tâm linh thuộc loại đó. Bởi vậy tôi muốn vạch rõ cho em thấy những gì tôi định làm. Năm tới tôi muốn em hãy tập luyện giải pháp làm quen với sự rung động của tôi. Sự tập luyện đó đã làm tăng gia sức nhạy cảm của em. Đó là một sự quyền lợi đáng kể và có quyền lợi thật sự .
Tháng 1/1939
Trong những tháng vừa mới qua em đã bận rộn tâm lý với rất nhiều câu hỏi và bị khá nhiều trộn lẫn ý thức. Đồng thời em cũng đã giữ vững lập trường trên con đường mà em đã lựa chọn, và vẫn hợp tác trung kiên với những bạn đồng môn trong nhóm. Tuy nhiên em vẫn bị ảnh hưởng tác động của một hình tư tưởng cũ và quên rằng một trong những trách nhiệm của người đệ tử là tự giải thoát khỏi những hình tư tưởng đó. Hình tư tưởng đó làm cho em mong đợi, yên cầu những hiệu quả huyền diệu. Nó thôi thúc em yên cầu rằng những năm phụng sự trung thành với chủ cùng sự tinh tiến phàm ngã của em phải được tưởng thưởng bằng một sự nhìn nhận và tiếp xúc với một Đấng Cao Cả trong Thánh Đoàn. Em mong ước điều này không phải là để có cảm xúc tự mãn hay vuốt ve lòng tự ái, mà là muốn được sự ân thưởng xứng danh cho những năm khổ công tu luyện và chí thành học Đạo .
Tuy nhiên, hỡi người đệ tử, em đã có được tổng thể những gì em yên cầu, nếu em hoàn toàn có thể ra đó thôi. Em biết tôi là ai ? Và bởi đó, sự nhìn nhận mà em mong ước đã được ban cho em, và em cũng đã được biết rõ những gì mà em đang được sẵn sàng chuẩn bị để triển khai, bởi Chân Ngã của em, bởi tôi và xuyên qua công tác làm việc tập thể đã lựa chọn. Tuy vậy, với toàn bộ những điều đó, em vẫn không vui và không tìm thấy sự an tịnh. Nếu em không nhận thấy thực sự trong lời nói của tôi, em hãy suy gẫm lại ít lâu và sự giác ngộ sẽ đến với em .
Công tác tập thể không phải là dễ làm so với em. Đối với từng người Anh thật khó mà dứt bỏ những thành kiến vương quốc, cũng như so với tổng thể những vương quốc tân tiến. Tuy nhiên, trong việc làm này, và ở vào quá trình ý thức tâm linh của em, sự hợp nhất phải thắng đoạt óc phân ly cách biệt. Em phải nỗ lực đạt tới điều đó, vì đặc thù then chốt của em là sự tin chắc rằng toàn bộ mọi người đều là bạn bè. Đó là một điều dễ nói nhất và dễ nhớ nhất trên kim chỉ nan, nhưng khó biểu lộ nhất trong đời sống sôi động của mình .
Tôi đã mất nhiều thì giờ để xem xét những cung quản lý những góc nhìn và khí thế khác nhau của mỗi đệ tử trong nhóm và tôi tin rằng sự nghiên cứu và phân tích tỉ mỉ những điều tôi nói đã giúp cho mỗi người tự biết mình và hiểu biết những yếu tố khó khăn vất vả của chính mình đúng mực hơn và không thiếu hơn .

Ghi
chú:
Vị đệ tử này không còn làm việc với Chân Sư Tây Tạng nữ, Chân Sư có những
nhận xét như sau:

“ Y đã đạt tới những cao điểm tâm linh trong kiếp hiện tại. Những huấn thị cá thể mà y đã nhận được đã quá đủ cho y suy gẫm và noi theo, không cần ban thêm những huấn thị mới ”

Gửi L.Đ.O

Tháng 11/1937
Em thân mến ,
Sự thành tựu của nhiều người trong nhóm đệ tử như nhóm này là do nhiều nguyên do. Trước hết là do sự liên hệ nghiệp quả giữa những người cùng đồng nguyện vọng và năng lực tâm linh, khiến cho họ hoàn toàn có thể thao tác chung vơ1i nhau thuận tiện trên cương vị một nhóm hay một đơn vị chức năng hợp nhất. Trong những trường hợp này, nhóm cần có một sự tăng trưởng đặc biệt quan trọng để cho mọi hoạt động và sinh hoạt tập thể được đa dạng chủng loại và thâm thúy. Trong những trường hợp khác, có một sự đối sánh tương quan liên hệ nhất định với tôi, bắt nguồn từ những kinh nghiệm tay nghề trong quá khứ, tuy rằng những kinh nghiệm tay nghề này còn ẩn trong tiềm thức. Ngoài ra còn có việc tạo nên một thời cơ mới để huấn luyện và đào tạo cho những người đi trên con đường của người đệ tử. Tất cả những yếu tố này đều có tác động ảnh hưởng quyết định hành động, khiến cho tôi nhu yếu em, một đệ tử, hãy hợp tác với tôi và với nhóm đệ tử của tôi .
Những nguyên do quyết định hành động là do ý muốn và thông cảm sâu xa, em hoàn toàn có thể góp phần một phần đáng kể cho nhóm này và kế đó là một mối liên hệ nghiệp quả rất rất lâu rồi giữa em với tôi. Nguyên nhân ở đầu cuối này, lẽ tất yếu là tôi biết rõ hơn em .
Lúc này việc làm của em là hợp tác với một nhóm đệ tử chuyên lo về việc giải tán, tiêu trừ ảo giác của trần gian. Tôi đã quyết định hành động đưa em vào thao tác trong nhóm đó, do tại em đã tương đối giải thoát khỏi ảo giác ( tôi không nói là giải thoát khỏi những lỗi lầm hay góc nhìn lý trí của ảo giác mà ta gọi là ảo ảnh ). Sự giải thoát này rất hữu dụng cho việc làm của nhóm. Em hoàn toàn có thể suy tư một cách sáng suốt và thường biết rõ tại sao em hành vi mà không suy tính trước, hay không đạt tới một nguyên do chính đáng và khá đầy đủ .
Em là một phụng sự viên có năng lực thao tác trên nhiều lãnh vực phát minh sáng tạo. Em vừa là một họa sỹ, vừa là văn sĩ. Đó có nghĩa là linh hồn em hoàn toàn có thể biểu lộ một cách hữu dụng xuyên qua hai đường lối. Bởi vậy em có hai ưu điểm rõ ràng khả dĩ góp thêm phần vào việc làm phụng sự trần gian, những tính năng như những vận hà, làm khí cụ trung gian để chuyển di ánh sáng, chiếu rọi vào những nơi tối tăm u ám và sầm uất. Tôi muốn nói rõ rằng những phụng sự viên phát minh sáng tạo trên mọi lãnh vực, đều là những người hoàn toàn có thể diệt trừ những loại ảo giác mà trái đất thường bị phụ thuộc. Những ảo giác này vốn tiềm ẩn trong những lãnh vực hoạt động giải trí hư ảo mà con người tạo ra. Em đáng thay chân một đệ tử vốn là một phụng sự viên phát minh sáng tạo đã bị vấp ngã ( một cách thành thật và thiện chí ) trước ảo giác của một “ linh hồn tự do và khoáng đạt ”. Đó là một ý niệm xích míc, nhưng nó chỉ cho thấy người ta quên mất sự kiện rằng khuynh hướng sống cách biệt, cô lập và không dính líu gì với ai, chính là một góc nhìn ảo giác của trần gian. Người đệ tử ấy do đó mà không hề hợp tác với mọi người. Y đặt giá trị của sự tự do cá thể cao hơn mọi hoạt động giải trí tập thể và trong hai năm y đã làm cho nhóm phụng sự nay không đạt tới tác dụng dự tính. Bởi vậy em có chịu nỗ lực hợp nhất với toàn nhóm chăng để cho việc làm được thành tựu mau chóng như đã định .
Để giúp em triển khai điều này, tôi sẽ không giao cho em làm nhiều việc có tính cách cá thể. Tuy nhiên, tôi sẽ chỉ cho em thấy ba Cung quản lý ba loại năng lượng gồm trong thành phần thực chất của em. Như em đã biết, Chân Ngã thuộc Cung 2 và Phàm Ngã thuộc về Cung 4. Sự điều tra và nghiên cứu toàn bộ 5 cung này và những Cung của những bạn đồng môn sẽ chỉ cho em thấy đâu là những điểm đối sánh tương quan, đâu là những chỗ tương sinh, tương khắc và chế ngự và làm cách nào để tìm thấy sự thông cảm mau chóng và hợp tác thuận tiện với những bạn Đạo .
Thể Trí của em thuộc Cung 4, là cung điều hòa trong xung khắc ( Dịch lý nói có khắc mới có Sinh, LDC ) nó làm cho em có sự uyển chuyển ý thức đối sánh tương quan và mau hiểu thực sự. Em luôn luôn dễ bị mắc kẹt trong ảo ảnh hơn là ảo giác. Cung điều hòa trong xung khắc này là cái cầu giao thông vận tải, nó sẽ giúp cho em thực thi ngày càng mau chóng hơn, sự tiếp xúc giữa linh hồn với phàm ngã .
Thể tình cảm của em thuộc Cung 2, nó đem đến cho em những khó khăn vất vả và thời cơ tốt đẹp, cứu cánh sẽ giúp em tăng trưởng tâm thức và có sự nhạy cảm so với tâm linh của kẻ khác, điều này vốn là cơ bản của đa số những khu công trình mỹ mãn nhất của em .
Thể xác của em thuộc Cung 7, nó làm cho em có một ý thức đối sánh tương quan giữa ý thức và vật chất, giữa linh hồn và thể xác, và nếu em muốn nó sẽ giúp cho em trở thành một khí cụ hữu hiệu trong mọi công tác làm việc huyền thuật ( magic ). Bởi vậy thực chất em như sau :
Chân ngã thuộc Cung 2 : Minh Triết, Bác ái
Phàm ngã thuộc Cung 4 : Điều hòa trong xung khắc
Thể Trí thuộc Cung 4 : Điều hòa trong xung khắc
Thể tình cảm thuộc Cung 2 : Minh Triết, Bác ái
Thể Xác thuộc Cung 7 : Nghi thức tế lễ hay huyền thuật
Em thấy rõ rằng trong thực chất của em, năng lượng trội nhất là Cung 2 với năng lượng biểu lộ nhờ vào của nó là Cung 4. Đó là một ưu điểm rõ ràng và một thời cơ tốt đẹp, nhưng nó hoàn toàn có thể đưa đến một vài khuyết điểm. Sự khuyết điểm này phải được hóa giải bằng việc tăng cường toàn bộ những khuynh hướng thuộc Cung I để hoàn toàn có thể đem lại sự quân bình thiết yếu. Đừng để cho ảo giác của trần gian thắng đoạt được em và hãy coi chừng đừng bị hấp dẫn vào cơn trốt sợ hãi và bi quan, nó bao trùm nhiều người trong thời đại hiện tại .
Như tôi đã nói trước đây, em được tương đối thoát khỏi ảo giác nhưng những lực lượng ảo giác ngày này can đảm và mạnh mẽ đến nổi toàn bộ những đệ tử nhất định phải có giải pháp tự vệ. Đối với em sự tự vệ đó là dưới hình thức một việc làm có tính cách phát minh sáng tạo. Điều này trở nên thuận tiện hơn so với em, do bởi sự kiện Phàm ngã và thể trí của em cùng thuộc 1 cung giống nhau và cũng chính bới chân ngã của em tập trung chuyên sâu nơi thể dĩ thái nên nó hoàn toàn có thể kêu gọi thể xác làm mọi hoạt động giải trí phát minh sáng tạo thiết yếu tùy ý muốn .
Một trong những điều mà tổng thể những đệ tử phải tập thực hành thực tế là sử dụng những năng lượng và sức mạnh mà họ chiếm hữu do bẩm sinh thiên phú. Tuy nhiên, năng lượng và sức mạnh đó ít khi được dùng đến một cách ý thức bởi một người trung bình, dù nam hay nữ. Họ thường là nạn nhân chứ không phải là người biết dùng những quyền lực đó. Ít người biết rằng những năng lượng mà họ hoàn toàn có thể sử dụng tùy ý muốn, vốn thật là vô cùng huyền diệu .
Ghi chú : Người đệ tử này vẫn còn hợp tác tích cực với Chân Sư Tây Tạng .

Gửi J.A.C

Tháng 12, 1937
Em thân mến ,
Tiếp xúc với những linh hồn thuộc Cung I ví dụ điển hình như em, hay những linh hồn hoạt động giải trí xuyên qua những phàm ngã thuộc Cung I, tôi luôn gặp phải sự khó khăn vất vả trước nhất là đặc thù độc lập đơn độc của họ. Đối với loại người đó, thật không dễ gì hợp tác hòa mình với sự gợi ý tập thể, nhịp điệu tập thể hay kỷ luật tập thể hay với sự hoạt động giải trí hợp nhất hàng loạt, vốn là mục tiêu chung của tổng thể những nhóm đệ tử. Thái độ bên trong của họ thường hòa hợp với mục tiêu và lý tưởng chung, nhưng còn sắc thái bên ngoài, tức con người sức khỏe thể chất của họ vẫn không hề dung hòa và không muốn dung hòa. Nếu em không có một phàm ngã thuộc Cung 2, em sẽ thấy khó thao tác trong Đạo Viện của tôi. Nhưng đặc thù Cung 2 của em, một đặc tính rất trội và mẫu sản phẩm của một loạt nhiều kiếp đầu thai trong thể xác thuộc Cung 2, hoàn toàn có thể làm cho em trở thành một trong những điểm tập trung chuyên sâu cho việc làm mà tôi dự tính dành cho nhóm đệ tử này .
Phải mất đến nhiều năm để đem lại sự hòa hợp giữa những đệ tử trong nhóm với nhau để hoàn toàn có thể triển khai những công tác làm việc hữu hiệu, tạo nên sự tổng hợp bên trong và giống hệt cố gắng nỗ lực. Chừng đó, tôi sẽ đưa ra cho những đệ tử làm một vài việc nhất định, nó sẽ hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng đến những lực lượng chỉ huy quốc tế một cách tế nhị và không ai hoàn toàn có thể nhận ra được. Những việc làm ấy tất cả chúng ta sẽ bàn rộng thêm về sau này, khi đã triển khai được sự tổng hợp và thông cảm thiết yếu. Em đừng vội khám phá tôi muốn nói đó là việc làm gì. Có nhiều điều cần phải làm, học hỏi và lý giải trước khi việc làm ấy hoàn toàn có thể đem lại tác dụng. Có nhiều nhóm đệ tử thao tác dưới sự tinh chỉnh và điều khiển của những Chân Sư, em đã từng chịu giảng dạy trong nhiều năm để chuẩn bị sẵn sàng chuẩn bị sẵn sàng thi hành trách nhiệm. Những ý niệm mới và kỹ thuật mới về văn minh trái đất và công tác làm việc tập thể tương thích với KỶ NGUYÊN MỚI đang lần lần Open trong tâm thức của nhiều đệ tử trên trần gian .
Hỡi đệ tử, em đang bước vào một quá trình trong cuộc sống của người tu sĩ chân chánh, tức là người đã nhẹ gánh nợ trần để hoàn toàn có thể sử dụng những kinh nghiệm tay nghề kỹ năng và kiến thức và minh triết đã thâu thập được trải qua bao nhiêu kiếp công phu tu luyện, vào việc tích cực phụng sự Thiên cơ và phụng sự Nhân loại. Bây giờ em đã hoàn toàn có thể sống cho kẻ khác và tìm thấy trong việc làm của tất cả chúng ta cái phần thương, sự thú vị và bù trừ xứng danh cho toàn bộ những sự tranh đấu tâm linh khó khăn vất vả, nhọc nhằn trong quá khứ. Mục đích cuộc sống em từ lâu nay vẫn là phụng sự, chính bới em đã thương mến đồng loại và chiến đấu để giữ gìn tình thương nhân loại trước bao nhiêu nỗi tuyệt vọng chán chường vì sự ích kỷ thường thì của trần gian. Em có khuynh hướng hay cảm thấy mọi sự đều không có ý nghĩa và mọi nỗ lực chỉ là vô ích khi phải đương đầu với cơn hỗn loạn của quốc tế lúc bấy giờ và trước sự bi quan thống khổ của trái đất. Em còn phải nỗ lực thay thế sửa chữa thực trạng này .
Một trong những chướng ngại che ám cuộc sống em và làm cho em không hề phụng sự trần gian một cách toàn vẹn khá đầy đủ hơn là sự tự tiếp xúc mặc cảm quá nặng. Khuynh hướng này tuy không làm hỏng những khu công trình hoạt động giải trí của em, nhưng cũng đã ngăn chận bước tiến của linh hồn và làm mất niềm vui sống, là cái ấn chứng tốt đẹp cho người đệ tử. Em có sự nhạy cảm tốt và hiểu biết những yếu tố nhân gian thế sự một cách thâm sâu hơn một người trung bình, nhưng cái nhãn quang và kỹ năng và kiến thức thâm sâu ấy lại làm cho em có khuynh hướng cảm thấy tính cách nhỏ bé và không có ý nghĩa của chính bản thân mình .
Điều này lại song song với ý thức cho rằng mọi sự đều không có ý nghĩa, như tôi đã nói ở trên, tôi phải đương đầu với thực trạng trái nghịch ở xung quanh. Chính trên địa hạt này mà phải chiến đấu với phàm ngã. Bởi vậy tôi khuyên em hãy nỗ lực thực thi một sự tiếp xúc ngặt nghèo hơn với Chân Ngã để loại trừ mặc cảm tự tiếp xúc và hãy vun trồng một thái độ chung sống, yêu đời để hoàn toàn có thể hiến dâng khá đầy đủ toàn vẹn hơn cho việc làm phụng sự. Em khởi sự công phu trên hai điểm gợi ý này chăng và nọi theo lời khuyên của tôi trong nhiều năm để vừa trợ giúp cho việc làm của nhóm, lại vừa tự giúp mình .
Để giúp em trong yếu tố này, tôi chỉ cho em một phép công phu rất giản dị và đơn giản … Tôi đang chuẩn bị sẵn sàng cho em sẵn sàng chuẩn bị nhận lãnh công tác làm việc trong tương lai .
Ghi chú : Người đệ tử này không thật sự phân phối lời lôi kéo hợp tác trong nhóm của Chân Sư. Tuy y tỏ ra thú vị điều tra và nghiên cứu những bản huấn thị cá thể, nhưng công tác làm việc triển khai của y không có gì, ngoài việc học hỏi về kim chỉ nan .

Gửi F.C.D

Tháng 1/1933
Đối với em là một đệ tử thuộc Cung 2, thì thao tác trong sự đơn độc là một điều rất thiết yếu trong quy trình tiến độ này đương nhiên là em còn có những điểm yếu kém của người thuộc Cung 2 còn quá thiết tha, dính líu với người chung quanh. Điều này hoàn toàn có thể sửa chữa thay thế nếu em giữ vững tư thế như một linh hồn chứ không lấy tư thế phàm ngã trong việc xử sự với mọi người trong vòng mái ấm gia đình hay trong việc làm phụng sự ở trần gian. Em phải nhớ rằng cách xử sự đó là đối sánh tương quan, liên hệ giữa những linh hồn, chứ không phải giữa những sắc thái hữu hình, hữu hoại. Bởi vậy em phải sống tách rời khỏi những phàm ngã của thiên hạ, vẫn phụng sự, giúp sức họ nhưng phải luôn luôn sống với tâm thức chân ngã. Sự thi hành bổn phận một cách toàn vẹn và dứt bỏ mọi trói buộc của phàm ngã sẽ giúp em được tự do để phụng sự một cách toàn vẹn hơn .
Em hãy dứt bỏ sự chú trọng quá đáng đến cuộc sống của những người thân yêu, có dính líu với em do những mối liên hệ nghiệp quả, hoặc những người mà em tiếp xúc trong đời sống hàng ngày. Em hãy đi con đường của mình một cách gan góc và thầm lặng, và thao tác do sự thôi thúc nhu yếu của linh hồn. Đừng để cho những tiếng gọi thấp thỏi hơn của những người thân yêu làm cho em tách rời khỏi con đường phụng sự. Bây giờ em đã thuộc về Thế gian chứ không thuộc quyền sở hữu của một vài người thân trong gia đình. Đó không phải là một bài học kinh nghiệm thuận tiện, nhưng tổng thể những đệ tử có ngay phải học bài ấy và đó là một bài học kinh nghiệm đích đáng của em trong lúc này .
Tiếng gọi thiêng liêng đã được đưa ra cho những người phụng sự và toàn bộ những đệ tử đã cam kết hiến dâng phải là những người tiên phong phân phối lời lôi kéo ấy. Điều này yên cầu một sự quyết tử. Nhưng chúng tôi tin yêu em là người hoàn toàn có thể làm được việc đó .
Tháng 1-1935
Em thân mến ,
Trong một huấn thị trước đây, tôi có tiên liệu rằng việc làm phụng sự của em đã tăng trưởng lần lần, và nay em đã thấy rõ là điều ấy đã được thực thi. Trong năm qua em đã có nhiều cuộc tiếp xúc và đã tăng gia ảnh hưởng tác động của em một cách to lớn hơn trong xứ và khắp quốc tế. Những điều em đã quyết định hành động và kỷ luật mà em tự nguyện noi theo sẽ định đoạt tầm mức và quy mô của việc làm mà em hoàn toàn có thể làm trong tương lai. Mọi sự đều do nơi sự quyết đoán và năng lực kiểm soát và điều chỉnh khôn khéo của em .
Hãy kiên tâm thực hành thực tế công phu thiền định mà em đang theo dõi. Hãy thiền định liên tục về ý chí, một ý chí phụng sự tích cực và đầy tình thương. Chính việc sử dụng ý chí là điều quan trọng so với đệ tử vì một ý chí được tinh chỉnh và điều khiển đúng phép là một yếu tố kiềm chế năng lượng, và người đệ tử là người hoạt động giải trí trong cõi giới năng lượng. Công việc phụng sự của em là việc của người hướng dẫn và gây niềm cảm hứng. người đệ tử thuần thục ở Cung 2 thường không phải là người chỉ huy tốt, trừ phi y có một cung phụ thuộc vào biểu lộ thực chất đó .
Công việc chỉ huy và tổ chức triển khai không phải là của em. Em phải tập thao tác cùng với kẻ khác, gây cho họ có ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm và thôi thúc họ hoạt động giải trí. Do thế lực phóng quang từ lực từ bên trong, em phải khuyến khích và nâng cao ý thức những người công tác làm việc .
Nhiệm vụ cấp thời của em là tìm ra những người phụng sự đúng đắn và trợ giúp nguồn cảm hứng cho họ. Tôi sẽ không giúp sức em được bao nhiêu mà chỉ số lượng giới hạn em trong việc làm của tôi, nếu tôi nói với em rằng : người nọ hay người kia cần được tiếp xúc hoặc là : đây là người mà tôi tiên liệu rằng sẽ cộng tác đắc lực trong việc làm kiến thiết xây dựng của KỶ NGUYÊN MỚI mà những Đấng Cao Cả lúc bấy giờ đang trù liệu kế hoạch. Em phải tập luyện đức phân biệt, thông cảm và lựa chọn đúng đắn qua sự triển khai, thành công xuất sắc và thất bại. Tất cả mọi người đều là những linh hồn. Thật vậy, nhưng tổng thể mọi người chưa phải đã chuẩn bị sẵn sàng phụng sự một cách vị tha, vô kỷ. Đối với em, sự phán xét đúng đắn là một đức tính thuần khiết để chọn người. Trong sự tinh lọc này em không nên tìm những người nhu nhược hiền lành, mềm mỏng và dễ thương và đáng yêu, chính bới những người rất tốt đẹp lại thường là người thiếu mưu trí và lười biếng. Em hãy chọn những linh hồn quả cảm, vừa ứng đáp với nhu yếu của quả đât do bởi động lực của tình thương, lại vừa dũng mãnh tinh tiến, dám hành vi cương quyết táo bạo và không tiêu tốn lãng phí thời giờ với những mộng mơ, không tư tưởng hảo huyền như một tu sĩ thần bí cảm nhận một lý tưởng, nhưng không biết sử dụng ý chí để dung hòa những ý niệm tốt đẹp viễn vông với nhu yếu thực tiễn, khẩn cấp trong hiện tại. Em hãy chọn những người không giống em về đặc thù của Cung 2, nhưng đặt trọn niềm tin vào tình thương nơi họ vì họ phân biệt sự minh triết cùng sự liên hệ bên trong của em với Thánh Đoàn và lệ thuộc vào kinh nghiệm tay nghề cùng sức mạnh ý thức của em. Nói tóm lại, em hãy chọn những linh hồn cương nghị, dũng mạnh để tập thao tác chung với họ. Hãy tìm những linh hồn hoàn toàn có thể cộng tác với Thiên cơ .
Tôi đã nói với em rất tỉ mỉ về yếu tố này vì việc làm hợp tác, thiết kế xây dựng của em hoàn toàn có thể mở màn ngay từ giờ đây. Nói cách tượng trưng : Hãy tìm những kẻ đã mở cả tâm lẫn trí, những người mà trên trán họ chói lòa cái hình tượng ngôi sao 5 cánh thần bí của nhà thiết kế xây dựng .
Tôi ước mong sao em hoàn toàn có thể hợp tác một cách toàn vẹn hơn trong việc làm của Thánh Đoàn và khởi đầu một mối liên hệ đối sánh tương quan mật thiết với những nhà thiết kế KỶ NGUYÊN MỚI trong tương lai .
Tháng 12,1935
Em thân mến ,
Trước đây, tôi có cho em biết rằng đặc thù quá nhạy cảm của em gây nhiều khó khăn vất vả cho em trong những hoạt động giải trí TGCC và trên phương sức khỏe thể chất. Tôi biết rõ tổng thể những nỗi khổ đau của em gần đây. Cuộc đời em trong 6 tháng qua thật là khó khăn vất vả cực nhọc vì em đồng nhất rất thuận tiện với toàn bộ những gì xảy ra xung quanh .
Con đường của những Đấng Cứu Thế luôn luôn là con đường khó khăn vất vả, chướng ngại, đầy rẫy những đau khổ cả về thể xác lẫn niềm tin. Đó là con đường mà em đã chọn. Vậy em nên nhớ rõ điều đó để hoàn toàn có thể bền gan chịu đựng. Em nên biết rằng trong đời người đệ tử có những kiếp sống nhằm mục đích vào việc chuẩn bị sẵn sàng hành trang ( sức khỏe thể chất lẫn niềm tin ) làm mục tiêu chính. Kế đó, đến những kiếp khác, những hành trang đã được chuẩn bị sẵn sàng sẵn mới đem ra sử dụng. Đối với em, kiếp sống hiện tại có mục tiêu tăng trưởng cơ năng ứng đáp về giao cảm bén nhạy. Em đang tăng trưởng mau chóng thế lực ý thức và thông cảm với nỗi đau khổ của trần gian. Nhưng đó chỉ là một quá trình. Chỉ có những linh hồn dũng mãnh mới biết được những nguồn gốc của sự khổ đau vốn tiềm ẩn sâu xa trong cõi trần gian. Nhưng đó chỉ là một tiến trình. Chỉ có những linh hồn dũng mãnh mới biết được những nguồn gốc của sự khổ đau vốn tiềm ẩn sâu xa trong cõi trần gian tương đối vô thường .
Đối với em trong thời điểm tạm thời trong lúc này, hãy nên có một sự tách rời tự nhiên không gượng ép và nỗ lực đừng chú ý đến những sự vật ngoại cảnh hoàn toàn có thể làm cho em động lòng ưu tiên và trắc ẩn. Hãy tập sự buông thả vô tư thiêng liêng này trong 6 tháng tới đây. Hãy lo phân phối những nhu yếu cấp bách của quả đât, triển khai những gì tôi đã gợi ý về công tác làm việc phụng sự tập thể, suy gẫm sâu xa về kế hoạch của Thiên cơ, và việc làm của nhóm người mới phụng sự trần gian. Hãy kiên tâm tiến triển trên đường Đạo .
Ghi chú : Dưới những điều kiện kèm theo rất khó khăn vất vả, người đệ tử này vẫn kiên tâm phụng sự dưới sự chỉ huy của Chân Sư K.H. và hợp tác trong nhóm của Chân Sư Tây Tạng .

Gởi J.W.P.

Tháng 11, 1935
Em thân mến ,
Em đang bước vào thời kỳ hoạt động giải trí ráo riết nhất trong đời em, và đến năm 40 tuổi việc làm của em có đường hướng nhất định và rõ ràng đến mức làm cho em nhìn thấy Thiên Cơ một cách rõ ràng hơn nhiều .
Công việc của em trong những năm tới đây sẽ là hợp tác với Nhóm Người Mới Phụng sự trần gian, và tổ chức triển khai tài chánh để sử dụng trong công tác làm việc của họ. Công việc như đang thành tựu ở cõi trần lúc bấy giờ, trước hết phải nhắm vào mục tiêu nâng cao tâm linh của những kẻ tri thức trên quốc tế, và sau đó là sự nâng cao ý thức của quần chúng xuyên qua giới tri thức nói trên .
Công việc của em phần đông sẽ là tuyển chọn và đào tạo và giảng dạy những người có triển vọng hợp tác. Những kẻ phụng sự sẽ lần lần được lôi cuốn đến Anh Quốc và Âu Châu. Giáo lý xuất phát từ Châu Mỹ. Nhưng Âu Châu là cứ địa để giáo dục trần gian những ý niệm về sự thống nhất quốc tế thật sự và để trình diễn Thiên Cơ một cách khôn khéo. Từ lục địa, nguồn cảm hứng hoàn toàn có thể lan tràn sang Đông Phương và Mỹ Châu ở phương Tây .
Em hãy thực thi việc làm này một cách can đảm và mạnh mẽ và không hấp tấp vội vàng. Hãy dung hòa những giải pháp khôn khéo của những tổ chức triển khai lúc bấy giờ với triển vọng của những loại công tác làm việc mới. Đó là một việc làm tâm linh mà em đang đảm nhiệm, nó có tính cách giáo dục với mục tiêu thông dụng những nguyên tắc quản lý sự hoạt động và sinh hoạt và thái độ của người trần gian trong Kỷ Nguyên Mới sắp đến .
Trong việc trình diễn công tác làm việc của Nhóm Người Phụng sự Thế gian, vài kế hoạch tiếp cận và rõ ràng hoàn toàn có thể được nêu ra, ví dụ điển hình như việc giáo dục dư luận quần chúng những nguyên tắc bất phân ly. Nhưng muốn làm được điều đó, cần phải thiền định thâm sâu và có những tư tưởng rõ ràng .
Những giải pháp vận dụng để khêu gợi sự thú vị và sự ủng hộ thiết yếu của quần chúng, sẽ do những đệ tử và phụng sự viên Âu Tây quyết định hành động lấy chứ không phải tôi, là người Phương Đông. Tôi chỉ hoàn toàn có thể khích động linh hồn em cho em cósự thụ cảm sáng suốt, khôn ngoan, thông cảm chân thực và phong cách thiết kế đúng đắn. Kỳ dư việc làm và sự thực kế hoạch là do tự tay em và những người hưởng ứng với những ý niệm đưa ra. Về sự tăng trưởng tâm linh và tu luyện cá thể của em tôi chỉ hoàn toàn có thể khuyên em hãy thực hành thực tế công phu thiền định mà tôi đã chỉ dạy trong một buổi huấn thị trước đây .

Tháng 1-1936
Em thân mến ,
Mỗi cơ cấu tổ chức toàn hảo phải hàm súc những yếu tố sinh khí và thế lực bộc lộ năng lượng BA NGÔI của Thượng Đế. Nó cũng phải có những vận hà cho bốn loại năng lượng thiêng liêng khác hoàn toàn có thể tự biểu lộ. Cơ cấu này hoàn toàn có thể được đáp ứng bởi những đệ tử thuộc 7 Cung đã nêu ra trước đây, hoặc bởi những đệ tử xuất sắc ưu tú có khá đầy đủ những đức tính khiết bạch hiến dâng để tiếp đón mọi năng lượng mà Thánh Đoàn hoàn toàn có thể ban rải cho một tổ chức triển khai hay cơ quan mà họ đảm trách. Nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN là một cơ cấu tổ chức tăng trưởng mau lẹ, nó phải được gìn giữ cách nào để cho đừng bị khép chặt trong một tổ chức triển khai cứng ngắc khô khan. Tuy nhiên nó phải tự biểu lộ xuyên qua toàn bộ 7 Cung trong THIÊN CƠ. Vì em đã lựa chọn con đường phụng sự và được đáp ứng thời cơ tốt đẹp này, em và những bạn đồng sự có trách nhiệm đúng đắn đến phần hình thức ngoại tại của nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN. Sau khi hoàn thành xong quá trình chuẩn bị sẵn sàng sơ khởi, những gì đã được thực thi về cả hai mặt chủ thể và khách thể sẽ đem lại những hiệu quả nhất định để bảo vệ cho những đường lối, chủ trương và hoạt động và sinh hoạt tương lai được tương đối vững chải và không hề dời đổi. Đó là nghĩa vụ và trách nhiệm cần phải thi hành .
Tuy nhiên việc làm cũng rất phức tạp chính do nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN trong đó vài Đạo sinh và vài vị đệ tử mà em không hề biết được điều gì về tung tích của họ. Họ cũng đang tích cực hoạt động giải trí dưới sự thôi thúc của những nguồn cảm hứng mới này thường không ý thức về vai trò của họ là những người hợp tác với một kế hoạch thiêng liêng .
Bởi vậy, em và những thành viên khác trong nhóm đệ tử phụng sự của tôi, cần phải cẩn trọng so với những yếu tố mới và những người cùng có một trách nhiệm như những em, phát động những hoạt động và sinh hoạt tập thể mới vận dụng những kỹ thuật mới và có những thái độ tác phong mới. Do đó, cần có một thái độ cảnh tỉnh nội tâm và ấn tượng chung của toàn nhóm, mà cũng nhận thức được lời nói của những kẻ được lôi cuốn vào mọi nhóm người phụng sự mà em thừa nhận do bởi cùng đồng chung mục tiêu, cùng có một thái độ và một giải pháp hành vi giống nhau. Điều này thật ra không phải dễ. Hãy nên nhớ rằng đây là một nghĩa vụ và trách nhiệm tập thể. Nhiệm vụ của em là đạt tới một sự phản ứng bén nhạy hơn so với ấn tượng tâm linh và so với những động cơ thôi thúc tập thể của nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN. Khi em càng lần hồi thực thi việc làm này, thì chừng đó em sẽ thấy rõ giải pháp chân chính để tiếp xúc với những người cộng tác trong nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN, những cánh cửa thiết yếu sẽ lan rộng ra và giải pháp đúng đắn để khêu gợi sự thú vị với việc làm sẽ hiển hiện rõ ràng. Công việc trên, những cõi trên đã hoàn thành xong và chỉ còn phải làm cái việc thức tỉnh trí óc nhận xét khách quan của những người cộng tác nói trên .
Còn một điểm khác mà tôi cần nói với em. Em có sự khuynh hướng đúng đắn so với việc làm của Thiên Cơ, em cũng có Minh Triết và năng lượng sung mãn .
Tuy nhiên, hãy bảo toàn năng lượng và nhớ rằng sự nghỉ ngơi vừa phải cũng góp thêm phần vào việc phụng sự như sự sốt sắng hoạt động giải trí ráo riết không ngừng. Một đời sống phụng sự phải được có đặc thù quân bình, mực thước giữa sự hoạt động giải trí và nghỉ ngơi dưỡng sức để rồi sẽ liên tục hoạt động giải trí trở lại tiếp tục .
Tháng 6,1936
Em thân mến ,
Em đang sửa soạn bước vào một quy trình tiến độ hoạt động giải trí mới cùng với nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN. Nên nhớ rằng mọi khu công trình phát minh sáng tạo đều diễn tiến theo nhịp điệu tuần hoàn. Nhịp điệu của nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN là một chu kỳ luân hồi 3 năm và em cũng sẽ hoạt động giải trí theo cái nhịp điệu đó. Một chu kỳ luân hồi khác mà tất cả chúng ta sẽ bước vào với những công tác làm việc dồn dập mỗi lúc càng nhiều sẽ đến vào tháng 5, năm 1939. Một chu kỳ luân hồi thứ ba sẽ đến vào tháng 5, 1942. Em hãy nhớ rõ những năm tháng đó để đặt kế hoạch cho tương lai. Như vậy em sẽ thao tác theo định luật và thuận theo trào lưu .
Nhiều người trong những vương quốc khác ở rải rác khắp quốc tế, có một việc làm đặc nhiệm phải làm chính do họ có liên hệ công tác làm việc tích cực với nhóm NMPSTG. Ho chưa tiếp xúc với em hay với người khác trong nhóm đệ tử riêng của tôi. Em và những người khác trong nhóm phải tập nhận diện ra họ. Bất cứ chỗ nào có sự thừa nhận nguyên tắc thao tác vô tư và thiện chí. Em hãy ban bố sự trợ giúp và dùng thời giờ một cách thoáng rộng, tự do. Hãy đưa ra một bàn tay thân thiện. Nơi nào có sinh khí, đất lành và được giao cùng một loại hột giống thì chừng đó một loại hoa đẹp giống nhau sẽ mọc lên khắp nơi ở tổng thể mọi xứ trên quốc tế …
Người đệ tử này vẫn còn đang tích cực hợp tác trong việc làm của Chân Sư Tây Tạng .

Gửi : I.A.P.

Tháng 6, 1938
Em thân mến ,
Những năm vừa mới qua so với em là một thời kỳ hoạt động giải trí phụng sự ráo riết, một tiến trình khắc kỷ, khó khăn vất vả và khổ nhọc đi kèm với nhiều sự trộn lẫn cả về bên ngoài lẫn bên trong. Điều này em đã nhận thấy rõ. Em hoàn toàn có thể được an ủi và khuyến khích nếu em nhận thức rằng trên phương diện tâm linh nội tại, điều ấy cũng được biết đến và không có gì mất đi đâu, cũng như không hề có sự tiêu tốn lãng phí thời giờ. Đối với em, đó là một tiến trình buông xả và giải thoát, tuy rằng em không biết rõ sự kiện ấy .
Từ năm 1917, tôi đã theo dõi sự tân tiến và thao tác của em. Điều này chỉ cho em thấy rằng, chúng tôi, những người tìm cách trợ giúp và hướng dẫn những đệ tử thao tác một cách tuần tự như thế nào. Tất cả những đệ tử đều phải tân tiến bằng cách đứng vững một mình, tự mò mẫm tìm đường lấy một mình và tự tò mò lấy đường lối cá thể đặc biệt quan trọng của mình trong việc hướng dẫn TT ánh sáng. Họ cũng văn minh bằng cách cung ứng liên tục với tiếng gọi của bổn phận và lý tưởng phụng sự. Tuy nhiên, nay đã đến lúc em hoàn toàn có thể thao tác với một nhãn quang sáng suốt hơn, với sự hợp tác ngặt nghèo hơn với TT Nội tại, và với một tâm trạng ít đơn độc hơn trước .
Nay em đã thuộc về nhóm đệ tử của tôi, và những người đệ tử một nhóm phụng sự viên tinh lọc, sẽ đi sát cánh với em. Về phần tôi, tôi cũng sẽ nhất định tìm cách trợ giúp và tiếp xúc với em một cách thân thiện mật thiết hơn. Trong việc làm mà tất cả chúng ta dự tính hợp tác chung với nhau, tất cả chúng ta sẽ làm một cách trọn vẹn thành thật và cởi mở, không che đậy dấu diếm lẫn nhau, bất kể chuyện gì. Chúng ta sẽ phô bày tổng thể mọi sự thành công xuất sắc, thất bại và khuyết điểm, tất cả chúng ta sẽ cùng nhìn vào những vấn đề đó dưới ánh sáng tỏ rạng đến từ Trung tâm và với sự xuất hiện của tổng thể mọi người trong nhóm. Đó là chiêu thức thao tác của những nhóm đệ tử trong KỶ NGUYÊN MỚI. Mục đích của tất cả chúng ta là trọn vẹn vô tư, chính do chỉ có một thái độ vô tư như vậy mới đem cho ta sự tự do để phụng sự hữu hiệu .
Tôi tiếp xúc với em như một phụng sự viên thành thục đã chứng tỏ lòng nhiệt thành, năng lực phụng sự và chuẩn bị sẵn sàng quyết tử vì kẻ đồng loại. Mục tiêu của tất cả chúng ta hoạt động giải trí tập thể trên cương vị một nhóm cam kết phụng sự trên niềm tin hợp nhất, trong đó, toàn bộ mọi phàm ngã đều chịu phụ thuộc vào mục tiêu chung, vì chỉ có ánh sáng Chân Ngã chiếu rạng cái diệu quang đó sẽ làm sáng tỏ những yếu tố vướng mắc khó khăn vất vả của em, những yếu tố cá thể cũng như tập thể, hoặc những yếu tố vướng mắc khó khăn vất vả, hoặc những yếu tố có tương quan đến nghành thực sự do em đã chọn. Tuy nhiên tôi muốn em quan tâm về hai yếu tố sau đây :
Điều thứ nhất : Trong khi em thao tác phụng sự và nỗ lực để tự luyện em phải tập hướng ngoại một cách đơn cử hơn so với kẻ khác. Em hãy đáp ứng cho họ những thời cơ phụng sự và trợ giúp trong việc làm mà em đang làm, bất luận họ kém cỏi hay lỗi lầm đến bực nào. Hãy suy gẫm về việc này và cố gắng nỗ lực thao tác theo đường lối của Chân Sư, vì đó là phương pháp thao tác của chúng tôi, là những người hướng dẫn quả đât từ góc nhìn nội tàng, ẩn dấu của cuộc sống. Chúng tôi đã đem thời cơ đến cho em, vậy em cũng phải đem thời cơ đến cho kẻ khác .
Điều thứ hai : Đừng dễ bị chán nản, vô vọng quá đáng vì sự vô minh thấp kém trầm trọng của những đám quần chúng mà em nhìn thấy ở chung quanh mình. Bầu không khí tâm linh của những xứ mà em đang hoạt động giải trí để trợ giúp thật rất khác lạ và vô cùng khó khăn vất vả so với những đệ tử hoạt động giải trí hợp tác với chúng tôi, những đại diện thay mặt của Thánh Đoàn. Công việc ấy dễ làm hơn so với những đệ tử trong nhóm X … ( một ngành hoạt động giải trí của Thiên Cơ ). Tuy nhiên, những đệ tử đó không phải ảnh hưởng tác động trên thành phần tri thức thượng lưu trong xã hội hay trên những giới Đạo sinh có tri thức, văn hóa truyền thống. Họ thao tác với đặc thù tâm linh của quần chúng, trong đám tầm trung chất phác, chứ không ảnh hưởng tác động trên cá thể khác biệt. Họ không làm trái với loại người thuộc thành phần đối tượng người dùng của em. Tôi nêu ra điều này do tại tôi biết rõ em hoàn toàn có thể bị tuyệt vọng sâu xa khi phải phân phối với cái ấn tượng tâm linh quá ư thấp kém, trọng trược của đám quần chúng ô tạp. Em hãy gạt bỏ cảm hứng này và nên biết rằng Thánh Đoàn lo trợ giúp những Đạo sinh còn nhóm X có trách nhiệm ảnh hưởng tác động trên đám quần chúng thất học và ngu dốt. Đó là một loại công tác làm việc nhưng phân nhiệm cho những nhóm khác nhau để thao tác trong sự hợp tác và đối sánh tương quan ngặt nghèo …
Tháng 1, 1940
Em thân mến ,
Tôi muốn em chú ý quan tâm rằng rủi ro tiềm ẩn lớn nhất của em trong lúc này là một ảo giác đến với em do hâu quả của một đời sống tâm linh ngặt nghèo, khắc kỷ và tự kiểm thảo quá đáng. Hàng ngày không có ai để trò chuyện và vì ở cách xa những bạn đồng môn, nên em sống rất đơn độc. Trong tư thế của một người truyền giảng và ban phát, em tương đối bị cô lập và tách rời nói về góc nhìn phàm ngã. Điều này đưa đến hậu quả là em đã tạo nên một hình tư tưởng tham vọng và nguyện vọng tâm linh rất can đảm và mạnh mẽ. Nhưng dù sao nó cũng vẫn là một hình tư tưởng, bất luận rằng nó có đặc thù hùng vĩ đến đâu. Hậu quả là nó hoàn toàn có thể đưa đến một ảo giác nặng nề dưới hình thức này hay hình thức khác. Em nên ý thức điều đó để cẩn trọng đề phòng. Hãy nhận ra nó như một vật của tự tạo ra. Nó phải được em khắc chế và trấn áp chứ không phải trái ngược lại. Em sẽ biết là tôi muốn nói gì .
Em hãy vô hiệu ảo giác đó, vì mục tiêu của việc làm phụng sự mà em đã làm một cách rất hữu hiệu cho chúng tôi. Hãy nhận định và đánh giá rằng thời giờ rất hạn chế và chỉ có những việc hữu dụng cho toàn thể mới là nên làm. Sự phát động những kế hoạch mới trong khi thời giờ rất có ảo giác có đặc thù chướng ngại rất lớn .

Ghi
chú
: Người đệ tử này đang cố gắng dưới những hoàn
cảnh rất cô đơn tại một xứ ở Châu Mỹ La Tinh để thi hành công việc của Chân Sư
Tây Tạng và đã thành công mỹ mãn.

Gửi : S.S.P

Tháng 5, 1934
Em thân mến ,
Chúng ta sẽ thao tác chung với nhau trong một thời hạn và tôi muốn trợ giúp em. Mục tiêu tiên phong của em là thiết lập mối đối sánh tương quan thông cảm với những bạn đồng môn và với tôi. Nói về những nhóm đệ tử của những Chân Sư, hay những tổ chức triển khai có dính líu đến những Đạo Viện của những Ngài, ví dụ điển hình những nhóm đang được dự tính xây dựng dưới động lực thôi thúc mới từ cõi trên ban xuống, thì không một nhóm hay tổ chức triển khai nào hoàn toàn có thể hoạt động giải trí hữu hiệu trừ phi có sự thành tâm thiện chí hợp tác với nhau, giữa những đơn vị chức năng gồm thành phần của nhóm. Điều này không phải luôn luôn dễ tìm .
Em đã tự hỏi vì nguyên do nào em đã được lựa chọn trong nhiều Đạo sinh để làm công tác làm việc đặc biệt quan trọng này. Có một phần là vì nguyên do nghiệp qua, 1 nghiệp qua có liên hệ với tôi trên nhiều điểm, một phần do tại ánh sáng nội tàng của em đã được quạt bừng cháy thành ngọn lửa do bởi em đã thi hành bổn phận một cách trung kiên. Điều này bảo vệ rằng ngọn lửa thiêng đó sẽ còn được quạt cháy thêm bởi những vị trong chúng tôi đang tìm tăng cường năng lực phụng sự của em .
Em chưa lưu tâm đến bí thuật chữa bệnh, nhưng nếu muốn, em hoàn toàn có thể chữa bệnh một cách rất hữu hiệu, những mối khổ đau về xúc cảm vốn in sâu trong thể tình cảm, Quyền năng này của em hãy còn tiềm tàng và em chưa biết rõ, nhưng nó hoàn toàn có thể được tăng trưởng để sử dụng một cách có ích. Vài người có thế lực chữa khỏi vài chứng bệnh của thể xác. Vài người hoạt động giải trí trên địa hạt tâm ý và chữa được những bệnh tâm thần. Những người khác ( trong đó có em ) hoàn toàn có thể trợ giúp đó làm cho những thể tình cảm bị bệnh được trở lại trạng thái quân bình. Tôi hoàn toàn có thể dạy cho em bí thuật chữa bệnh này. Nhưng trước hết em còn phải chuẩn bị sẵn sàng dọn mình làm một vân hà sáng sủa tốt đẹp để tiếp đón thần lực thiêng liêng từ cõi trên ban xuống .
Em phải tập trung chuyên sâu tư tưởng vào bí huyệt tim trong ít lâu. Vì mục tiêu đó, em hãy thực hành thực tế công phu thiền định kèm theo huấn thị này trong thời hạn 6 tháng …
Tháng 12, 1936
Em thân mến ,
Một trong những bí nhiệm của đời sống chân chính đang khởi đầu Open trong tâm thức của em là bí nhiệm của sự thực tại. Nó phải thay thế sửa chữa cho sự hành vi. Cuộc đời em đã được sắp xếp theo một thể cách dùng sự hoạt động giải trí làm giải pháp biểu lộ như là đường lối ít chướng ngại nhất. Áp lực của thời cuộc và nhu yếu của quốc tế đã bắt buộc em phải hoạt động giải trí tích cực trong môi trường tự nhiên khá to lớn. Đó là cách mà linh hồn tất cả chúng ta sắp xếp những lối sống cho tất cả chúng ta. Nhưng em cũng cũng đã tuần tự nhận thức rằng trong tư thế “ thực tại tâm linh ” ( hơn là bằng mọi đường lối hoạt động giải trí nhất định nào ) em hoàn toàn có thể biểu lộ những khuynh hướng sâu xa cơ bản của đời mình và biểu dương giá trị của mình so với quốc tế bên ngoài. Điều này là bài học kinh nghiệm cơ bản của đời em và em đang mở màn lãnh hội bài học kinh nghiệm ấy .
Sự phong quang là đặc thù của đời em. Đối với em, mục tiêu cuộc sống là trở nên một vận hà không hơn không kém. Đó là nhu yếu cơ bản mà linh hồn em yên cầu nơi phàm ngã. Tôi tin rằng em đã biết điều đó. Sự tìm hiểu và khám phá những cung của linh hồn phàm ngã của em sẽ giúp cho em hiểu rõ tại sao trong kiếp này em lại như vậy .
Cung của Trí Tuệ tức Cung 4 là Cung trấn áp phàm ngã của em. Điều này có nghĩa là em có năng lực phân phối với sự soi sáng của chân ngã. Mục tiêu thiền định của em phải là ánh sáng. Tuy nhiên trong trường hợp của em đó là sự phản chiếu thầm lặng và ký ức nội tâm được giữ gìn một cách vĩnh viễn. Điều này giúp em trở thành một vận hà để đảm nhiệm ánh sáng tuôn xuống phàm ngã nó sẽ ban rải khắp vùng chung quanh .
Bởi vậy, tôi sẽ không đưa cho em một phép thiền định nào về ánh sáng, nhưng muốn em nên lấy chủ đề ánh sáng làm đề tài tự kiểm hàng ngày. Mỗi ngày một lần vào bất kể nơi nào, em hãy tự đặt 1, 2, câu hỏi sau đây trong giờ tự kiểm và suy gẫm sâu xa về những câu hỏi ấy trong 6 tháng sắp tới .
Tháng đầu : Ý nghĩa thiết thực của danh từ ánh sáng so với tôi như thế nào ?
Tháng thứ 2 : Cuộc đời tôi hoàn toàn có thể được soi sáng bằng cách nào ?
Tháng thứ 3 : Yếu tố tạo nên sự soi sáng là gì và yếu tố đó có hoạt động giải trí thông thường trong đời tôi hông ?
Tháng thứ 4 : Một trí óc soi sáng sẽ có tác động ảnh hưởng gì trong đời sống hàng ngày của tôi ?
Tháng thứ 5 : Trên cương vị một kẻ cầm đuốc, đời sống tôi phải gây tác động ảnh hưởng gì so với người chung quanh ?
Tháng thứ 6 : Tôi có sự tiếp xúc với những người cầm đuốc soi đời khác chăng và bằng cách nào ?
Những lời giải đáp của em cho những câu hỏi này cần vắn tắt nhưng vừa đủ. Em cũng sẽ liên tục những buổi thiền định tập thể của nhóm và viết những bài tự kiểm vắn tắt và khá đầy đủ nói trên, không những để giúp sự giác ngộ riêng em mà cũng để soi sáng cho bạn đồng môn .
Nói về sáu cung quản lý phàm ngã của em, thể trí của em thuộc Cung 4 nó làm cho việc cung ứng với ánh sáng chân ngã của em được thuận tiện. Nhờ đó, nó hoàn toàn có thể phản ứng thuận tiện với chân ngã thuộc Cung 2, vì 2 cung này cùng có 1 đường năng lượng giống nhau. Đồng thời cũng nhờ đó, thể trí của em trở nên 1 điểm tập trung chuyên sâu cho năng lượng chân ngã trong cái phàm ngã thuộc Cung 5 là Cung Trí Tuệ .
Thể tình cảm của em thuộc Cung 6, cung này đem đến cho em một thái độ kiên trì chuyên nhất so với cuộc sống và so với sự vật của cõi giới tâm linh. Nó cũng giúp cho em tiếp xúc với chân ngã một cách khá thuận tiện nếu em muốn. Như vậy những cung của em được liệt kê như sau :
Chân ngã : thuộc Cung 2 ( Minh Triết / Bác ái }
Phàm ngã : thuộc Cung 4 ( Trí năng suy luận, khoa học )
Thể Trí : thuộc Cung 4 ( Điều hòa / Mỹ lệ )
Thể tình cảm : thuộc Cung 6 ( Lý tưởng / sùng tín )
Thể Xác : thuộc Cung 3 ( Trí năng hoạt động giải trí )
Vậy thì điều gì là điều khó khăn vất vả lớn nhất của em vì chính em không hài lòng với sự tân tiến của mình và quả thật đúng như vậy ?
Lý do chính là cái phàm ngã thuộc Cung 5 của em vốn nặng về cái trí phê bình, nghiên cứu và phân tích. Điều này làm cho em soi bói, chỉ trích và biện luận với chính mình và với thực trạng. Một nguyên do khác là thể xác thuộc cung 3 làm tăng cường cái phàm ngã hay chỉ trích và biện luận với chính mình và với thực trạng. Một nguyên do khác là thể xác thuộc cung 3 làm tăng cường cái phàm ngã hay chỉ trích, phê bình. Tuy nhiên, em tự phê phán chỉ trích lấy mình nhiều nhất, nhưng điều này cũng sái quấy và không thiết yếu, như việc chỉ trích phê bình kẻ khác. Nếu em để cho chân ngã ảnh hưởng tác động đến phàm ngã một cách rõ ràng hơn bằng cách hành vi xuyên qua thể trí thuộc Cung 4 và thể tình cảm thuộc cung 6 bằng sự điều tra và nghiên cứu và sử dụng những khí cụ thuận tiện này, chừng đó em sẽ văn minh mau chóng đến mục tiêu mà em đã đặt ra cho mình trong kiếp này tức là sự tích hợp với phàm ngã .
Em chớ nên ngã lòng hay tuyệt vọng. Nếu em và toàn bộ những bạn đồng môn đều hoạt động giải trí trên những ý niệm về những cung và đối xử với nhau như những thành phần riêng rẽ tách biệt thì không bao lâu em sẽ chuẩn bị sẵn sàng tham gia công tác làm việc tập thể trong việc chữa bệnh. Tôi đang dự trù triển khai kế hoạch này .

Ghi
chú
: Người đệ tử này vẫn còn có sự liên hệ lỏng lẻo
với công việc của Chân Sư Tây Tạng và thỉnh thoảng vẫn tiếp xúc với Ngài. Chân
Sư có lời bình phẩm về người đệ tử này rằng y được phép giữ mối liên hệ đó vì y
đã sống một cách đầy đủ với ánh sáng nội tại của y và sự thất bại của y là do bởi
sự kiện rằng y chỉ mới bắt đầu bước vào con đường đệ tử.

Gửi I.F.U

Tháng 8, 1937
Em thân mến ,
Tôi đã theo dõi em từ vài năm nay, tuy em không hề hay biết. Chính do sự dẫn dụ của tôi mà em đã tìm được gia nhập vào nhóm đệ tử này và đồng thời em đã tìm thấy địa hạt phụng sự của mình do định mệnh sắp xếp. Tôi vui vẻ tiếp đón em trong nhóm Đạo sinh này .
Trong đời mỗi Đạo sinh, có một kiếp nào đó y sẽ tìm thấy nhóm của y. tôi muốn nói về nhóm đệ tử nội môn và nhóm phụng sự viên nội môn mà y hoàn toàn có thể hợp tác .
Khi cả hai yếu tố này cùng ăn khớp với nhau ( điều không phải luôn luôn xảy ra ) thì đó là một thời cơ lớn làm cho y thâu ngắn rất nhiều thì giờ. Đó là trường hợp của em và tôi chắc em đã khởi đầu nhận thấy điều đó .
Chân ngã của em thuộc cung I, phàm ngã thuộc cung 3. Vì thời hạn cấp bách và vì áp lực đè nén việc làm phải làm trong chu kỳ luân hồi tiếp cận này, những em đã nghe nói rằng tôi đang thay chân của vài Chân Sư để cho những ngài được rãnh tay hầu hoàn toàn có thể đảm nhiệm những trách nhiệm mới to lớn và cao quý hơn. Tôi đang đảm trách việc huấn luyện và đào tạo vài vị, đệ tử của những Ngài và chuẩn bị sẵn sàng vài Đạo Sinh mà những Ngài từng theo dõi để cho họ bước vào quy trình tiến độ đệ tử chính thức. Em hiện đang xuất hiện trong số những đạo sinh này. Em sẽ nhận thức rằng yếu tố tăng trưởng tình thương cho được dồi dào sâu rộng hơn, sẽ là bước tiến sắp tới để chuẩn bị sẵn sàng cho em bước vào con đường phụng sự. Sự phối hợp những cung của em cần có điều đó và ảnh hưởng tác động cung 2 của tôi cũng sẽ trợ giúp em rất nhiều. Mỗi đạo sinh trên trần gian đều hoàn toàn có thể tăng cường đặc thù bác ái, thiêng liêng của họ, không nói đến đặc thù thương mến xúc cảm của thể tình cảm. Nhưng em luôn luôn cần phải hiểu rõ nguyên do của mọi sự tăng trưởng, nên tôi phải lý giải .
Gần đây, em đã vượt qua mau chóng một quy trình tiến độ dài trên đường đạo, và đã tăng cường một cách rõ ràng cả hai phương diện về cơ năng rung động từ điển và tác động ảnh hưởng tâm linh. Em hoàn toàn có thể bước vào thời kỳ phụng sự ráo riết trong vài năm và điều này cũng cần được lý giải. Đấng Cao Cả mà có ngày em sẽ biết là thầy của em, khi em được nhận vào nhóm đệ tử của Ngài ( Đức MORYA ) là vị đứng đầu toàn bộ những Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO trên trần gian lúc này. Do đó, em hoàn toàn có thể thấy tại sao em đã tìm được bước vào nhóm đệ tử của tôi và tại sao cũng đang tích cực hoạt động giải trí hữu hiệu trên phương diện chấp hành và tổ chức triển khai của nhóm. Điều ấy, tương thích với đặc thù nội tại của em, đặc thù này nếu được hiểu và sử dụng đúng đắn hoàn toàn có thể làm cho em trở nên một điểm tập trung chuyên sâu năng lượng hữu hiệu của Chân Sư ở tại khu vực mà em đang phụng sự. Bởi vậy, Em thân mến, minh triết phải tập phân biệt với thời hạn qua làm tăng gia sự nhạy cảm của em giữa những loại ảnh hưởng tác động
Ảnh hưởng rung động vãng lai ( đến và đi ) của linh hồn .
Ảnh hưởng rung động vãng lai của những nhóm đệ tử đặc biệt quan trọng này .
Ảnh hưởng rung động vãng lai của những trường NỘI MÔN BÍ GIÁO
Ảnh hưởng rung động vãng lai của vị đứng đầu toàn bộ những nhóm Huyền môn là Chân Sư MORYA .
Trong một thời hạn em vẫn chưa hoàn toàn có thể làm được điều này, nhưng sự tăng trưởng nhạy cảm này so với em là một điều thiết yếu và rốt cuộc sẽ được triển khai nếu em can thiệp tuân theo những huấn thị của tôi, và để cho tình thương chân chính ngày càng xâm nhập phàm ngã. Sự xâm nhập này là một điều khả hữu, chính bới em cũng đã biết rõ đặc thù của tình thương. Tuy nhiên, yêu quý là một việc còn làm vận hà của tình thương lại là một việc khác .
Tháng 11, 1938
Em thân mến ,
Tôi muốn nói cho em biết rằng, trong năm vừa mới qua, em đã có nhiều tân tiến thật sự hơn là bất kỳ một thập niên nào trước đây. Sức mạnh linh hồn của em đã tự biểu lộ. Đó là một điều tốt. Nhưng tôi muốn chỉ cho em thấy một điều mà toàn bộ những Đạo sinh thường hay quên, đó là sự vận dụng sức mạnh của linh hồn vào sự sống của phàm ngã sẽ luôn gây nên một sự khích động quá đáng trong một thể này hay thể khác. Điều này phải nên coi chừng đừng để cho xảy ra .
Em có một sự phối hợp lạ lùng của những Cung để cho em xử lý và tìm cách hợp tác. nhưng một sự hiểu biết đúng đắn và 5 thứ mãnh lực chi phối em trong kiếp này, sẽ giúp cho em có một sự nhận định và đánh giá đúng đắn về việc làm mà em sẽ phải làm trong kiếp sau. Kiếp sống hiện tại chỉ là thời kỳ chuẩn bị sẵn sàng. Trong tiến trình đầu của kiếp này, em đã hoạt động giải trí với những di sản mà em thừa kế từ 1 kiếp trước, theo những đường lối thuận tiện ít chướng ngại nhất. Điều này đưa đến cho em những tác dụng dưới hình thức một vài khu công trình phát minh sáng tạo nhưng đó chỉ là sự thi thố những năng lực thuộc về phàm ngã, chớ không phải là một hoạt động giải trí chân ngã. Tuy nhiên, đừng quên rằng khu công trình của phàm ngã nếu thực thi đúng vị trí hợp thời và hợp cảnh là một khu công trình thiêng liêng. Em cần hiểu rằng tiến trình hậu vận của đời em là để chuẩn bị sẵn sàng cho một khu công trình phát minh sáng tạo tập thể trong kiếp tới đây. Một trong những yếu tố khó khăn vất vả mà những Chân Sư luôn luôn gặp phải là làm thế nào cho những đệ tử nhìn nhận đặc thù phù du giả tạm và tương đối không quan trọng của một kiếp người. Cho đến năm 43 tuổi em vẫn không có ý thức tập thể thật sự. Em đầu thai kiếp này với mục tiêu sở đắc được ý thức đó, và tìm đường tham gia hoạt động và sinh hoạt tập thể. Con đường này nhiều lúc đem đến cho em sự tự do linh hồn nhưng nhiều khi cũng đưa đến sự va chạm. Và em đã tân tiến thật sự trong việc lôi kéo đến tâm thức tập thể. Đó là một điều khó so với em, do bởi hai cung quan trọng quản lý cuộc sống em là Cung I ( quyền lực tối cao / ý chí ) và Cung 3 ( Trí tuệ ). Cung này để làm cho người ta sinh ra thói kiêu căng vì trí khôn lan rộng ra. Em đã trấn áp và khắc chế được thói kiêu căng này. Nhưng trong kiếp hiện tại mỗi bước tiến trong việc trấn áp chân ngã phải được thực thi qua một vài cuộc thử thách, với tâm lý lan rộng ra để tránh khỏi những hố sâu của sự đơn độc và sự chia rẽ. Điều này chắc em đã biết .
Vấn đề khó khăn vất vả của em lại càng trầm trọng hơn và thể trí của em thuộc cung 3 là cung Trí năng hoạt động giải trí nó cũng là cung của phàm ngã. Sự kiện này giúp cho em được hai điều lợi, nó làm cho dễ phối hợp phàm ngã và nó cũng giúp cho em tiếp xúc với chân ngã tương đối thuận tiện nếu em muốn. Tuy nhiên, nó cũng làm điển hình nổi bật toàn bộ những năng lực và đặc tính thuộc cung 3 trong phàm ngã của em. Đó là đặc thù phê bình, chỉ trích, nghiên cứu và phân tích, chia cách, kiêu căng và ích kỷ. Vì em đang trải qua một quá trình tích hợp tâm linh mau chóng nên điều này sẽ đưa đến những trạng thái nội tâm cần được theo dõi ngặt nghèo và chăm nom rất cẩn trọng .
Thể tình cảm của em thuộc cung 6 tức cung Sùng tín. Điều này đưa những va chạm về lý tưởng và là yếu tố khó khăn vất vả quan trọng nhất của đời em. Nó cũng giúp cho em có sự quân bình tốt đẹp giữa những cung của phàm ngã và trí năng .
Vì thể xác của em thuộc cung 6, nên bộ óc của em cung ứng rất bén nhạy với những động lực xúc cảm nhất là về những yếu tố lý tưởng. Sự phối hợp của hai năng lượng thuộc cung 6 trong thực chất của em là những điểm tiếp xúc duy nhất của em ( trong kiếp này ) với những đường năng lượng lớn thuộc cung 2. Em nên nhớ kỹ điều này và vun trồng lý tưởng tập thể một cách sốt sắng liên tục, vì chỉ có nhờ lý tưởng này mà sự hoạt động và sinh hoạt biểu lộ phàm ngã của em mới hoàn toàn có thể đi đến thế quân bình thiết yếu .
Tháng 3, 1939
Em thân mến ,
Những ảo giác của em không nhiều và kh6ông quá trầm trọng vì em là một đệ tử thuộc về loại mở trí, nên em dễ bị ảo ảnh hơn là ảo giác. Câu hỏi mà em cần phải giải đáp là : việc dùng trí hơi nhiều trong mọi hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của em, cả bên trong lẫn bên ngoài, có phải chăng là một ảo giác ngăn trở sự thức động toàn vẹn của bí huyệt tim ? Em đã nỗ lực nhiều trong năm qua để tăng gia sự nhạy cảm của quả tim. Tuy nhiên cái trí suy luận của em vẫn còn hoàn toàn có thể ngăn trở sự thụ cảm của tim so với cuộc sống, so với thực trạng và trên hết mọi sự so với toàn thể quả đât .
Em có đủ sức mạnh tâm linh chăng để san sẻ gánh nặng khổ đau phiền não của trần gian và tham gia vào việc làm thức tỉnh trái đất mà không gây ngăn trở chướng ngại ? Quả tim của trái đất này thức tỉnh và đó là một yếu tố khó khăn vất vả .
Sự phối hợp một trí năng được tinh luyện thuần thục và một quả tim thức tỉnh là mục tiêu của người đệ tử sẵn sàng chuẩn bị điểm đạo như ở vào quy trình tiến độ tân tiến của em lúc bấy giờ, và mối đối sánh tương quan giữa hai yếu tố đó thường bị quên lãng. Đó là một thứ ảo giác mà chưa ai biết, vì sự triển khai thế quân bình trí não hoàn toàn có thể trong thời điểm tạm thời lật đổ thế quân bình chân thật hơn của toàn thể con người. Như tôi đã nói với em vài năm trước đây, một quả tim bừng cháy, sôi động với tình thương ( không phải tình cảm hay xúc cảm ) là mục tiêu cuộc sống em. Nó phải được triển khai không phải bằng cách dập tắt trí năng luận, mà bằng sự nhận thức ý nghĩa của một quả tim biết yêu dấu, cùng với sự tích cực hiểu biết ý nghĩa sự khổ đau của trái đất, cứu cánh sẽ đưa đến việc tham gia vào khổ đau đó. Mọi đối sánh tương quan giữa một trí óc tinh luyện và một quả tim thức tỉnh chính là cứ địa hỏa thiêu ( mọi nghiệp chướng phiền não ) và sự điều tra và nghiên cứu thực trạng của trái đất lúc bấy giờ sẽ chứng tỏ cho lời nói của tôi .

Ghi
chú
: Người đệ tử này vẫn còn làm việc với Chân Sư
Tây Tạng.


Gửi I.B.S

Tháng 3, 1932
Em thân mến ,
Em đã bước vào nhóm đệ tử của tôi để chịu một sự đào tạo và giảng dạy nhất định. Sự giảng dạy này không yên cầu một sự vâng lời tuyệt đối nhưng nó bắt buộc những đệ tử đặt phàm ngã phụ thuộc ý muốn của chân ngã chứ không phải phụ thuộc tính chất dục vọng thấp kém, dù rằng những dục vọng ấy có tốt đẹp hay hướng thượng đến đâu cũng vậy. Tôi sẽ hướng dẫn cho em những phương pháp khai mở tâm linh và đưa ra những điểm gợi ý về việc đào luyện năng lực. Ngoài ra, tôi không có trách nhiệm gì khác nữa .
Em đã thao tác và phụng sự trong nhiều năm. Chính công quả phụng sự và ý niệm đó đã đưa em tiến đến tiến trình sẵn sàng chuẩn bị điểm đạo. Bởi vậy, em đã được thâu nhận làm đệ tử chính thức, và tôi được phó thác việc bảo trợ cho em. Tôi nói “ việc ” một cách có dụng ý và em hãy suy gẫm về danh từ này. Em đã sẵn sàng chuẩn bị mất bao lâu để đạt tới quả vị điểm đạo, điều ấy không quan trọng và em không cần bận tâm tới nó. Điều quan trọng là em hãy biết dùng thời cơ này để tích lũy những điều quyền lợi tối đa .
Chắc em cũng thừa hiểu là tôi không muốn phí thì giờ của tôi và của em để nuôi dưỡng thói kiêu căng và những lời khen Tặng Ngay hay vạch ra cho em cái triển vọng của một tương lai sáng sủa. Những thực sự của cõi hồng trần hiện rõ do sự tăng trưởng tâm linh chân thực nội tại và nếu em thành thật ( điều này tôi tin là em có ) em sẽ hoan hỉ đảm nhiệm sự nói thẳng, mặc dầu trong thời điểm tạm thời nó sẽ va chạm đến lòng tự ái của em. Nếu cứu cánh toàn bộ sẽ lộ rõ chân tướng khi con người tăng trưởng những quyền lực của chân ngã thì nay đến lúc tất cả chúng ta phải tập nhìn thấy rõ thực sự trình diện chân tướng của mỗi người và coi sự lột trần đó như một phương tiện đi lại để loại những điều khiếm khuyết của mình .
Có hai chướng ngại lớn mà em phải vượt qua trước khi em hoàn toàn có thể tiến tới sự tự do khoáng đạt hơn là cỗ máy tiêu hóa không ổn định, nó thuộc về phần thể xác. Còn điều chướng ngại thứ hai có vẻ như quan trọng hơn so với những người trợ giúp em trên góc nhìn tâm linh nội tại là một phàm ngã quá ư trầm trọng vì em đặt trọng tâm quá nặng trên phàm ngã thay vì tập trung chuyên sâu sự quan tâm đến chân ngã. Kết quả của khuynh hướng đó là một cường độ rung động quá mạnh nó mối đe dọa đến khung hình và làm giao động thần kinh. Phàm ngã của em thuộc cung 6 nó làm cho em bám chặt những lý tưởng của mình và cố thủ ngặt nghèo những gì mà em cho là chân lý. Điều này cũng tạo nên một sự chuyên tâm nhất trí đưa đến sự quy tụ năng lượng lên trên đầu. Điều này cũng được tăng cường bởi sự kiện rằng nền văn minh Tây Phương của tất cả chúng ta còn đang đắm chìm trong những hình tư tưởng của thế hệ SONG NGƯ tức thế hệ của Cung 6 mà tất cả chúng ta còn đang trải qua. Khi năng lượng cung I của chân ngã thấm nhuần và hòa hợp với năng lượng của Cung 6, ảnh hưởng tác động mối đe dọa nói trên càng trầm trọng hơn và phàm ngã bị tràn ngập bởi một số ít năng lượng quá lớn nhiều hơn sức chịu đựng của nó. Năng lực đó cũng không được phân phối đồng đều, 1 số ít lớn vận động và di chuyển qua bí huyệt cuống họng và bí huyệt rún gây nên sự trộn lẫn và đảo lộn sự quân bình năng lượng trong khung hình. Điều này đến phiên nó lại gây trộn lẫn trong cỗ máy tiêu hóa và khi nó trở thành thói quen, căn bệnh này đưa đến một chướng ngại thật sự. Em tự hỏi như vậy phải làm thế nào giờ đây ? Tôi sẽ đưa ra đây vài điểm gợi ý mà em hoàn toàn có thể noi theo hay không tùy ý .
1 ) Hãy quên mình để yêu dấu người khác và đừng tìm cách thỏa mãn nhu cầu phàm ngã bằng cách khi nào cũng xen vào để tinh chỉnh và điều khiển việc riêng của họ .
2 ) Em có năng lực thương mến và thông cảm. Hãy sử dụng năng lực đó trên góc nhìn chân ngã chứ không phải trên phương diện phàm ngã .
3 ) Hãy tập thao tác theo thứ tự ưu tiên, làm trước những việc nào quan trọng số 1 chứ đừng chú ý quan tâm đến những cụ thể lặt vặt, nhiêu khê do thực trạng và người khác đưa đến. Những yếu tố này nuôi dưỡng sự thỏa mãn nhu cầu phàm ngã khi em xử lý chúng một cách hữu hiệu không ai chối cãi. Hãy bình thản để cho góc nhìn tâm linh của đời sống hoạt động giải trí trong nội tâm em và trong kẻ khác. Những chướng ngại về cỗ máy tiêu hóa sẽ được xử lý và hoàn toàn có thể tiêu tan khi em đã thiết lập mối đối sánh tương quan kiến thiết xây dựng giữa chân ngã và phàm ngã, khi em hoàn toàn có thể sống với tình thương chứ không sống với bí huyệt rún .
Tháng 3, 1934
Em thân mến ,
Sự hăng say và chí nguyện nồng nhiệt của em đã làm cho em gặp khó khăn vất vả. Em là nạn nhân của những đức tính của mình và sự thiếu kinh nghiệm tay nghề trên Đường Đạo. Em há chẳng biết rằng người đệ tử luôn luôn giữ mức quân bình trong mọi cố gắng nỗ lực và không làm gì thái quá đến mức cực đoan ? Việc làm của em đã thiếu sự quân bình trong những tháng vừa mới qua. Em bị giằng co bởi một hình tư tưởng xúc cảm, năng lượng cõi trung giới đã làm tăng gia lòng sùng tín trên góc nhìn cảm hứng và sự giao động thần kinh vẫn là một chướng ngại cố hữu của em .
Hôm nay tôi muốn nói với em vài điều vắn tắt vì sự stress của em trầm trọng hơn là em tưởng. Em cần nghỉ ngơi và tịnh dưỡng .
Điều thứ nhất : Em đừng ngã lòng mà hãy nhìn nhận rằng trực giác của em đã thất bại. Tuy nhiên hãy thành thật với chính mình và nếu em cảm thấy rằng thực sự không đúng hẳn như lời tôi nói thì chừng đó em hãy giữ lấy quyết định hành động của mình và hãy thành thật với chân ngã. Đó là yếu tố quan trọng nhất. Quyết định đó hoàn toàn có thể làm cho em liên tục tham gia trong nhóm đệ tử của tôi ( sự hợp tác này đã bị gián đoạn trong những tháng vừa mới qua ) hoặc nó hoàn toàn có thể đưa em đến việc hợp tác với nhóm mà gần đây em đã chịu tác động ảnh hưởng rất can đảm và mạnh mẽ. Nhưng em hãy đồng ý tình thế một cách ngay thật như em nhận thức trong lúc tham thiền không ai hoàn toàn có thể làm gì khác hơn .
Tuy nhiên hãy nhớ rằng thể xác của em không đủ mạnh để chịu đựng áp lực đè nén của nhóm với âm ba rung động khác nhau, và trong khi chờ đón quyết định hành động của em, chúng tôi sẽ tạm đình chỉ việc làm của em đã làm với tôi. Em có trọn quyền quyết định hành động, em được trọn vẹn tự do hành vi tùy theo sự nhận xét của mình, chúng tôi không chỉ trích quyết định hành động của em .
Điều thứ hai : Nếu em muốn liên tục thao tác theo những huấn thị của tôi thì em hãy ngưng hành vi theo những thông tư của nhóm tập trung chuyên sâu trên cõi trung giới. Chừng đó em hãy liên tục việc làm mà tôi đã phác họa trước đây, mà gần đây em đã xao lãng và hãy noi theo thông tư của tôi một cách cẩn trọng tỉ mỉ từng chi tiết cụ thể .
Nói về công phu thiền định và sử dụng năng lượng, hãy nhớ rằng nó sẽ không kích thích thần kinh hệ của em ngay giờ đây, nhưng nó hoàn toàn có thể trở nên một ưu điểm cho cả nhóm. Hậu quả của công tác làm việc mà em đã làm với nhóm người hoạt động giải trí dưới tác động ảnh hưởng của ảo ảnh và ảo giác, là nuôi dưỡng đặc thù sùng tín của em, đặt trọng tâm vào sự tăng trưởng cá thể, tu luyện cá thể, việc làm cá thể, nhu yếu cá thể và những gì những ta cảm nghĩ về em. Tất cả những thứ đó đều không có giá trị gì so với nhóm đệ tử này mà em đã cam kết phát nguyện tham gia hay so với những bạn đồng lao động công tác làm việc trong việc làm phụng sự mà em đã có sự link từ bao lâu nay, hay so với những người có liên hệ ràng buộc với em trong đời sống hàng ngày. Thật ra sự kiện ấy đã tạo ra tác động ảnh hưởng chia cách giữa em với nhóm bạn đồng môn và với thiên nhiên và môi trường chung quanh. Điều này em đã biết rõ và làm cho em bị dày vò ray rứt một cách sâu xa. Phải chăng việc bất tuân những quy luật trong Đạo Viện cũng đã làm cho em đi lạc đường ?
Tất cả những vấn đề mà tất cả chúng ta phải cùng làm với nhau trong nhóm đệ tử này đều có mục tiêu tăng cường mối đối sánh tương quan tập thể, tình thương tập thể và tích hợp tập thể. Vì đây là một công tác làm việc tập thể do Thánh Đoàn chủ trương và trong nhóm này tôi không chú trọng đến việc đào tạo và giảng dạy cá thể để đào tạo và giảng dạy nên những đệ tử xuất sắc ưu tú riêng biệt .
Tôi lặp lại rằng tôi sẽ không đào tạo và giảng dạy vì tiềm năng cá thể của riêng một đệ tử nào. Tôi đào tạo và giảng dạy một nhóm đệ tử để cho họ hoàn toàn có thể hoạt động giải trí như một đơn vị chức năng tập thể hội đồng. Em đã quên béng sự hợp nhất trong khi đi lạc vào một ngỏ ngách của phàm ngã có phẩm chất cao quý, tốt đẹp nhưng thực sự thuộc về quốc tế ảo ảnh chứ không phải quốc tế ánh sáng và quốc tế nhãn quang tâm linh .
Sự nhạy cảm của em làm cho điều đó dễ xảy ra. Tính háo quyền tiềm ẩn của em làm cho em dễ bị ảo ảnh. Sự bất tuân quy luật tập thể làm cho ảo giác càng mau đến. Nhưng sợi dây liên hệ bên trong của em khá mạnh và nguyện vọng của em vững chãi nếu em có cái nhìn ngay thật và hành vi cương quyết .
Tôi lập lại : đừng tuyệt vọng do những thất bại và phản ứng của tất cả chúng ta so với ảo giác. Chúng ta vững đức tin tiến mạnh trên đường Đạo, bằng cách bị chỉ trích, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể thống kê giám sát đặc thù của linh hồn mình. Sự chỉ trích của những người đứng đầu nhóm đệ tử này hay những người đứng đầu nhóm trên cõi trung giới đã đưa em vào quốc tế của ảo giác, đều không làm gì khác hơn là cho em thấy rằng những phản ứng của phàm ngã ngăn ngừa bước tiến của linh hồn. Xét cho cùng, yếu tố khó khăn vất vả của em không phải là lựa chọn để gật đầu con đường nào trong hai con đường nói trên, hay nhân vật nào là đại diện thay mặt của tôi. Vấn đề là : Trực giác của em hoàn toàn có thể phân biệt được chăng giữa sự rung động của chân ngã với sự rung động của một hình thể cao của cõi trung giới. Chân Sư Tây Tạng của em và những người khác đều không đáng kể. Nếu em coi họ là đáng kể thì em đã lầm lạc. Chỉ có chân lý mới là đáng kể và sự tích hợp với chân lý là điểm cao nhất của em hoàn toàn có thể đạt tới đó mới là điều em nên ước vọng .
Tôi nói như vậy là vì tôi cảm thấy sự căng thẳng mệt mỏi nơi tâm hồn của em và sự ngỡ ngàng, sợ hãi trước thực trạng hiện tại, một thực trạng mà em không tiên liệu trước được, nó gây cho em sự tuyệt vọng sâu xa. Hãy tỉnh dưỡng và tìm sự bình an. Đó là một quyết định hành động đứng đắn. Trong ánh sáng trường cửu, những việc nhỏ nhen xảy đến cho em sẽ biến mất. Hãy tiến tới với một sự can đảm và mạnh mẽ mới mẽ. Hãy học bài học kinh nghiệm của quá khứ, nhưng đừng bám bíu lấy dĩ vãng. Đừng để cho lời nói hay ảnh hưởng tác động của bất kỳ người nào tinh chỉnh và điều khiển cuộc sống mình. Cầu mong ánh sáng chân ngã đem đến sức mạnh niềm tin cho em và một động lực thuần khiết sẽ tràn ngập đời em với tình thương .
Tháng 9, 1934
Em thân mến ,
Hôm nay tôi muốn nói với em một điều rất đơn giản và giản dị thường thì theo lời Thánh PAUL : Hãy quên những việc đã qua và thẳng tiến tới trước. Ảo giác bao trùm chung quanh em nay đã biến mất. Nay thì em đang khổ sở vì cảm xúc sợ sệt và nhục nhã, cả hai thứ này có công dụng tàn phá và đều không thiết yếu. Em đã bị phụ thuộc ảo ảnh và ảo giác nhưng cũng là điểm đối tượng người tiêu dùng của tình thương tập thể, tình thương này em đã trợ giúp nhiều để làm cho nó thức tỉnh. Hãy suy gẫm về điều này .
Em đã bước vào một trạng thái trọn vẹn đổi khác và cuộc sống Em thân mến, sẽ biến chuyển qua một ngành hoạt động giải trí khác hẳn trong tương lai. Em phải sẵn sàng chuẩn bị để bước vào quá trình này. Tất cả mọi đường hướng hoạt động giải trí đều có mục tiêu phụng sự, việc phụng sự và giúp sức kẻ khác sẽ đưa em bước vào con đường giải thoát. Chân ngã sẽ là thần hộ mạng của em .
Tháng 8, 1935
Nay em hoàn toàn có thể mở màn làm những công tác làm việc nhất định. Tuy nhiên em phải thực thi một cách thận trọng và trong vài tháng nữa tôi ý kiến đề nghị rằng em không làm gì cả, trừ ra việc làm mà tôi chỉ định sau đây : chỗ rạn nứt trong thể dĩ thái của em, nó làm cho em đau yếu nặng hồi năm ngoái nay đã được hàn gắn, nhưng nó hoàn toàn có thể rạn nứt trở lại nếu em làm quá sức. Do chỗ rạn nứt đó mà ảo ảnh, ảo giác đột nhập mãnh liệt và tạo nên một cơn tàn phá quyết liệt trong thời điểm tạm thời trong đời em. Ảo ảnh hoàn toàn có thể là một thí dụ nổi bật làm đề tài học hỏi cho toàn đệ tử. Do đó mà sự quyền lợi hoàn toàn có thể được rút tỉa ra từ cái vẻ bên ngoài có vẻ như có vẻ như là một điều ác dở. Điều dở hay ác chỉ là ảo ảnh, chính việc sử dụng động lực hay thời cơ do bởi phàm ngã ngăn cách cả ích kỷ mới hây nên điều ác. Một ý niệm đúng đắn trong những thực trạng tương tự như sẽ là cái động cơ thôi thúc con người làm điều lành. Nếu không thấy có hiệu quả nào khác, thì kinh nghiệm tay nghề đã qua đó sẽ có tính năng làm cho em và những đồng môn giữ kín cẩn trọng hơn trong tương lai và ít hấp tấp vội vàng hơn trong sự Tóm lại. Ảo ảnh, ảo giác khi nó thuộc loại đặc biệt quan trọng đó rất khó phân biệt được và có vẽ có vẻ như là thực sự. Đó là định nghĩa của danh từ ảo ảnh và chữ có vẻ như chính là mấu chốt của yếu tố .
Tôi có nói rằng tôi muốn xử sự với mỗi đệ tử một cách thành thật trọn vẹn. Trên tư thế một nhóm đệ tử, nay tất cả chúng ta hoàn toàn có thể mở màn việc làm và coi những quá trình đã qua như chỉ có đặc thù chuẩn bị sẵn sàng. Những tiềm năng trước mắt mỗi người là tuân thủ giới luật và khai triển đặc thù tâm linh cách nào đó hoàn toàn có thể góp phần vào việc làm của Đạo Viện. Mỗi người phải công phu tu luyện đến một mức khá cao để hoàn toàn có thể làm cho sự góp phần của mình có giá trị khả quan. Chúng ta đang cố gắng nỗ lực thực thi một hoạt động giải trí tập thể có đặc thù trưởng thành và tổng hợp và có ngày tất cả chúng ta sẽ đạt tới tiềm năng đó. Nhưng trong nhóm đệ tử này, điều kiện kèm theo để thực thi việc đó vẫn chưa có đủ. Bởi vậy hãy cố gắng nỗ lực trau dồi tu luyện bản thân và loại trừ những yếu kém sai lầm đáng tiếc của phàm ngã hoàn toàn có thể làm trở ngại cho việc chung và quyền lợi tập thể .
Từ lâu nay, trong tư tưởng em đã đặt mình ở vị trí TT của mọi môi trường tự nhiên hoạt động và sinh hoạt, em không ganh tỵ theo ý nghĩa thường thì của danh từ này, vì lòng tự kiêu không được cho phép em có sự ganh tỵ thường tình như mọi người. Nhưng em luôn ý thức rằng mình ở vị trí TT của cái vòng giao tế nhân sự. Và em có cảm xúc bất mãn, căm hận nếu em không được như vậy. Đó là một trong những yếu tố chính đã gây nên sự ô nhục của em năm ngoái. Tôi khuyên em hãy dứt bỏ thái độ đó. Em phải cố gắng nỗ lực loại trừ ra khỏi tâm lý em ý nghĩ rằng mình là nhân vật nọ hay nhân vật kia, mà phải vun trồng sự thông cảm nó sẽ làm cho em ý thức so với kẻ khác hơn là so với mình. Đó là một điều khó làm, nó không dễ gì biểu lộ trong tư tưởng và trong đời sống. Xét cho cùng, yếu tố khó khăn vất vả của em là đặt phàm ngã thuộc cung 6 vào động lực của chân ngã thuộc cung I. sự nghiên cứu và điều tra những đặc tính của cung 6 sẽ rất có ích, nhất là em nhớ rằng, ở vị thế một người đệ tử, chính sự rung động của cung 6 sẽ gây nhiều rối rắm nhất cho em và làm cho ảo ảnh, ảo giác xâm nhập thuận tiện. Thí dụ sự cuồng nhiệt và lòng sùng tín của em cần được trui rèn nếu muốn cho quyền lực của cung 1 được biểu lộ. Ý chí cuồng nhiệt và sùng tín của em phải được sửa chữa thay thế bằng mục tiêu có trật tự và bền chắc của chân ngã thuộc cung 1 .
Câu này tiềm ẩn tuyệt kỹ cho sư văn minh tương lai của em … Ý chí dũng mãnh tăng cường như thép của em, người Đạo sinh sùng tín, phải đổi khác thành cái mục tiêu bền chắc, mãnh liệt và yên lặng của chân ngã, nó biểu lộ xuyên qua người đệ tử. Linh hồn hay chân ngã vốn uyển chuyển co dãn để thích nghi với thực trạng, nhưng mục tiêu của nó vốn nhất định và không bao giờ thay đổi. Cũng giống như thế, lòng sùng tín cuồng nhiệt so với một người hay một lý tưởng phải nhường chỗ cho tình thương không bao giờ thay đổi của chân ngã, tình thương của linh hồn em so với linh hồn kẻ khác. Đối với em, điều này hàm súc một điểm gợi ý và bị quyết của mọi sự thành công xuất sắc tương lai. Em sẽ nhận thức được những gì tôi muốn nói …
Tháng 11, 1935
Em thân mến ,
Những cố gắng nỗ lực trong năm vừa mới qua đã sẵn sàng chuẩn bị cho em đảm nhiệm những thay đổi mới và tăng gia hiệu lực thực thi hiện hành trong việc phụng sự. Đó là điều mà tôi và những bạn đồng môn của em đều biết rõ, nhưng nay đã đến lúc mà lãnh vực phụng sự của em phải được nới rộng hơn trước. Điều gì làm cho em bị chướng ngại ? Tại sao em không trợ giúp kẻ khác một cách hữu hiệu hơn ? Em muốn tôi nói cho em biết không ? Lý do sự phối hợp khó khăn vất vả gây nên bởi 2 cung biểu lộ của em là cung 6 và cung 1. Khi phàm ngã thuộc cung 6 của em hoàn toàn có thể hoạt động giải trí tự do không bị ảnh hưởng tác động cung 1 của chân ngã và chuyên nhất nhắm vào một kế hoạch nhất định thì không có chướng ngại trong việc biểu lộ của em ở cõi hồng trần .
Khi chân ngã thuộc cung 1 của em hoàn toàn có thể hoạt động giải trí tựa như như thế thì chứng đó em sẽ triển khai được nhiều việc. Nhưng trong hiện tại sự biểu lộ của cung 1 phối hợp với phàm ngã thuộc cung 6 của em tạo nên những việc có đặc thù phá hoại hơn là biểu lộ đặc thù thiêng liêng của chân ngã. Thí dụ như trong những cố gắng nỗ lực của em để giúp sức kẻ khác, lòng sùng tín thuộc cung 6 của em làm cho họ hoảng sợ tránh xa em, còn quyền lực cung 1 của em thường gây chấn động nơi thể ẩn vi nội tại vốn là điều yếm kém nhất của họ. Kết quả là em vẫn trơ trọi một mình. Đó là đặc tính của người sơ cơ trong đời sống ý thức của một linh hồn thuộc cung 1. Phải chăng đó là trường hợp của em ? Không phải là người ta không thương em, vì họ quả có thương em không phải là em không thương họ, vì em cũng thương họ. Đó là chính do em quá đường đột, trẻ trung và tràn trề sức khỏe trong việc tiếp xúc với họ, và mãnh lực đi qua em có công dụng tàn phá mau chóng và giải tán những gì em cố gắng nỗ lực quy tụ. Em đã để mất nhiều người, làm cho họ lọt ra ngoài vòng ảnh hưởng tác động của mình, điều này em biết rõ và làm cho em sợ hãi. Lỗi tự nơi em chứ không phải nơi họ. Em thấy không, tôi đang nỗ lực huấn luyện và đào tạo cho em trở thành người phụng sự, do đó mà tôi chú trọng đến đặc tính cung 1 của chân ngã, nó có công dụng làm sinh động đặc thù cung 6 của em. Em phải sử dụng nó một cách khôn khéo nếu em muốn làm 1 người phụng sự hữu hiệu .
Trước đây tôi có nhắc em quan tâm về thái độ nguy hại là khi nào cũng khoác lấy cái vị trí của nhân vật ở “ Trung tâm mọi sự ”. Thái độ đó cũng như điều mà tôi nói đến ngày hôm nay, cũng là đặc tính của một linh hồn thuộc cung 1. Sự phối hợp của hai thái độ đó ( thái độ của người ở TT mọi sự và thái độ của người đứng khác biệt đơn độc ) là tín hiệu chỉ rằng chân ngã thuộc cung 1 đã khởi đầu trấn áp phàm ngã phần nào. Phải chăng đó là điểm khuyến khích thật sự ? Nếu em hoàn toàn có thể gật đầu lời khuyên của tôi về góc nhìn tàn phá trong yếu tố tiếp xúc nhân sự của em, em hoàn toàn có thể tránh được nhiều nỗi khó khăn vất vả cho mình và cho kẻ khác. Em hoàn toàn có thể hỏi, làm thế nào để diệt trừ những khuynh hướng đó. Tôi chỉ hoàn toàn có thể giải đáp bằng một chân lý giản dị và đơn giản thường thì, giản dị và đơn giản và thường thì đến nổi giá trị khoa học của nó bị quên lãng. Đó là hãy quên sự sống của phàm ngã và chú trọng đến việc phụng sự trần gian. Sự tách rời phàm ngã đó không nên triển khai bằng sự tăng cường những đặc tính của cung 6. Chúng tôi không muốn có những kẻ cuồng tín trong hàng ngũ chúng tôi. Hãy đạt đến nó bằng cách tăng trưởng tình thương một cách sâu xa để gồm có kẻ khác và loại trừ đặc thù phàm ngã thấp kém của mình. Hãy thao tác với thái độ buông xả, tách rời với niềm tin vô dục vô cầu, chừng đó mọi sự tốt đẹp sẽ đến với em, chừng đó em sẽ không bị đơn độc mà sẽ hoạt động giải trí như một đơn vị chức năng có từ lực lôi cuốn trong công tác làm việc tập thể. Bởi vậy, yếu tố tiếp cận của em là ở đó. Em phải tập quên bản ngã cá thể và bước ra ngoài TT môi trường tự nhiên hoạt động và sinh hoạt của em. Em phải tập sao cho có từ lực lôi cuốn, tập kiến thiết xây dựng chớ đừng tàn phá. Hãy suy gẫm về những đề xuất này và tập xử lý những yếu tố khó khăn vất vả của em một cách đơn thuần, yên lặng và vui tươi .
Em đang có những mối tiếp xúc mới lạ và bởi đó em hoàn toàn có thể nới rộng lãnh vực phụng sự nếu em muốn. Tuy nhiên đừng quên rằng mỗi sự tăng trưởng tâm thức với tác dụng của nó là việc tăng gia tầm mức và thời cơ phụng sự đều phải trả bằng một giá và em phải chuẩn bị sẵn sàng ý thức để đối phó với sự kiện này. Em là một linh hồn dũng mãnh và kiên trì. Nhưng nếu em hoàn toàn có thể giữ một thái độ quân bình hồn nhiên, tự tại và không tham vọng cá thể thì chừng đó em hoàn toàn có thể thành công xuất sắc và đạt tới mục tiêu .
Hãy tôn trọng tự do của người khác và đừng tìm cách gieo tác động ảnh hưởng hay áp đặt những ý niệm của mình so với họ. Cảm nghĩ của em về nhu yếu của họ, dù họ thân mật thân thiện với em đến đâu đi nữa vẫn không nhất thiết là đúng. Hãy để cho họ tự do trên mọi góc nhìn với sự tự do mà em yên cầu cho riêng mình. Những ý niệm công thức, chiêu thức và lối sống mà em cho là đúng so với bản thân mình hoàn toàn có thể là trọn vẹn bất hảo so với kẻ khác. Nếu em áp đặt những thứ đó cho kẻ khác, ảnh hưởng tác động của chân ngã sẽ làm cho họ thoát ly ra khỏi ảnh hưởng tác động của em …
Điều này chỉ cho em thấy rõ tại sao những nỗ lực nhiệt thành của em chỉ gây nên ảnh hưởng tác động tàn phá thay vì thiết kế xây dựng. Do đó, em sẽ nhận thức được đường lối giải thoát thích nghi cho em và cho những người khác .
Từ nay em có hể liên tục đảm nhiệm toàn vẹn phần công tác làm việc chỉ định cho em và tôi ý kiến đề nghị em thử tập phép khí công sau đây … Em hãy liên tục pháp môn thiền định như thường lệ. Mỗi buổi sáng, em hãy tập một phép luyện hơi thở giản dị và đơn giản kèm theo phép công phu nói trên .
Tháng hai, 1936
Trong một huấn thị trước đây, tôi có cho em biết rằng, em có nhiều sự biến hóa trong đời sống và thực trạng. Em đã đi nhiều và thấy nhiều kể từ khi đó, cho đến nay, em đã tích lũy được những gì ? Em có cảm thấy đời sống nội tâm của em có nhiều mẫu mã hơn chăng ? Em có cởi mở hơn và quên mình hơn trước chăng ? Em vẫn lươn luôn nỗ lực trợ giúp kẻ khác, nhưng không khi nào quên vị trí của mình là người giúp sức. Bởi vậy, luôn luôn sự hấp dẫn, mê hoặc vô ý thức của người được trợ giúp đến với em trên ý nghĩa cá thể và sau đó họ thường bị dội ngược trở lại. Hay em hoàn toàn có thể nào làm cho họ đừng nhìn thấy em để nhìn vào linh hồn của chính họ chăng ? Đó là những câu hỏi mà chỉ có em mới hoàn toàn có thể vấn đáp. Sự giải thoát so với em có nghĩa đồng điệu, nhập thể với ban đồng môn, và như tôi đã nói trước đây, loại trừ óc cuồng tín thuộc cung 6. Về điểm ở đầu cuối này, em đã có nhiều văn minh và đó là một điều đáng khen. Bây giờ thì thế lực ở cung 1 tức cung quyền lực tối cao, ý chí, phải mỗi lúc càng điển hình nổi bật hơn lên. Đối với em thì sự vận dụng góc nhìn ý chí không phải là điều thiết yếu, mà là sự hiểu biết Thiên Cơ và sự hợp tác một cách mưu trí với Thiên Cơ. Đó là cái cơ tiến hóa chung của cả quả đât chớ không phải là kế hoạch dự trù riêng của em với tư cách một thành viên và một người hợp tác với Thiên Cơ Vĩ đại. Sự học hỏi, nghiên cứu và điều tra của em trong những tháng sắp tới đây em hãy sưu tầm toàn bộ những gì đã được viết về Thiên Cơ trong những sách của tôi. Em hãy ghi nhận những góc nhìn có tầm mức quan trọng cấp thời chớ không nói về cơ tiến hóa của giống dân sắp tới và trong tương lai xa xôi về sau. Kế đó, hãy kê khai vắn tắt những điểm điển hình nổi bật trong Thiên Cơ, đừng viết dài dòng mà hãy tập thu gọn trong ít hàng, nhưng vẫn rõ ràng và vừa đủ ý nghĩa .
Về công phu thiền định của em, nay tôi muốn sửa đổi lại. Từ lâu em đã theo dõi pháp môn thiền định mà tôi hướng dẫn trước đây. Nay tôi muốn đưa ra một phép công phu khác, cần tập luyện cẩn trọng vừa thực hành thực tế, vừa theo dõi hậu quả. Phép thiền định này phải được triển khai nơi bí huyệt tim và thể dĩ thái. Tuy nhiên sau khi tập trung chuyên sâu tâm thức vào “ thể dĩ thái, hãy tách rời tư tưởng ra khỏi bộ phận này. Đây là phép công phu nói trên :
Hòa đồng với chân ngã một cách mau chóng tối đa cho đến khi việc ấy trở thành thuận tiện tùy ý muốn. Chừng đó hãy tự nhắc nhở rằng : Tôi là chân ngã, chân ngã ấy là tôi .
Kế đó tập trung chuyên sâu tâm thức vào góc nhìn bác ái trong thực chất tâm linh của mình để cho năng lượng tuôn tràn xuyên qua bí huyệt tim và cố gắng nỗ lực giữ nó nguyên vẹn ở đó. Tuy nhiên hãy đừng quên nghĩ đến bí huyệt ở tim mà hãy tập trung chuyên sâu tư tưởng vào góc nhìn bác ái của chân ngã. Chừng đó hãy thầm nhủ : tôi ban rải tình thương cho tổng thể mọi người .
Kế đó, hãy suy gẫm về đặc thù và ý nghĩa của tình thương trong 15 phút .
Sau khi đã suy gẫm về đề tài tình thương trong 3 tuần lễ đầu của mỗi tháng, trong tuần lễ thứ tư, em hoàn toàn có thể dò xét cẩn trọng những tư tưởng nào Open trong trí em về đề tài này. Em hoàn toàn có thể làm như vậy từ nơi 3 góc cạnh sau đây :
Về hành vi phải hay quấy trong góc nhìn biểu lộ tình thương .
Về động lực cao hay thấp trong sự biểu lộ tình thương .
Về hoạt động giải trí của chân ngã trong sự biểu lộ tình thương .
Sự biểu lộ tình thương của người cung 6 thường có một đặc thù thuần lý tưởng và vận dụng một cách cuồng nhiệt. Thông thường người ấy thiếu tình thương chân thực mà chỉ áp đặt cho kẻ khác điều mà y cho là tình thương. Trong trường hợp Đấng Christ, năng lượng cung 2 của tình thương tương khắc và chế ngự phàm ngã của cung 6 của Ngài. Sự tương khắc và chế ngự đó cũng phải mở màn có ở nơi em một cách tuần tự và chậm rãi .
Tháng 8, 1936
Em thân mến ,
Tôi muốn em nên nhận thấy rằng vào giờ Trăng Tròn năm nay, một chu kỳ luân hồi công phu hành Đạo đã kết thúc, một chu kỳ luân hồi mới sẽ mở màn. Chu kỳ vừa mới qua có một đặc thù là sự phát hiện :
Phát hiện những khuyết điểm do không phải là sự phát hiện xấu đi mà gồm có ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm .
Phát hiện những bạn đồng môn và những huynh đệ của mình như những người sát cánh cùng đi hành hương trên Đường Đạo .
Phát hiện mục tiêu tối cao và tự nguyện đạt tới mục tiêu đó .
Phát hiện việc làm phải làm và phát hiện Thiên Cơ .
Tất cả những sự phát hiện này đã đến với em và khai mở trong tâm thức em trong những năm vừa mới qua. Em đã học hỏi và biết nhiều. Bây giờ sẽ mở màn một chu kỳ luân hồi mới và đặc thù của nó là sự phối hợp : tìm hiểu và khám phá đặc thù cơ bản nhu yếu trọng điểm của nó và việc làm phải thực thi trong những năm sắp tới. Làm thế nào để thực thi được sự phối hợp đó ?
Khi tôi xem xét những đệ tử trong nhóm đặc biệt quan trọng này của Đạo Viện tôi tự hỏi hoàn toàn có thể nào họ sẽ hòa đồng với nhau chăng trong cái tiết điệu thiết yếu để hoàn toàn có thể thao tác chung với nhau như một đơn vị chức năng. Tất cả chư môn đệ đều có cá nhân tính rất mạnh không những thế lại còn tự hào hãnh diện với nó. Chư môn đệ lấy làm tự mãn một cách sâu xa và kín kẽ trong tiềm thức và thái độ chia rẽ cách biệt đó của mình .
Cái tiết điệu tập thể, sự phối hợp tập thể đều ở hàng thứ yếu trong tâm thức của nhiều đệ tử và phụ thuộc vào vào sự văn minh cá thể, thái độ cá thể và quan điểm cá thể .
Chỉ có 3 đệ tử trong nhóm này thoát ra khỏi sự yếu kém đó và chú trọng đặc biệt quan trọng vào đời sống tập thể, trọn vẹn trái ngược với đời sống cá thể. Kỳ dư đều vẫn còn giữ thái độ ích kỷ cá thể, chớ không có ý thức hoạt động và sinh hoạt tập thể. Khi tôi nói thế, tôi muốn nêu ra yếu tố khó khăn vất vả của em. Tôi đánh giá và nhận định rằng em yêu quý những bạn đồng môn và có lòng sùng tín nhiệt thành với tôi. Em thương mến con đường đưa đến ánh sáng, nhưng em và những đệ tử khác vẫn còn là những trung tâm điểm của đời mình là những diễn viên dữ thế chủ động trên sân khấu cuộc sống. Trên đó, mỗi người đều tìm cách đóng vai chính. Hòa mình vào đời sống tập thể, một yếu tố thiết yếu trong việc làm phải làm vẫn chưa được chư môn đệ quan tâm đến. Lý do là vì chư môn đệ vẫn còn sống trên cõi trung giới và trụ tâm thức của mình trên cõi ấy. Đó là cảnh giới cao của cõi trung giới, nhưng trừ phi em hoàn toàn có thể thoát lên những mức độ của cõi thượng giới và tập giữ cho thần trí yên lặng vững vàng trong ánh sáng thì ý thức về tỷ suất của em đương nhiên phải sai lầm đáng tiếc và em sẽ không đặt cho mọi sự một tầm vóc vị trí đúng đắn thích nghi với giá trị thật của chúng .
Tôi cố gắng nỗ lực làm hai điều sau đây so với mỗi đệ tử trong nhóm đặc biệt quan trọng này :
Vạch rõ khuynh hướng hoạt động và sinh hoạt tập thể đã có sẵn trong mỗi người và chỉ cho em thấy nó do đâu mà có .
Chỉ cho em thấy trên địa hạt nào mỗi người hoàn toàn có thể tích hợp ngặt nghèo hơn với toàn nhóm để tăng cường hoạt động và sinh hoạt tập thể chứ không phải chi để tự bảo trì lấy mình bằng cái sinh khí của nhóm .
Khi tôi nói như thế, tôi tự hỏi tôi hoàn toàn có thể thành thật đến độ nào và đến mức nào tôi hoàn toàn có thể ban lời huấn thị của tôi cho những đệ tử. Tất cả chư môn đệ hoàn toàn có thể gật đầu quan điểm của tôi chăng vì tôi không hề gọi đó là sự chỉ trích ? Sự chỉ trích luôn luôn có tính năng tàn phá, bất luận nó phát xuất từ đâu. Còn sự hướng dẫn cần biến hóa thái độ mà tôi đưa ra cho chư môn đệ trong tình thương do thiện chí sâu xa muốn thấy chư môn đệ được nâng cấp cải tiến để hoàn toàn có thể phụng sự hữu hiệu, đương nhiên là một loại khác hẳn. Bởi vậy, phải chăng tôi hoàn toàn có thể nói với tổng thể chư môn đệ trong niềm tin tự do ? Và chư môn đệ có sẵn lòng chú ý quan tâm đến lời nói của tôi chăng như của một người cao niên, ưu tiên và tin yêu ? Tôi không yên cầu gì hơn bấy nhiêu đó. Tôi không muốn bắt buộc chư môn đệ, tôi chỉ muốn trợ giúp, trợ giúp em trong một pháp môn giải thoát và nhìn thấy em vui mừng tiến đi trong ánh sáng .
Như thế thông điệp của tôi tiềm ẩn một lời nhắn nhủ đặc biệt quan trọng nào cho em chăng ? Em cần học hỏi điều gì trước nhất để làm mực thước cho thái độ của em so với cả nhóm và điều gì đó giúp cho em phối hợp ngặt nghèo hơn trong hoạt động và sinh hoạt tập thể của nhóm ? Đó là em hoàn toàn có thể phụng sự nhóm của tôi một cách hữu hiệu nhất và với tác dụng tốt nhất cho em bằng cách thực thi sự vô tư so với phàm ngã của mình. Khi em đã thoát khỏi ảo giác của phàm ngã, em sẽ phối hợp với nhóm của em một cách mới mẽ và hữu hiệu. Em sẽ có giá trị so với nhóm của tôi và sẽ tu dưỡng cho sinh lực của nó do tại em sẽ là một vận hà xuyên qua đó thần lực thiêng liêng hoàn toàn có thể tuôn tràn chớ không phải chỉ là một người thụ hưởng cái thần lực đó như em lúc bấy giờ. Vấn đề khó khăn vất vả của em được tóm lược trong những câu trên đây. Chính cá thể I.B.S đã tuân thủ những huấn thị của Chân Sư đến mức độ nào. Tôi I.B.S đã sử dụng những huấn thị này vào mục tiêu gì ? Tôi, I.B.S đã thâu được tác dụng gì cho công phu thiền định. Tôi, I.B. S. đã ghi nhận được những hiện tượng kỳ lạ thần thông nào trong giờ trăng tròn. Lúc nào cũng tôi, khi nào của I.B.S. Hỡi đệ tử, em hãy đọc lại tổng thể những báo cáo giải trình mà em đã viết về công phu tu luyện của em trong 2 năm qua. Hãy góp nhặt lại vừa đủ và đọc mau lướt qua toàn bộ để nhận xét xem những lời tôi nói có đúng không ? Cơn khủng hoảng cục bộ trong tâm hồn em là ở chỗ đó. Vấn đề nêu ra là giờ đây em phải làm gì và làm cách nào để thoát ra khỏi mặc cảm của cái TA. Để cho yếu tố được sáng sủa rõ ràng, tôi nêu ra đây những tiến trình mà em phải thực hành thực tế :
1 ) Đừng quan trọng hóa cá thể mình, hãy liên tục việc làm làm hàng ngày, nhưng hãy quên cái bản ngã riêng tư mà chỉ chú trọng đến nhu yếu tập thể, nhu yếu của trần gian và nhu yếu trợ giúp của tôi trong việc làm mà tôi dự tính .
2 ) Tập làm như trên bằng cách suy gẫm về chân ngã, tăng cường sự tiếp xúc của linh hồn và thực thi sự hòa hợp vững chắc. Hãy luôn tập suy gẫm trên tư thế của nhóm, chứ không phải trên tư thế cá thể. Điều này đương nhiên cần nhiều thời giờ và một tiết điệu đã cố hữu trong một thời kỳ vĩnh viễn trải qua nhiều năm, không dễ gì phá bỏ .
Hãy quan tâm ngặt nghèo hơn đến sự kiểm thảo nội tâm vào mỗi buổi tối thay vì đổi khác tiềm năng nỗ lực hiện tại bằng sự suy gẫm về đức vô tư …
Nếu em liên tục công phu này một cách kiên tâm bền trí, em sẽ tự thoát khỏi móng vuốt của phàm ngã và chừng đó em sẽ không có nguyên do để ngã lòng vì em đã có những văn minh thật sự. Trên tư thế một chân lý, em hoàn toàn có thể cho rất nhiều. Một khi em đã khai quang vận hà và loại trừ những chướng ngại, em hoàn toàn có thể góp phần rất nhiều vào sự hoạt động và sinh hoạt tập thể và ban phát rất nhiều cho những bạn đồng môn. Bởi vậy em hãy tiến lên trong sự hòa hợp vui để bước vào đời sống phụng sự dồi dào hơn với một sự quân bình chân thật hơn. Sự tàn phá ảnh hưởng tác động của năng lượng cung 6 biểu lộ trong đời sống phàm ngã của em, không phải dễ làm nhưng em có đủ sức làm được .
Tháng 2, 1937
Em thân mến ,
Em đã vấn đáp rất thành thật những câu hỏi của tôi. Tuy nhiên em không nên tự kiểm thảo một cách quá đáng vì lúc này trí suy luận của em ảnh hưởng tác động hữu hiệu và hãy coi chừng đừng để nó hoạt động giải trí quá mức thiết yếu. Trong đời một giáo sĩ như em lúc bấy giờ, dù là giảng dạy những môn học phàm trần hay đạo lý bí truyền, vị giảng sư luôn luôn phải vận dụng thẩm mỹ và nghệ thuật tách rời bản ngã. Sự thực hành thái độ tách rời này không phải là việc dễ làm, nhất là so với người có đặc thù như của em. Làm sao thực thi được điều đó ? Tôi nêu ra vắn tắt dưới đây những phương pháp cần phải làm :
1 ) Tập trung sự chú ý quan tâm vào trong đầu .
2 ) Điều chỉnh những thế thanh bằng cách hô hấp đúng phép và giữ tâm thanh hư. Hãy suy gẫm về hai điều này và cũng cần điều tra và nghiên cứu những giáo lý của Đạo sư PATANJALI có dạy rất đầy đủ về những điều này .
3 ) Đồng hóa với kẻ khác và kế đó sẽ đi đến cứu cánh là quên mất phàm ngã. Tuy nhiên trong trường hợp này hãy giữ cho động cơ hành vi được đúng đắn .
4 ) Chú trọng đặc biệt quan trọng đến yếu tố khó khăn vất vả hiện tại, không cuồng tín và không thiển cận và đánh giá và nhận định rằng toàn bộ những khó khăn vất vả chướng ngại, nếu biết đối phó đúng cách đều có một giá trị tâm linh .
Em chỉ nên quan tâm đến phàm ngã trong giờ tự kiểm mỗi buổi tối mà tôi khuyên em nên liên tục một cách cẩn trọng. Nó sẽ đem đến quyền lợi thật sự cho em … Cuộc đời dành cho em nhiều thời cơ phụng sự trong hiện tại. Hãy coi chừng đừng để bị cô đọng tâm linh. Khi trở về già, con người luôn luôn có khuynh hướng trở nên cô đọng trong tiết điệu và tiềm năng của đời sống, tập tục và thói quen cố hữu trở nên cứng ngắc. Hãy giữ sao cho khi nào linh hồn cũng linh động, uyển chuyển, luôn luôn cầu học và cầu tiến. Em hãy giảng dạy bằng những kinh nghiệm tay nghề sống mà em đã trải qua. Hãy suy gẫm về điều này. Chỉ bằng cách đó em mới gây ảnh hưởng tác động và truyền cho kẻ khác ngọn lửa thiêng và làm bừng sáng cuộc sống họ. Đừng tinh lọc đối tượng người dùng cho việc phụng sự mà hãy phụng sự toàn bộ người nào tìm đến sự trợ giúp của mình. Em cũng đừng tự mình đi tìm họ. Tư tưởng sau cuối này hàm súc nhiều nhiều điểm gợi ý cho sự hiểu biết tương lai của em. Tôi muốn nói với em một điều, nhưng chỉ hoàn toàn có thể phát biểu tư tưởng bằng những lời nói che đậy. Tôi không có trách nhiệm bật mý việc tương lai. Tuy nhiên tôi hoàn toàn có thể nói : Hãy sống cuộc sống của một tu sĩ và không bám víu lấy những sự vật phàm trần. Nếu em vẫn cứ bám bíu thiết tha, thì sự vật trần gian sẽ thoát khỏi tay em và chừng đó sự đau khổ sẽ làm ngăn trở bước tiến của em trên đường đạo. Hãy tiến bước một cách tự do. Đừng thiết tha bám bíu một người nào cũng đừng để cho một người nào bám bíu lấy mình. Em hoàn toàn có thể làm một tu sĩ xuất gia chăng ? Và sống cuộc sống thoát ly mọi ràng buộc, chỉ có đồng môn là bạn hữu và bạn tác trong đời ? Trong hai năm tới đây, em hãy luôn luôn nhắc nhở lại trong trí những lời nói này của tôi, nhờ đó em hãy xử sự với mọi người theo đường hướng tâm linh. Nếu em hoàn toàn có thể nhìn việc đời với thái độ từ tốn tự tại, lòng không rúng động trước sự thua, còn mất, chừng đó lãnh vực phụng sự của em sẽ được nới rộng. Em sẽ không còn chú ý quan tâm đến những gì thuộc về phàm ngã nhỏ bé của mình. Chừng đó nhiều phàm ngã nhỏ bé khác sẽ tìm đến sự trợ giúp của em .
Tháng 9, 1937
Em thân mến ,
Hôm nay tôi muốn luận bàn về 5 cung quản lý sự hoạt động và sinh hoạt của em trong kiếp hiện tại. Cuộc đời em đã ngày càng hướng về mục tiêu phụng sự trái đất. Có một điều tôi muốn nhắc nhở em về yếu tố này : đừng để cho việc phụng sự chiếm lấy vị trí của chân ngã trong khi thức tỉnh, cũng đừng để cho sự thỏa mãn nhu cầu sửa chữa thay thế cho niềm ước vọng an nhàn của linh hồn, nó tạo nên một mối liên hệ từ điển so với cõi giới chân ngã. Hãy luôn luôn sống nơi chỗ bí nhiệm của chân ngã và luôn luôn giữ tĩnh mịch .
Trong nhiều năm em đã suy gẫm về mối tương quan giữa chân ngã cung 1 và phàm ngã cung 6 của em. Em đã nhận thức rằng trong kiếp hiện tại em phải sống trong tình thương và phụng sự, nếu muốn kiểm soát và chấn chỉnh lòng tham vọng và kiêu căng của cung 1 và lòng cuồng tín của cung 6 với những ảo giác của nó, để triển khai sự cân đối trong thực chất tâm linh của mình. Mối đối sánh tương quan đó là yếu tố vướng mắc lớn nhất của em. Vấn đề lại càng trở nên phức tạp hơn, nên phải kể luôn cả những đặc thù những cung quản lý ba hạ thể. Tuy nhiên sự phức tạp này đã trở nên giản dị và đơn giản và điều tra và nghiên cứu tỉ mỉ những khuynh hướng của phàm ngã sẽ vạch rõ cho em những nguồn năng lượng và làm sáng tỏ yếu tố. Thể trí của em thuộc cung 4. Đó là một ưu điểm nếu năng lượng của nó được sử dụng đúng đắn, do tại nó cũng làm luân chuyển một đặc tính khác thuộc cung 2 và góp thêm phần vào việc làm dịu bớt đặc thù của em. Vì cung này quản lý thể trí của em, nên nó đặt em vào thể chiến đấu mặc dầu chỉ trên phương diện lý tưởng hoặc đôi lúc dưới ảnh hưởng tác động của ảo ảnh, ảo giác .
Thể tình cảm của em cũng thuôc cung 6, là một yếu tố khó khăn vất vả thật sự vì nó nhấn mạnh vấn đề cung của phàm ngã. Nên nhớ rằng những cung đều có những đặc tính nhờ vào như cung 6 ( biểu lộ nơi phàm ngã của em ) hoàn toàn có thể đưa đến sự cuồng tín trong việc theo đuổi một lý tưởng, thì cung 6 trong thể tình cảm cũng biểu lộ lòng sùng tín. Trong trường hợp của em, lòng sùng tín này la mầm giống của đức vô kỷ vị tha. Nó là một yếu tố hướng ngoại quan trọng, giúp cho em chuyển hướng mọi tâm tư nguyện vọng ra bên ngoài và đưa em vào con đường phụng sự. Tuy nhiên khi 2 hạ thể và chân ngã cùng đồng 1 cung như nhau, thì chừng đó Open yếu tố làm thế nào giữ mức cân đối đòn cân và quân bình lực lượng. Đó là trường hợp của em, phải vậy chăng ?
Thể xác của em thuộc cung 3. Đó là yếu tố khiến em có óc thực tiễn, trồng vững 2 chân trên mặt đất, điều mà một người cung 6 rất cần, nhất là khi tiến hóa cao. Điều này giúp em tác động ảnh hưởng trên cõi hồng trần, nó làm 1 điểm tập trung chuyên sâu cho sự biểu lộ của chân ngã, vì đó là cung biểu lộ của chân ngã, biểu lộ Ngôi Ba của Thượng Đế .
Bản chất của em gồm những cung như sau :
Chân ngã thuộc Cung 1 ( Quyền lực / ý chí }
Phàm ngã thuộc Cung 6 ( Sùng tín / lý tưởng )
Thể Trí thuộc Cung 4 ( Mỹ lệ / Điều hòa )
Thể tình cảm thuộc Cung 6 ( Sùng tín / lý tưởng )
Thể Xác thuộc Cung 3 ( Trí năng / hoạt động giải trí )
Tháng 2, 1938
Em thân mến ,
Trong năm tới em sẽ phải đương đầu với 2 quyết định hành động cơ bản. Tôi không hề nói đó là quyết định hành động gì. Trải qua những cơn khủng hoảng cục bộ lớn trong đời, người đệ tử có được sức mạnh niềm tin để đứng vững một mình mà lòng không bám víu sự vật trần gian. Do bởi năng lực đứng tách rời, không luyến tiếc, y sẽ được ơn trên ban bố quyền lực nếu y không chịu đồng nhất với thực trạng bên ngoài. Một trong những điều sẽ Open trong thế kỷ tới đây là quả đât hiểu biết rõ ràng hơn về định luật chu kỳ luân hồi. Chừng đó quả đât sẽ hiểu biết những tiết điệu sinh hóa, vì khuynh hướng cuồng tín và bạo động của họ sẽ hoàn toàn có thể được hóa giải bởi sự thích nghi với những tiết điệu hoạt động và sinh hoạt một cách khôn ngoan .
Em đã trải qua một thời hạn phụng sự ráo riết, việc đó đã giúp em tân tiến rất nhiều. Em đã du lịch nhiều nơi trong khoảng chừng 6 năm vừa mới qua, nay em đã có một nếp sống vững vàng, cố định và thắt chặt .
Hôm nay tôi muốn đề cập đến những khó khăn vất vả về trí tuệ của những đệ tử trong nhóm này. Trước đây tôi muốn nói rằng thể trí của em thuộc cung 4 tức cung mỹ lệ / điều hòa. Cung này là một yếu tố đã xử lý sự khó khăn vất vả gây nên bởi phàm ngã thuộc cung 6 của em đã củng cố tăng cường thêm lên. Phàm ngã luôn luôn link hay tập trung chuyên sâu và một trong ba góc nhìn của nó. Nay tôi chỉ cho em thấy những thể nào của em cũng biểu lộ đặc biệt quan trọng cung của chân ngã .
Năng lực chân ngã biểu lộ qua thể dĩ thái
Năng lực phàm ngã tập trung chuyên sâu vào thể tình cảm .
Một ít suy gẫm về hai sự kiện trên sẽ cho em thấy rõ yếu tố khó khăn vất vả của đời em như thế nào. Đó là yếu tố dung hòa phàm ngã để cho năng lượng chân ngã hoàn toàn có thể trấn áp từ những mức độ trí tuệ và sử dụng thể trí thuộc cung 4 của em cách nào để hóa giải sự khích động quá đáng của thể dĩ thái và thể tình cảm. Trong thời kỳ còn lại của đời em nếu nỗ lực trấn áp thể trí trên tư thế của chân ngã, thì em sẽ đầu thai trở lại kiếp sau với yếu tố trấn áp phàm ngã tập trung chuyên sâu sẵn trong trí. Điều đó có nghĩa là một tâm thức rộng mở bát ngát và nhiều năng lực phụng sự lớn lao hơn, một thế lực luôn luôn thích ứng với nhu yếu của trái đất .
Đặc tính của một thể trí thuộc cung 4 như thế nào ? Dưới đây là vài đặc tính nói trên để cho em tùy nghi vận dụng :
Đặc tính phá hoại :
Xung đột lý trí nội tại
Nhiều va chạm đối nghịch
Thành kiến
Củng cố phàm ngã
Bất hòa
Thắc mắc
Áp đặt ý muốn cá thể
Đặc tính thiết kế xây dựng :
Giải đáp những cặp xích míc, đối tượng người dùng
Đường trung đạo, không bè đảng
Thông cảm và khoan dung
Củng cố quyền lợi tập thể
Điều hòa
Bình an
Biểu lộ ý muốn yêu quý
Lẽ tất yếu còn có nhiều đặc tính và khuynh hướng khác nữa, nhưng tôi chỉ nêu ra những loại đặc tính có ích nhất so với em. Tôi muốn nhắc nhở em rằng cung 4, khi nó gồm trong thành phần năng lượng quản lý phàm ngã là sự biểu lộ ý muốn yêu quý ( dù trên ý nghĩa vật chất hay tâm linh ). Bởi vậy, nó link với cung 1 qua góc nhìn ý chí, do đó em hoàn toàn có thể dời trọng điểm của chân ngã qua địa hạt trí năng và từ đó trấn áp lấy thể xác thay vì phải dùng nhiều công phu nỗ lực để trấn áp nó bằng chân ngã, từ những mức độ của linh hồn. Đó là một điểm gợi ý cho em về giải pháp giải tỏa những chướng ngại .
Tuy nhiên, hãy luôn luôn nhớ rằng, khi em cố gắng nỗ lực thực thi điều đó, điểm cốt yếu của yếu tố phải là tình thương. Chính vì mục tiêu đó mà tôi chỉ phép tham thiền công phu mới rồi cho em. Em hãy tập trung chuyên sâu và cung 4 với đặc thù của nó là tình thương biểu lộ trong sự điều hòa giữa con tranh chấp xung đột. Trong kiếp tới đây em sẽ hoạt động giải trí qua một phàm ngã thuộc cung 2, nhưng điều này sẽ còn tùy nơi hiệu quả của sự cố gắng hiện tại và tùy nơi năng lực nắm vững đường lối phụng sự của em .
Bởi vậy, em phải chuyển hướng những đặc tính cuồng nhiệt sùng tín của cung 6 trở thành tình bác ái và sức mạnh tâm linh. Cho đến nay, sự chuyên tâm nhất trí của em vẫn địa thế căn cứ trên sự sùng tín của cung 6. Trong tương lai, nó phải địa thế căn cứ trên sự quyết đoán mưu trí, sáng suốt. Đó là điều khác hẳn và thuộc về đặc thù trí tuệ .
Đừng để cho việc thành tựu những mục tiêu phụng sự làm cho em bị ảo giác không nhìn thấy nhu yếu cần phải công phu luyện thêm. Người đệ tử thường đắm chìm trong việc làm phải làm, đến nổi y quên rằng đời sống phụng sự bên ngoài sẽ trở nên khó khăn vất vả và đầy dẫy phàm ngã, trừ phi nó song song với sự nhạy cảm mỗi lúc càng được tăng so với những động lực thôi thúc của linh hồn. Linh hồn đó tức là tình thương và thông cảm. Hãy liên tục cố gắng nỗ lực triển khai sự thụ cảm tâm linh mà chính em phải học trong kiếp này. Hãy sống với những giáo điều mà em giảng dạy cho kẻ khác và gìn giữ những giá trị tâm linh của mình khi nào cũng rõ ràng, sáng tỏ. Em đã làm nhiều việc phụng sự tốt đẹp và đã trợ giúp nhiều người. Bây giờ đến lượt em hãy nhận sự trợ giúp cho chính mình mà không bận tâm quá đáng đến nhu yếu đó trong tâm thức của em .
Ghi chú : Người đệ tử này không hề hoang mang lo lắng, dời đổi và vẫn tích cực cố gắng nỗ lực thao tác với Chân Sư Tây Tạng trên đường Đạo của người đệ tử dưới sự hướng dẫn của Ngài .
1 ) Trong quy trình tiến độ 1, người Đạo sinh được Chân Sư tiếp xúc xuyên qua một vị đệ tử hạng sang ở cõi hồng trần. Đó là quá trình tiểu đệ tử ( sơ cơ hay dự bị )
2 ) Trong quy trình tiến độ 2, vị đệ tử hạng sang tinh chỉnh và điều khiển người Đạo sinh từ mức độ linh hồn hay chân ngã. Đó là quá trình gọi là Đạo sinh trong ánh sáng .

3 ) Trong quy trình tiến độ 3, tùy theo nhu yếu thiết yếu, Chân Sư tiếp xúc với Đạo sinh qua :
Một giấc mộng rõ ràng .
Một lời dạy bằng hình thức hình tượng
Việc sử dụng một hình tư tưởng của Chân Sư
Một sự tiếp xúc trong cơn thiền định
Một cuộc hội kiến tại Đạo Viện của Chân Sư ( bằng thể tình cảm trong giấc ngủ ) được nhớ lại rõ ràng sau khi thức tỉnh. Đó là quy trình tiến độ của người đệ tử chính thức .
4 ) Trong tiến trình 4 khi đã chứng tỏ sự minh triết trong việc làm và sự hiểu biết yếu tố của Chân Sư, người đệ tử được chỉ dạy chiêu thức mê hoặc sự quan tâm của Chân Sư ( trong trường hợp khẩn cấp ) để được Ngài ban cho thần lực, kiến thức và kỹ năng và lời khuyên. Điều này là một việc xảy đến cấp thời và không làm mất thì giờ của Chân Sư. Giai đoạn này được gọi bằng một cái tên lạ kỳ là “ đệ tử trên đường dây ” tức là Kim Quang Tuyến ( Sutratma ) .
5 ) Trong quy trình tiến độ 5, người đệ tử được cho biết chiêu thức bí huyệt để tiếp xúc với Chân Sư. Phương pháp này chỉ được truyền dạy cho những đệ tử xứng danh, được đáng tin cậy là họ sẽ không lạm dụng việc ấy vì bất kể mục tiêu gì ngoài nhu yếu việc làm. Người đệ tử sẽ không dùng đến chiêu thức đó vì những nguyên do riêng tư, dầu trong cơn khốn đốn, nghịch cản thuộc về đời sống cá thể của y. Giai đoạn này được gọi là “ người đệ tử trong hào quang ” ( của Chân Sư )
6 ) Trong quá trình 6, người đệ tử hoàn toàn có thể tiếp xúc với Chân Sư bất kỳ khi nào. Y luôn luôn giao cảm mật thiết với Ngài. Đây là tiến trình mà người đệ tử được chuẩn bị sẵn sàng điểm Đạo hay là sau khi đã được điểm Đạo, y được phó thác công tác làm việc đặc biệt quan trọng để thi hành trong sự hợp tác với Chân Sư. Giai đoạn này được gọi là “ Người đệ tử trong lòng của Chân Sư ”. Về sau có một quy trình tiến độ đồng điệu với Chân Sư một cách ngặt nghèo, không chỉ có vậy gọi là quy trình tiến độ hòa hợp ánh sáng, nhưng thật ra không có ngôn từ đúng mực để miêu tả đúng mức tiến trình này .
6 quá trình kể trên đã được diễn tà và đặt tên cho dễ hiểu so với fan hâm mộ Tây phương, chớ không phải định ra những danh từ cổ .
Thế giới thời nay đang trải qua một thời kỳ chuẩn bị sẵn sàng và kiểm soát và điều chỉnh cho theo kịp với thời đại mới và trật tự mới sắp đến. Thế giới mới thật là một cuộc tân tạo. Các Chân Sư thời nay đang tham gia vào những hoạt động và sinh hoạt của nó và luôn luôn hành vi qua sự trung gian của những đệ tử .
Trong tiến trình chuẩn bị sẵn sàng, ngoài những việc khác, những Chân Sư còn phải bận rộn đào tạo và giảng dạy những đệ tử làm những công tác làm việc kiến thiết xây dựng để phụng sự và cứu cánh để thị pháp điểm Đạo. Bởi đó những Ngài phải lo xây dựng những nhóm đệ tử mới, lần lần sẽ tích hợp thành những nhóm người phụng sự trần gian. Điều này được dự trù trên một quy mô to lớn vì nhu yếu của trần gian và do bởi thiện chí của những Đạo sinh trên quốc tế, chuẩn bị sẵn sàng gánh chịu mọi thử thách trong việc chuẩn bị sẵn sàng này .
Có vài quy luật rất đơn giản và giản dị mà tôi muốn nêu ra, vốn là nền tảng của những chân lý mà chư môn đệ đã đồng ý như thể thiết yếu cho mọi văn minh tâm linh. Đó là những điều kiện kèm theo đã được gật đầu và hiện thời đã được nhận thấy nơi toàn bộ những đệ tử mà Chân Sư đang huấn luyện và đào tạo và kết hợp thành những nhóm người phụng sự. Những điều kiện kèm theo đó là :
1 ) Người Đạo sinh cần hòa mình đến mức tối đa với những nhu yếu của quốc tế khi chúng vừa lần lần Open. Hãy nhớ rằng những nhu yếu bắt buộc so với những người đã góp công trong việc nên một quốc tế mới sẽ có đặc thù khác hẳn rất lâu rồi trên nhiều phương diện. Phải nhớ kỹ điều đó. Nhu cầu trần gian phải được phân phối trên phương diện của trí tuệ và tâm linh, chứ không trên góc nhìn xúc cảm. Có rất nhiều Đạo sinh và đệ tử lại nặng về phần xúc cảm. Họ không chịu nhìn thẳng vào trong thực tiễn mà thao tác với những thành kiến có sẵn về yếu tố phụng sự và với những lý tưởng riêng mà họ đặt ra .
2 ) Có một quan điểm tinh xảo hơn về giá trị của sự vật trần gian. Nghỉ ngơi, tiêu khiển, rảnh rỗi, tranh luận và chỉ trích sẽ không có chỗ đứng trong đời người đệ tử trong vài năm tới đây. Cần có sự chăm nom về sức khỏe thể chất với một sự thản nhiên siêu thoát so với những phản ứng của xúc cảm và sức khỏe thể chất. Hoàn toàn lao vào vào việc ứng đáp nhu yếu của quả đât, trọn vẹn hiến dâng cho Thiên Cơ, hợp tác một cách mưu trí với tổng thể những vị mà mình nhìn nhận như những bậc cao đồ, hành vi đúng đắn và cẩn trọng trong mọi việc để cho hiệu năng không bị giảm sút bảo toàn năng lượng bằng sự yên lặng và quên mình : đó là những nhu yếu yên cầu nơi người đệ tử trên trần gian trong thời kỳ hiện tại, đó là những điều mà Thánh Đoàn sở cậy nơi chư môn đệ và cứu cánh sẽ đưa đến cửa điểm Đạo. Cánh cửa này phải được lan rộng ra hơn trong thời kỳ này bởi những đệ tử chính thức của trần gian, để cho ngày càng có nhiều người trong quả đât hoàn toàn có thể bước vào thuận tiện hơn trước. Tất cả sự ích kỷ cá thể sẽ không mở được cánh cửa đó .
3 ) Phát triển sự uyển chuyển linh động của trí tuệ và thái độ tâm linh để nhận thức rằng tuy kế hoạch của Thiên Cơ vốn không bao giờ thay đổi, những kỹ thuật, cách trình diễn lý tưởng và giải pháp cũ đương nhiên phải đổi khác. Đó không phải là một việc dễ làm. Như tôi đã phác họa cho chư môn đệ trong quá khứ, kế hoạch ấy chỉ là cái sườn và một nền tàng cơ cấu tổ chức cơ bản. Nó là cái giàn bằng thép dùng thiết kế xây dựng quốc tế mới, mà chư môn đệ hoàn toàn có thể góp công trợ giúp để triển khai một phần .
Một người trung bình không dễ gì uyển chuyển để đổi khác trong cụ thể và chiêu thức, những gì đã được truyền dạy trong quá khứ và đã gieo cho y những ý niệm rõ ràng và cứng ngắc .
Bởi vậy, chư môn đệ có chuẩn bị sẵn sàng gạt bỏ những thứ ấy chăng và hoạt động giải trí theo đường lối khả dĩ ứng đáp nhu yếu của quốc tế mới dưới những tác động ảnh hưởng s81p đến ?
Người đệ tử mà Chân Sư hoàn toàn có thể an toàn và đáng tin cậy nhất là người nào mà trong những thời kỳ biến chuyển, biết giữ gìn những gì tốt đẹp và cơ bản, nhưng đồng thời cũng biết đoạn tuyệt với quá khứ và vận dụng những gì có quyền lợi cấp thời trong hiện tại. Một thái độ tâm linh dung hòa là đúng, thiết yếu và khó tìm. Phần nhiều những vấn đề thường gây tranh luận và xung đột quan điểm giữa những đệ tử đều có dính líu đến những điểm không quan trọng bằng sự hợp nhất tâm linh nội tại và năng lực biết nhường nhịn trong những trường hợp vô hại khi mà một bạn đồng môn không chịu nhìn thấy thực sự. Các đệ tử nên giữ gìn đừng gây trở ngại bởi sự chuyên chế độc tài hay áp đặt những ý tưởng sáng tạo của mình cho kẻ khác địa thế căn cứ trên những thủ tục đã qua. Hãy suy gẫm về điều này. Người đệ tử nào cho rằng điều mình nghĩ là đúng không hề sai chạy và kẻ khác phải làm theo những điều mà y dự trù sẽ gây chướng ngại rất lớn cho việc phụng sự. Nhiệm vụ của người đệ tử cận đại là ý thức được nhu yếu rồi ứng đáp nhu yếu ấy .
Đời sống của một đệ tử là sự tiến bước từ từ và liên tục đến TT hòa hợp và những đệ tử chính thức là những thành phần cố hữu của Thánh Đoàn. Tổ chức Thánh Đoàn này là nơi hòa hợp của toàn bộ những linh hồn trên cảnh giới cao của Thượng giới. Khi một người chịu đặt mình dưới ấn tượng của Chân Ngã, kế đó chịu sự kiềm chế của chân ngã và sau cuối đồng điệu với chân ngã, thì mỗi lúc y càng tiến gần đến TT hòa hợp. Khi tình thương nhân loại càng lan rộng ra và sự chú ý quan tâm đến phàm ngã càng giảm bớt, người đệ tử càng tiến gần đến TT ánh sáng và tình thương là cứ địa tâm linh của những Chân Sư .
Sau nầy tất cả chúng ta sẽ xét đến những tiến trình khác nhau trên đường Đạo của người đệ tử, nhưng trong thời điểm tạm thời chư môn đệ hãy quan tâm tới mối liên hệ giữa Thánh Đoàn với toàn bộ những đệ tử chính thức. Vì những đệ tử này hãy còn sơ cơ nên toàn thể yếu tố này khêu gợi nơi chư môn đệ một sự thú vị sâu xa. Người sơ cơ luôn luôn tò mò biết tổng thể mọi yếu tố. Người đệ tử chính thức bận rộn đến yếu tố Thiên Cơ và đầy tình thương với đồng loại đến nổi người trọn vẹn hướng nội tâm tư đến việc phụng sự Thiên Cơ chớ không nghĩ đến sự tân tiến cá thể hay nghĩ đến Chân Sư. Người càng tiến gần đến TT và gần Chân Sư, thì Chân Sư càng ít chú trọng đến người hơn và người cũng ít bận tâm nghĩ đến Chân Sư hơn. Trong những quy trình tiến độ sơ khai có lẽ rằng người đương nhiên nghĩ đến mối liên hệ của mình so với Thánh Đoàn, với Chân Sư và với chân ngã của mình. Trong tiến trình trung gian, người bận lo triển khai một ý thức về tỷ suất và một sự điều chỉnh tâm linh đúng đắn cho nên người đứng trước hai con đường và ở mỗi con đường, người nhìn thấy một viễn tượng như nhau. Trong những quy trình tiến độ sau cuối, khi người là một đạo đồ đã đạt tới quả vị Chân Sư, tâm thức của người hoàn toàn có thể nhập với ý chí của Đấng Sáng Tạo. Thái độ của người là tình thương bát ngát không dời đổi và việc làm của người là phát huy ảnh hưởng tác động, một tác động ảnh hưởng nó lôi kéo kẻ khác hành vi, lôi kéo một sự phân phối nơi đồng loại và thôi thúc Thiên Cơ tiến thêm một bước mới để cung ứng nhu yếu cấp bách của trái đất .
Trong việc làm phát minh sáng tạo mà tôi đề cập ở trên và tổng thể những đệ tử hoàn toàn có thể dự phần góp phần công quả, việc làm và trách nhiệm của những Chân Sư là gieo rắc vào trần gian những tư tưởng và quan điểm thiêng liêng, nó gồm có sự thực thi kế hoạch của Thiên Cơ cho quả đât vào một thời kỳ nhất định. Bởi vậy Chân Sư luôn luôn tìm kiếm những người nhạy cảm so với kế hoạch này. Ngài không đặc biệt quan trọng chú trọng tới việc đi tìm những người gọi là “ tốt ”. Sự quên mình và lòng từ bi trực thẳng luôn luôn có nghĩa là đức hòa ái, vô ngại, không sát phạt và đó là điều chí thiện chí mỹ. Ngài tìm kiếm những loại người hoàn toàn có thể hàng loạt ứng đáp với góc nhìn của Thiên Cơ mà Chân Sư có nghĩa vụ và trách nhiệm thực thi và những người chuẩn bị sẵn sàng chịu đặt phàm ngã chịu ràng buộc nhu yếu việc làm đó. Những người này không có ích kỷ và không mong ước điều gì ngoài sự muốn trợ giúp Chân Sư và những vị cao đồ phụng sự dưới sự giám sát của Ngài trên vài góc nhìn của Thiên Cơ. Như tôi đã nói ở trên, điều này yên cầu sự giảng dạy để cho họ quen thích ứng với thực trạng, nhận định và đánh giá chân giá trị của sự vật, uyển chuyển linh động trong tư tưởng và phụng sự trái đất với niềm tin vô kỷ vị tha .
Một nhóm của Chân Sư không phải là một nơi để dạy những đệ tử kiểm soát và điều chỉnh phàm ngã và thức động chân ngã. Nó không phải là một nơi áp đặt kỷ luật cho việc trau giồi tâm tính và thiết lập những mối đối sánh tương quan tốt đẹp giữa những thành viên của một nhóm đệ tử trẻ tuổi hay cao niên. Những quy luật để trấn áp chân ngã vốn có từ xưa và được nhiều người biết rõ, phải được thực hành thực tế trong những thời kỳ lâu dài hơn trước khi đạt tới tiến trình đệ tử chính thức. Sự chiến đấu với phàm ngã và lập hạnh thiết yếu cho người phụng sự trần gian là tiêu đề thường thì của đời sống và vì thế, trái đất vẫn liên tục và liên tục trải qua sự công phu tu luyện đó .
Khả năng thao tác trong niềm tin hợp tác với kẻ khác để thực thi một công tác làm việc chỉ định là một yếu tố không hề tránh khỏi sự tiến hóa tâm linh. Tôi muốn nói rõ với chư môn đệ rằng những sự thực hành phép tinh luyện và tập những thói quen tư tưởng chân chính vốn là phần công phu chính của một Đạo sinh sơ cơ, lại không phải là pháp môn chính của một đệ tử. Đó là những phép tu luyện cơ bản để kìm hãm phàm ngã, thuộc về phần việc của cá thể và thực thi dưới sự điều khiển và tinh chỉnh, giám sát của chân ngã, chớ không phải dưới sự giám sát của Chân Sư. Vậy thì sự góp phần và trách nhiệm của người đệ tử là ra làm sao ?
Nhóm đệ tử của mỗi vị Chân Sư tỏ ra xuất sắc do bởi đặc thù tư tưởng mà họ góp phần để cho Chân Sư sử dụng trong việc phụng sự quả đât. Bởi vậy, đời sống tư tưởng, trí não của một đệ tử phải hội đủ 3 điều kiện kèm theo sau :
1 ) Sức mạnh : Điều này tùy thuộc nơi bản năng tâm linh đúng đắn, hiểu biến đúng đắn, diễn đạt và phát biểu, ý niệm đúng đắn .
2 ) Tinh khiết : Điều này phát hiện tự nhiên từ một năng lực ban rải tình thương bát ngát không số lượng giới hạn, không cách biệt, một viễn ảnh sáng suốt và sự luân chuyển không chướng ngại của sức mạnh nội tâm .
3 ) Phóng rải đúng đắn : Sự phóng rải tư tưởng này là do bởi ý đồ được tinh chỉnh và điều khiển một cách rõ ràng, hiểu rõ mục tiêu và nguyên do sống sót của một nhóm đệ tử và tham gia một cách sáng suốt trong hoạt động giải trí phát minh sáng tạo của Chân Sư .
Nhóm đệ tử của một Chân Sư là điểm tập trung chuyên sâu thần lực do Chân Sư thiết kế xây dựng bằng ba chiêu thức :
a ) Bằng mãnh lực đời sống tư tưởng của chính Ngài, do sự ứng đáp của Ngài so với mục tiêu hợp nhất của Thánh Đoàn và năng lực ứng đáp mỗi lúc càng tăng so với SHAMBALLA .
b ) Bằng năng lực của Ngài để kết nạp TT thần lực tức nhóm đệ tử mà Ngài chịu nghĩa vụ và trách nhiệm thiết kế xây dựng vào hoạt động giải trí tiếp cận của Thánh Đoàn .
c ) Bằng sự minh triết của Ngài trong việc lựa chọn người cộng tác. Nhóm đệ tử của Ngài sẽ đắc lực trong việc phụng sự trần gian và có ích so với những Đấng Trưởng Thượng của Ngài được bao nhiêu tùy theo Ngài dùng óc xét đoán để quy tụ những người, nam và nữ, trong việc chuẩn bị sẵn sàng cho họ được Điểm Đạo .
Chư môn đệ nên biết rằng Điểm Đạo không phải là một cái gì mà họ phải vượt qua như thể hiệu quả của sự đào tạo và giảng dạy mà họ đã thọ lãnh của một vị Chân Sư, hay chính bới họ đã đạt tới một trình độ tiến hóa tâm linh nào đó. Nó là một phương pháp liên tục phối hợp với những TT thần lực, tức là những nhóm đệ tử của Chân Sư, phối hợp một cách ý thức với toàn thể Thánh Đoàn nói chung và sau cuối phối hợp với tư cách những bậc Đạo Đồ đã đắc đạo, giải thoát, với SHAMBALLA. Bởi vậy, chư môn đệ thấy rằng một vị Chân Sư hoàn toàn có thể bị trở ngại rất lớn, hay được trợ giúp đắc lực trong việc phụng sự quả đât do bởi việc lựa chọn đệ tử. Các đệ tử hãy suy gẫm kỹ càng về điều này, vì nhờ đó phương pháp giải phóng bản ngã sẽ triển khai mau chóng hơn, tình thương và niềm tin phụng sự đó cũng sẽ tăng gia một cách chắc như đinh .
Chư môn đệ hãy hiểu rõ điều này để có ý niệm về sự góp phần, trấn áp tư tưởng một cách cẩn trọng để tăng cường sức mạnh và sự tinh khiết cho lý tưởng của nhóm và tạo nên “ kho dự trữ tư tưởng ” có đặc thù tốt đẹp để cho những đệ tử hoàn toàn có thể giao cảm và sử dụng .
Nên nhớ rằng một nhóm đệ tử của Chân Sư là một TT năng lượng, người đệ tử được thấm nhuần trong đó và đảm nhiệm ảnh hưởng tác động khơi động và thanh lọc của nó so với phàm ngã. Hai danh từ này bao trùm đời sống của mỗi đệ tử và miêu tả những gì xảy ra cho trái đất trong khi vẫn thực thi một cách từ từ lừ đừ việc Open của Thánh Đoàn “ đã được báo trước từ lâu ” và việc phục hưng những tổ chức triển khai huyền môn trên trần gian. Thánh Đoàn vốn là nhóm đệ tử của ĐỨC NGỌC ĐẾ và gồm thành Đạo Viện của Ngài. Lời công bố này bao hàm một chân lý tương đối mới. Trước khi Thánh Đoàn hoạt động giải trí công khai minh bạch hơn và được trái đất nhìn nhận một cách rõ ràng không thiếu hơn, thì toàn bộ mọi sự hân thù và chia rẽ trên trần gian phải bị loại trừ và những hoạt động giải trí của tổng thể những đệ tử phải đưa đến tác dụng là khơi động thiện chí và những đối sánh tương quan tốt đẹp của mọi người. Những tai hại của trận thế chiến này và những lỗi lầm trong chủ trương của mọi vương quốc đã được nhìn nhận khắp nơi trên quốc tế. Điều này cứu cánh sẽ hoàn toàn có thể tạo nên một thái độ chung tổng lực để dọn đường cho những kiểm soát và chấn chỉnh thiết yếu. Cũng giống như thế là diễn biến thức tỉnh và chiến đấu mà người đệ tử kinh nghiệm tay nghề trong đời sống cá thể của mình và chuẩn bị sẵn sàng cho họ bước vào quá trình đệ tử chính thức .
Trung tâm thần lực mà người đệ tử được kết nạp vào do bởi sự cố gắng bản thân và do quyết định hành động của Chân Sư đưa đến cho y sự đào luyện thiết yếu trong việc sử dụng những năng lượng vốn là vật liệu cơ bản của cơ phát minh sáng tạo. Như thế có thời cơ góp phần vào việc phát minh sáng tạo quốc tế mới. Luôn luôn có một quốc tế mới đang ở trạng thái được hình thành .
Đặc điểm then chốt trong việc làm của mỗi đệ tử hoàn toàn có thể tóm tắt trong câu quen thuộc : “ Hãy xem đây tôi làm cho toàn bộ đều thay đổi ” .
Có hai yếu tố được nêu ra luôn luôn khi bàn luận về quy trình tiến độ bước vào con đường của người đệ tử, đó là vâng lời hay tuân theo thông tư của huyền môn và đặc thù của viễn ảnh tâm linh. Tôi muốn lý giải những điều này ngay khi mở màn mọi sự trợ giúp mà tôi hoàn toàn có thể đưa đến cho những đệ tử. Chân Sư hoàn toàn có thể yên cầu nơi đệ tử sự vâng lời ra làm sao ? Ngày nay những Chân Sư gặp phải loại đệ tử mở trí rất cao, chủ trương sự tự do ý chí, tự do hành vi, không chịu bị áp đặt dưới một quyền lực tối cao nào. Người tri thức không đồng ý bị xâm phạm tự do về yếu tố này, họ có lý. Họ phản đối sự bắt buộc phải vâng lời. Ngày nay điều ấy đã thành một sáo ngữ. Từ yếu tố cơ bản đó, Open những yếu tố khác có tầm mức thấp kém hơn. Người đệ tử có phải tuân theo mọi sự gợi ý dù là nhỏ nhất của Chân Sư chăng. Mọi nhu yếu và gợi ý của Sư phụ nói đều phải được đồng ý hết cả không ? Có phải tổng thể những gì Sư phụ nói đều phải được gật đầu là thật đúng, không hề bị sai lầm chăng ? Người đệ tử có quấy chăng khi y không gật đầu quan điểm và những lời nói của Sư Phụ ? Quả vị của người đệ tử chính thức có số lượng giới hạn chăng ? Sự tự do suy luận hay tự do lựa chọn, gò bó, sự xét đoán của y, làm cho y trở thành một vật tự động hóa chỉ biết sao chép lại tư tưởng của Sư Phụ mà thôi ? Đó là những yếu tố quan trọng .
Sự vâng lời bắt buộc đó tức là theo Thiên Cơ chớ không phải là vâng lời Sư Phụ như những Đạo phái huyền môn có thường nói. Sự vâng lời yên cầu nơi chư môn đệ, vốn địa thế căn cứ trên việc thừa nhận có một Thiên Cơ điều khiển và tinh chỉnh sự tiến hóa của muôn loài, mà chư môn đệ cảm nhận được trong tâm thức do công phu thiền định và do việc phụng sự mà động cơ là tình thương nhân loại mỗi lúc càng tăng trưởng. Sự vâng lời đó tức là sự phục tùng của phàm ngã so với chân ngã. Trong khi đó, sự hiểu biết, sự sáng suốt và sự kiềm chế chân ngã ngày càng trở nên mãnh liệt hơn trong trí người đệ tử. Toàn bộ yếu tố phục tùng này sẽ không được nêu ra nếu mối đối sánh tương quan liên hệ giữa linh hồn và phàm ngã hay giữa Chân Sư và đệ tử được tuyệt vời và thiết lập trên cơ bản lành mạnh. Đó là yếu tố trọn vẹn địa thế căn cứ trên sự mù quáng và vô minh của người đệ tử. Khi mối đối sánh tương quan đó trở nên vững chãi hơn sẽ không có sự dị biệt nào Open. Những tiềm năng của linh hồn và của phàm ngã sẽ hòa hợp lẫn nhau. Mục đích của sư phụ và đệ tử trở nên giống nhau và việc phụng sự của thầy lẫn trò đều được thực thi trong môi trường tự nhiên hoạt động và sinh hoạt tập thể. Bởi vậy, chính những yếu kém của đệ tử mới đặt ra yếu tố nêu trên, do đó mới có sự vướng mắc về việc Chân Sư yên cầu nơi y quá nhiều. Chư môn đệ thử nghĩ xem có đúng như vậy chăng ? Chính sự bám bíu lấy những ước vọng, ý niệm và quan điểm riêng của phàm ngã làm cho chư môn đệ bị dội ngược bởi danh từ “ vâng lời ”, và sợ phải tuân theo quá mau những điểm gợi ý do Chân Sư đưa ra. Hãy nhớ rằng Sư phụ không đưa cho đệ tử điều gì khác hơn là “ gợi ý ” tuy rằng Ngài hoàn toàn có thể đưa ra những lời công bố dứt khoát về những yếu tố thế sự. Những lời công bố này hoàn toàn có thể trọn vẹn đúng mực. Tuy nhiên, người đệ tử sơ cơ thường quá mù quáng, hay có thành kiến riêng tư để hoàn toàn có thể gật đầu. Người đệ tử chỉ thật sự biết vâng lời khi y đã tăng trưởng mở mang kỹ năng và kiến thức và có tầm nhãn quang bao quát. Nếu không thì thời hạn sẽ kiểm soát và điều chỉnh và bổ cứu những điều thiếu sót .
Điều này nêu ra yếu tố tầm nhãn quang hay triển vọng cùng đặc thù và sự nới rộng của nó. Triển vọng này mà người đệ tử phải có trước khi xin gia nhập vào một nhóm đệ tử của Chân Sư, có phải là một sự diễn biến tuần tự Open, hay là sự nhớ lại một cách vô ý thức những gì đã cảm nhận và nhìn thấy từ trước ? Đó là mấu chốt của yếu tố mà tôi sẽ lý giải. Triển vọng là một lối tượng để kinh nghiệm tay nghề sự mặc khải. Sự tuần tự khai mở 5 giác quan hé mở liên tục cho ta nhận thức được quốc tế của Thượng Đế và đưa đến cho ta một triển vọng luôn luôn nới rộng đến từ cái trí. Triển vọng ấy Open trong tiến trình cao nhất dưới hình thức một sự đánh giá và nhận định tình hình quốc tế và những yếu tố thế sự và thường biểu lộ trong những kế hoạch lớn lao của những nhà chỉ huy trần gian trên mọi nghành của đời sống con người. Nhưng còn triển vọng của người đệ tử là trở nên ý thức được những gì mà chân ngã biết và thấy, bằng cách sử dụng trực giác là chìa khóa của nhãn quang tâm linh. Chìa khóa này chỉ hoàn toàn có thể sử dụng một cách mưu trí khi mà tâm thức vượt lên cao hơn những yếu tố thấp kém của phàm ngã .
Triển vọng hiện tại của chư môn đệ tùy thuộc đến mức độ nào vào những gì kẻ khác đã thấy và chư môn đệ đã phát hiện được bao nhiêu bằng cách hăng say trèo lên ngọn đồi triển vọng, từ đỉnh đồi cao ấy nhìn ra tận chân trời đến một đỉnh khác, ghi lại một khu công trình mới nữa trong việc phụng sự trái đất. Mỗi Đạo sinh trở nên một đệ tử chính thức khi y mở màn trèo lên đỉnh núi triển vọng. Y cũng hoàn toàn có thể ghi nhận một cách ý thức những gì y nhìn thấy, rồi mở màn làm một hành vi thiết kế xây dựng để thực thi điều đó. Điều này, nhiều Đạo sinh trên trần gian đang khởi sự thi hành. Một người đệ tử của trần gian khi triển vọng so với y là một sự quan trọng và quyết định hành động trong tâm thức và tổng thể mọi cố gắng nỗ lực hằng ngày của y đều phụ thuộc vào đó. Y không cần ai bật mý Thiên Cơ cho y biết cả do tại y biết .
Ý thức tỷ suất của y được kiểm soát và điều chỉnh với sự bật mý và cuộc sống y trọn vẹn hiến dâng cho việc biểu lộ triển vọng ấy thành sự thực, trong sự hợp tác tập thể với nhóm của y .
Bởi vậy, đó là một phương pháp tuần tự tăng trưởng cho đến khi y đạt tới một quy trình tiến độ nào đó. Sau khi đạt tới quy trình tiến độ này rồi, thì triển vọng không còn là một yếu tố chính đại nữa, mà đó là cái trường sở kinh nghiệm tay nghề phụng sự và lâp công quả. Hãy suy gẫm về điều này có ngày chư môn đệ sẽ hiểu .
Trên đây tôi có đề cập đến sự hiện hữu của những đệ tử của trần gian. Một đệ tử của trần gian là một người nam hay nữ đã có những tân tiến thật sự trong việc kiểm soát và điều chỉnh giữa tiểu tiết và đại cương, giữa cái riêng không liên quan gì đến nhau và cái tổng quát, giữa thực trạng cá thể khác biệt của y với quốc tế bên ngoài của quả đât linh hồn đau khổ. Vấn đề lo nghĩ của những đệ tử đó không phải là sự kiểm soát và điều chỉnh những mối đối sánh tương quan giữa linh hồn hay chân ngã tâm linh nội tại với khí cụ của nó là phàm ngã thấp kém. Điểm chú trọng của họ là làm thế nào vừa làm tròn những bổn phận tiếp cận so với phàm ngã và đồng thời vừa tạo nên tác động ảnh hưởng so với trần gian do bởi động lực thôi thúc bên trong can đảm và mạnh mẽ khiến cho họ cảm thấy cần phải đảm đương nghĩa vụ và trách nhiệm và san sẻ cái gánh nặng của Chân Sư và nhóm đệ tử được đồng ý hiểu theo ý nghĩa cổ xưa của danh từ này. Họ hoàn toàn có thể tự kiểm soát và điều chỉnh để trở nên th5u cảm so với ấn tượng tâm linh bất kỳ khi nào tùy theo ý muốn. Họ là những người đã tích hợp về góc nhìn phàm ngã và bất kỳ khi nào cũng hoàn toàn có thể được tiếp xúc bằng linh hồn. Họ chưa được trọn vẹn chính do họ chưa phải là Chân Sư. Quả vị Điểm Đạo thứ 4 vẫn còn ở trước mắt họ, nhưng những điểm thiếu sót, bất toàn của họ không phải là điều mà họ chú trọng nhất, mà nhu yếu của trần gian đang yên cầu sự trợ giúp tâm linh và niềm tin mới thật là chiếm số 1 trong tâm thức của họ. Họ có sự nhận xét sáng suốt so với người đời nhưng họ không có thái độ chỉ trích. Họ đương nhiên nhìn thấy những điểm yếu kém bất toàn của trần gian, những điều ấy vẫn không làm mất đi lòng ưu tiên, thông cảm và sự chuẩn bị sẵn sàng trợ giúp trên mọi phương diện ở bất kể nơi nào mà nhu yếu tỏ ra cấp bách và quan trọng .
Những đệ tử ngoài trần gian, tăng trưởng niềm tin hợp tác tập thể mỗi lúc càng tăng. Họ nhìn vào nhóm cộng tác viên cùng trong giới riêng của họ và nhìn vào địa hạt phụng sự riêng của họ với một tầm nhận xét đúng đắn, do tại họ không tách rời ý niệm tập thể. Họ là những điểm tập trung chuyên sâu tích cực cho những lực lượng của ánh sáng trên ba bình diện cố gắng nỗ lực hoạt động giải trí của con người và hoàn toàn có thể tìm thấy trong mọi ngành và mọi mạng lưới hệ thống tư tưởng .
Tôi không có ý định nghĩa con đường đệ tử tích cực theo như sự hiểu biết thường thì. Mỗi Đạo sinh huyền môn đều biết rõ ý nghĩa cùng những mối liên hệ và nghĩa vụ và trách nhiệm của con đường ấy. Tôi muốn khai triển nơi chư môn đệ cái ý thức về nhu yếu của trần gian và năng lực hữu dụng, nó sẽ làm cho mỗi người nào đọc và hiểu những lời của tôi, trở thành một đệ tử thật sự. Việc tiên phong của những Chân Sư là khai triển nơi đệ tử một ý thức về quốc tế, nó giúp cho họ nhìn thấy tình hình tiếp cận trên toàn cảnh của quá khứ, được làm sáng tỏ bởi sự hiểu biết Thiên Cơ Mầu nhiệm luôn luôn có liên hệ đến tương lai. Những map của kế hoạch tiếp cận đó đang nằm trong tay những đệ tử ngoài trần gian. Sự thi hành kế hoạch đó dưới sự cảm hứng và trợ giúp của những đệ tử ngoài trần gian, vốn do bàn tay của tổng thể những đệ tử chính thức ở khắp nơi thực thi. Các đệ tử của trần gian và những đệ tử chính thức đều không phải là những nhà thần bí mơ tưởng viễn vông hay là những lý tưởng gia vu khoát mà là những người nam và nữ đang tìm cách thực nghiệm một cách mưu trí và trong thực tiễn để làm cho kế hoạch lý tưởng ấy trở nên một thành quả thực tiễn và hữu hiệu trên mặt địa cầu. Đó là việc làm mà tổng thể chư môn đệ đều có thời cơ trợ giúp. Những năng lực của chư môn đệ để trở thành những đệ tử của trần gian rốt cuộc sẽ tùy nơi năng lực tách rời và quên mất phàm ngã của mình. Sự quên lãng này không phải chỉ có liên hệ đến phàm ngã của riêng mình, mà cũng liên hệ đến phàm ngã của những bạn đồng môn, của những kẻ cộng tác và toàn bộ những người chung quanh. Nó cũng sẽ có nghĩa là trong tương lai chư môn đệ sẽ có năng lực phụng sự to lớn hơn mà động cơ thôi thúc sẽ là tình bác ái, nó bốc lên như ngọn lửa thiêng liêng trong lòng chư môn đệ so với kẻ đồng loại .
Có điều cần nêu ra ở đây là những đệ tử thường tự gây khó khăn vất vả cho mình vì họ chưa quên phàm ngã nên họ có một thái độ quá do dự, lo ngại về những thất bại và những thiếu sót bất toàn của mình. Họ quá chú trọng đến nhân sự của nhóm chứ không phải linh hồn của nhóm. Chư môn đệ quá chú trọng đến sự liên hệ giữa phàm ngã chứ không chú trọng đúng mức đến linh hồn của nhóm. Nếu chư môn đệ gạt bỏ sự chỉ trích, vun trồng niềm vui trong sự đối sánh tương quan với nhau và luôn luôn tìm cách tham gia tập thể vào mọi sự ban rải ân huệ tâm linh từ cõi trên để giúp sức trần gian, nếu chư môn đệ tìm cách tiếp xúc với Chân Sư trong cương vị của một nhóm, biết rõ nhóm của mình và đừng lo nghĩ đến sự thành công xuất sắc hay thất bại của việc làm cá thể thì chừng đó chư môn đệ sẽ trợ giúp rất nhiều trong việc làm của Chân Sư. Sự hòa hợp thiết yếu luôn hoàn toàn có thể triển khai giữa những đệ tử khi họ gặp nhau trên bình diện của linh hồn và khi mà việc làm phụng sự cần phải làm mới là yếu tố quyết định hành động chứ không phải làm việc làm đó bằng cách nào. Về điều này mỗi đệ tử đều chịu nghĩa vụ và trách nhiệm riêng .
Chân Sư không đào tạo và giảng dạy một nhóm người nam hay nữ trở nên những đệ tử tốt và biết vâng lời để thi hành ý muốn và mục tiêu của Ngài. Ngài đào tạo và giảng dạy để cho họ được Điểm Đạo và trở nên những vị Chân Sư tương lai và Ngài không khi nào quên mục tiêu này. Bởi vậy, trên cương vị là những đệ tử, chư môn đệ phải tập sử dụng và điều động năng lượng vào lãnh vực phụng sự và đó là một điểm mà chư môn đệ luôn luôn phải nhớ .
Những người được Chân Sư chọn làm đệ tử và mặc dầu họ vẫn còn những điểm thiếu sót của phàm ngã nhưng họ có phần nào ứng đáp với triển vọng của Thánh Đoàn và với những chiêu thức mà những Ngài sẽ dùng để thực thi cái triển vọng đó, Chân Sư biết rõ những ai thừa nhận Thiên Cơ và đang nỗ lực trợ giúp triển khai Thiên Cơ với tổng thể tấm lòng hiến dâng. Khi đó, Ngài quy tụ họ thành một nhóm vì họ cũng có đồng một triển vọng và niềm tin hiến dâng như nhau. Dưới sự cảm hứng và khuyến khích của Ngài, họ hoàn toàn có thể trở nên hữu hiệu hơn trên địa hạt phụng sự mà họ đã tự ý lựa chọn. Bởi vậy những chư môn đệ hãy suy gẫm kỹ càng về những điểm thừa nhận sau đây :
Thừa nhận triển vọng tâm linh .
Thừa nhận Thiên Cơ, vì triển vọng và Thiên Cơ là 2 điểm khác nhau
Sự thừa nhận của Chân Sư so với một nhóm Đạo sinh tự nguyện hiến dâng khi Ngài thâu nhận họ làm đệ tử .
Thừa nhận những ý niệm của Chân Sư như thể những tiềm năng hành vi tương lai .
Thừa nhận bạn đồng môn của mình như những linh hồn và những người phụng sự .
Khi những điều thừa nhận trên đây được hiểu rõ, thì Thánh Đoàn sẽ nhìn nhận một nhóm đệ tử hoàn toàn có thể được sử dụng như một vận hà để chuyển di thần lực, ánh sáng và tình thương từ cõi trên cuống cho trần gian đang đau khổ và cần sự trợ giúp. Chừng đó nhóm đệ tử ấy sẽ có được cái năng lực phụng sự nhưng đó không phải là thế lực do Chân Sư ban bố mà nó là một tiềm năng mà nhóm đệ tử tạo ra cho mình. Quyền năng đó đến với người đệ tử là để ứng đáp lại một đời sống chân chính và tình thương ban ra một cách toàn vẹn. Có một định luật tâm linh hoàn toàn có thể thu gọn trong câu này : “ Kẻ nào cho tổng thể sẽ được tổng thể ”. Điều này vận dụng cho từng cá thể cũng như cho cả một nhóm đệ tử của Chân Sư. Phần nhiều những Đạo sinh thời nay không biết hay không nhận thức được định luật đó. Họ không cho ra một cách thoáng đãng và toàn vẹn dù là so với việc phụng sự Thiên Cơ hay so với những kẻ cần sự trợ giúp. Bao giờ mà họ chưa làm được như thế thì họ vẫn còn thu hẹp hiệu năng của họ và khép chặt nguồn ban phát ân huệ thiêng liêng, không những cho chính bản thân họ, mà còn cho cả nhóm nói chung. Vì đó mới có yếu tố nghĩa vụ và trách nhiệm được đặt ra. Bí quyết của sự phát tâm hiến dâng toàn bộ mọi tài nguyên cá thể cho việc phụng sự Thiên Cơ môt cách tự nhiên không dè dặt. Khi người đệ tử cố gắng nỗ lực một cách vô hại trong tư tưởng, lời nói và việc làm và khi y không giữ lại một vật gì cho riêng mình mà cung hiến toàn bộ, sức khỏe thể chất sức khỏe thể chất, tình cảm, thời giờ, công lao và toàn bộ mọi tài vật một cách sung sướng, thì chừng đó y sẽ có toàn bộ những gì thiết yếu để thi hành việc làm, và điều này cũng vận dụng cho tổng thể những kẻ phụng sự. Định luật tâm linh là như vậy. Người đệ tử chưa hoàn toàn có thể đạt tới mức toàn thiện, điều đó khỏi phải nói, nhưng y hoàn toàn có thể nỗ lực nhiều hơn để cung hiến và phụng sự .
Bởi vậy, chắc như đinh sẽ đến lúc mà chư môn đệ, với tư cách cá thể cũng như tập thể sẽ đặt cuộc sống mình tùy thuộc vào nhu yếu của quả đât và ý muốn của Chân Sư. Chư môn đệ sẽ đạt tới điểm đó một cách tự nhiên không cần phải nỗ lực khó nhọc. Chư môn đệ sẽ cung hiến mà không cần phải thắng lợi cái khuynh hướng ích kỷ. Chư môn đệ sẽ quên cái xác thân mà không còn chú trọng đến nó quá nhiều ( với tác dụng là nó sẽ có sức khỏe thể chất lành mạnh hơn ). Chư môn đệ sẽ suy tư chứ không đắm chìm vào quốc tế xúc cảm, sẽ sống lành mạnh và khôn ngoan, đặt việc làm của Chân Sư và ý thức phụng sự lên số 1. Đó là việc làm gì ? Cung ứng một nhóm người phụng sự khôn ngoan và tự nguyện để hoàn toàn có thể triển khai những kế hoạch của Thiên Cơ, thiết lập trên trần gian một điểm tập trung chuyên sâu thần lực cho Thánh Đoàn sử dụng để trợ giúp quả đât, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng cục bộ lúc bấy giờ. Những kế hoạch của Thánh Đoàn thể hiện ý chí của SHAMBALLA hoàn toàn có thể hoặc là hữu thức hoặc là một sự cung ứng vô thức tập thể so với ấn tượng thiêng liêng. Trong giới đệ tử của trần gian, sự cung ứng và hoạt động giải trí kế đó là những hoạt động giải trí hữu thức và đưa đến những việc làm mưu trí, sáng suốt .
Nhiệm vụ của Chân Sư là không khêu gợi nơi những đệ tử một tình thương dâng hiến sâu xa và nhận thức thời cơ hiện tại đến một mức làm cho những góc nhìn phàm ngã của họ bị lu mờ biến tan trong tâm thức và khiến cho họ chỉ bận rộn với ý nghĩ “ Tôi phải làm việc làm phụng sự gì ngay giờ đây ? ” Ai là kẻ mà tôi phải trợ giúp ? Công việc của những Chân Sư có những góc nhìn nào mà tôi phải nỗ lực trợ giúp nhiều nhất trong lúc này ? Những dấu hỏi đó phải được giải đáp một cách bình tĩnh, sáng suốt và không cuồng tín .
Nói về con đường của người đệ tử, có vài điểm mà tôi muốn nhắc nhở chư môn đệ. Sau khi suy gẫm, chư môn đệ sẽ nhận thấy rằng ý niệm của mình về yếu tố ấy có phần nào biến hóa nhưng đồng thời cũng được dồi dào hơn .
Điểm tiên phong là những đệ tử chính thức đang được huấn luyện và đào tạo để chuẩn bị sẵn sàng Điểm Đạo. Trên đường của người đệ tử, nếu họ không hiểu rõ điều này và không trọn vẹn hợp tác thì họ sẽ làm trì hoãn thời giờ Điểm đạo của họ. Việc hiểu rõ sự kiện này được chứng tỏ bằng niềm tin hăng say trong việc phụng sự. Việc làm có kế hoạch là một trong những giải pháp huấn luyện và đào tạo. Trong những tiến trình đầu, người đệ tử thường chỉ chú trọng đến bản thân mình, những phản ứng và thái độ của mình so với Chân Sư. Sự kiện rằng họ thao tác trong một nhóm của Chân Sư so với họ có vẻ như là điều quan trọng bậc nhất .
Điểm thứ hai là có một sự dị biệt rất lớn giữa một nhóm của Chân Sư và Đạo Viện của Ngài. Điều này ít khi được nhận thức. Nhiều người hoàn toàn có thể thuộc về một nhóm đệ tử của Chân Sư nhưng không có chân trong Đạo Viện được lựa chọn trong số những đệ tử của nhóm. Trong một nhóm, Chân Sư tiếp xúc và biết rõ người đệ tử và người này đã có trong quá khứ một sự kế hoạch nhất định với Ngài, nhưng đó là sự liên hệ thuộc về cả hai phương diện phàm ngã cũng như chân ngã. Còn trong Đạo Viện, chỉ có những gì thuộc về chân ngã hay linh hồn mới được nhận thấy trong vòng ảnh hưởng tác động của nó. Không một điều gì thuộc về phàm ngã được phép lọt vào đây : phản ứng, xúc cảm, bệnh tật, thể xác, những thiếu sót bất toàn trong tư tưởng và toàn bộ những gì thuộc về vật chất và có dính líu đến đặc thù thấp hèn của con người không khi nào có trong Đạo Viện. Bởi vậy, ở những tiến trình đầu trong việc làm của người đệ tử, hoàn toàn có thể rằng người này sẽ không góp phần được gì vào hoạt động và sinh hoạt của Đạo Viện. Bởi đó, có một định luật nó bảo Đạo Viện so với những số lượng giới hạn thiếu sót của chư môn đệ. Tôi đã dùng danh từ Đạo Viện một cách hữu ý để cho chư môn đệ biết phân biệt giữa một nhóm đệ tử và một Đạo Viện. Một Đạo Viện gồm những đệ tử xuất sắc ưu tú, đã do sự hiểu biết, sùng tín và công quả thật sự của mình mà thoát ra khỏi hàng ngũ của một nhóm để bước vào một TT nội môn là nơi mà năng lượng, minh triết và nỗ lực của Chân Sư được tiếp đón một cách thuận tiện hơn. Muốn vượt ra khỏi nhóm để bước vào Đạo Viện, những đệ tử cần phải phân biệt một cách cẩn trọng giữa những khuynh hướng phàm ngã bậc cao, những sự phân phối với chân lý, với lý tưởng và những phản ứng của chân ngã, minh triết tâm linh và cảm nhận trực giác của họ .
Điểm thứ ba là khi những đệ tử thuộc về thành phần của một Đạo Viện, họ tự đặt mình dưới một áp lực đè nén tăng gia rất nhiều và hoàn toàn có thể tham gia vào việc phân phối năng lượng trên một quy mô lớn hơn trước gấp bội. Ngày nay, viễn ảnh Đức Chưởng Giáo lâm phàm đã đến gần hơn với quả đât, và nguồn thần lực từ SHAMBALLA ban rải xuống TT của Thánh Đoàn càng dồi dào hơn trước, nên đặc thù thụ cảm của quả đât cũng được kiểm soát và điều chỉnh theo nhịp điệu đó và sự khích động tâm linh mãnh liệt hơn cũng đang diễn ra với những tác động ảnh hưởng khác nhau. Điều này cũng làm cho trái đất có một tham vọng và nguyện vọng tâm linh can đảm và mạnh mẽ, kinh khủng hơn. Chư môn đệ đã được biết rằng khi Đức Phật giáng trần nhiều môn sinh đã bước vào hàng ngũ đệ tử chính thức, và nhiều đệ tử đã được điểm đạo ở những quả vị khác nhau. Bởi vậy nên đã có một sự thuyên chuyển về nhân sự trong Thánh Đoàn một trào lưu tân tiến to lớn hướng về SHAMBALLA và đồng thời cũng hướng về quả đât. Khi Đấng Christ Open trên trần gian, cũng có một nỗ lực tựa như và còn lớn lao hơn nữa, cứu cánh đã đưa đến việc quy tụ những đệ tử vào những Đạo Viện Nội môn của Ngài. Cho đến nay, những Đạo Viện này đã được dành cho những đệ tử đã có một lần Điểm Đạo. Trước thời kỳ Đức Christ, chỉ có những đệ tử nào đã được Điểm Đạo lần một và trở nên những Đạo Đồ ( initié ) mới được là thành phần của một Đạo Viện. Tuy vậy, với mức độ thụ cảm tăng gia của trái đất nên đã có quyết định hành động rằng những đệ tử hoàn toàn có thể được thu nhận vào Đạo Viện và có được tiếp xúc trên bình diện trí tuệ và cảm hứng với nhóm Nội môn, và khởi đầu gồm thành phần thuộc vòng ảnh hưởng tác động trực tiếp của Chân Sư .
Đó là cái thời cơ được đưa ra trong thời kỳ này cho những Đạo Sinh và đệ tử dự bị. Cố gắng này hoàn toàn có thể gọi là một sự bành trướng ngoại tại của Đạo Viện. Chư môn đệ đã được cho biết rằng Thánh Đoàn có dự tính phục hưng những tổ chức triển khai huyền môn trên địa cầu. Đây là trong bước đầu hướng về tiềm năng đó. Nếu sự bành trướng ngoại tại phôi thai này thành công xuất sắc và nếu những người tham gia trong đó nỗ lực thao tác với ý thức hợp nhất, tình thương và hiểu biết, và nếu trào lưu này được củng cố can đảm và mạnh mẽ để hoàn toàn có thể chống lại mọi lực lượng phá hoại, thì chừng đó sau này sẽ hoàn toàn có thể tăng gia dân số, quyền lực và quy mô của mọi Đạo Viện. Điều này trọn vẹn nằm trong tay của nhóm. Mỗi đệ tử được tiếp xúc với Đạo Viện chứ không phải của cá thể. Điều này không dễ gì hiện rõ cho đến khi những đệ tử được nhập môn và trở thành những thành phần kết nạp của Đạo Viện. Những đệ tử đó đặt thành một yếu tố khó khăn vất vả nhất định .
Vấn đề nêu ra là bằng cách nào một Chân Sư xây dựng và tổ chức triển khai Đạo Viện, hay nhóm đệ tử nội môn của Ngài mà thành phần nhân sự được tuyển chọn từ những Đạo Sinh của nhóm ngoại môn ? Chắc hẳn chư môn đệ đã hiểu rằng một Chân Sư khi xây dựng Đạo Viện của Ngài cũng triển khai một cách tự động hóa như Đấng Sáng Tạo. Ngài thiền định phác họa trong trí những gì Ngài tím cách phát minh sáng tạo và biểu lộ theo đường lối của Thiên Cơ mới khởi đầu tượng hình. Bằng quyền lực tư tưởng do Ngài tập trung chuyên sâu và tinh chỉnh và điều khiển, Ngài lôi cuốn lại gần Ngài người nào có tâm hồn hòa đồng cùng một tiết điệu với Ngài do bởi cung liên hệ nghiệp quả, trình độ tiến hóa và tình thương nhân loại. Những danh từ “ tập trung chuyên sâu ” và điều khiển và tinh chỉnh gồm thâu cái tuyệt kỹ của mọi kỹ thuật hay giải pháp góp phần vào cái gọi là “ Kho tàng tư tưởng ” hay Đạo Viện. Đó là một sự tập trung chuyên sâu kiên cường, song song với một sự tinh chỉnh và điều khiển can đảm và mạnh mẽ làm cho cái kho tàng tư tưởng đó ảnh hưởng tác động góp thêm phần vào việc phụng sự trần gian với một hiệu lực thực thi hiện hành phát minh sáng tạo. Điều quan trọng mà người đệ tử chính thức phải hiểu là những gì Chân Sư muốn thực thi qua sự trung gian của nhóm đệ tử. Điều này bắt buộc người đệ tử phải tự dò xét xem y có suy gẫm tập trung chuyên sâu và hoạt động giải trí theo những đường lối như của Chân Sư chăng ? Y tiến gần đến mức độ nào với những tư tưởng của Chân Sư ? Do định luật huyền môn, Chân Sư không hề dùng áp lực đè nén hay thế lực để bắt buộc tâm lý của người đệ tử phải hoạt động giải trí hòa hợp với Ngài. Ngài không hề áp đặt ý chí của Ngài so với người đệ tử. Những ước vọng, tham vọng và mong ước của Ngài không nên dùng làm động cơ tinh chỉnh và điều khiển để tác động ảnh hưởng đến cuộc sống của những người mà Ngài tiếp xúc. Ngài hoàn toàn có thể gieo ấn tượng vào trí não họ với những gì Ngài cho là thiết yếu trong những thời kỳ khủng hoảng cục bộ của quốc tế. Ngài hoàn toàn có thể bày tỏ cho họ biết về những gì Ngài thấy cần phải làm. Nhưng người đệ tử phải có quyền tự do quyết định hành động và chứng tỏ sự thành tâm thiện chí của mình. Những đệ tử có chân trong một nhóm của Chân Sư do bởi sự tương đồng ý kiến, dẫu rằng họ cảm thấy và bày tỏ những quan điểm đó không rõ ràng được như Chân Sư và nhìn thấy viễn tượng một cách mơ hồ. Nhưng trên cơ bản, họ cũng có những tin cậy giống nhau và có trách nhiệm mày mò những điểm ý hợp tâm đầu, có ích cho sự cố gắng tập thể, rồi kế đó sẽ trọn vẹn lao vào và dâng hiến cuộc sống cho công cuộc phụng sự chung .
Ở nơi hậu trường của sự cố gắng đó, có sự bảo trợ của Chân Sư, là một TT phát động và phân phối thần lực .
Mỗi Đạo Viện hay nhóm đệ tử nội môn vốn là một kho tàng tư tưởng vài cái nguồn tiếp liệu cho kho tàng đó, là những ý niệm, mơ ước, triển vọng và tham vọng của Chân Sư. Động cơ thôi thúc là tiềm năng chơn thần của Ngài, chịu tác động ảnh hưởng bởi Đấng Cao Cả là sư phụ của Ngài và được tăng trưởng bảo trì bởi kinh nghiệm tay nghề của Ngài. Cái động cơ đó hoạt động khi Minh Triết của Ngài càng tăng và năng lực của Ngài để trợ giúp cho việc thực thi Thiên Cơ đã được dâng hiến, sử dụng và tăng trưởng. Chừng đó, Đạo Viện sẽ trở nên một kho dự trữ tư tưởng rõ ràng, được tài bồi, bảo trì từ cái nguồn sống, triển vọng tinh khiết và ước vọng hiến dâng của nhiều đệ tử .
Mỗi đệ tử có thệ nguyện được nhu yếu góp phần vào kho tàng tư tưởng tinh khiết đó, nếu y làm được như vậy, thì Đạo Viện sẽ hoàn toàn có thể ứng đáp nhu yếu và trợ giúp mỗi đạo sinh vượt qua tiến trình đệ tử dự bị để bước vào quy trình tiến độ đệ tử chính thức. Mỗi TT thần lực có một khu vực ảnh hưởng tác động nhất định và một đạo sinh chân chính, hoạt động giải trí tích cực là một sức mạnh hữu hiệu trong cái TT mà ta gọi là trái đất .
Người đệ tử tự nhiên sẽ đặt câu hỏi bằng cách nào sức mạnh tư tưởng và bản năng tâm linh có liên hệ với nhau, làm cho chúng hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng một cách thiết kế xây dựng, và làm cho chúng tỏ sự liên hệ hỗ tương giữa chúng với nhau ? Trước hết, hãy quan tâm đến sự kiện này là chính cái bản năng thôi thúc người đệ tử cung ứng lời lôi kéo cùng sự rung động và nhóm của Chân Sư. Trong những quá trình sơ khai, bản năng là sự ứng đáp cơ cấu tổ chức sức khỏe thể chất so với ngoại giới gồm có 3 cõi là môi trường tự nhiên tiến hóa của trái đất. Về sau, trên nấc thang tiến hóa, cái trí Open như một cơ quan diễn đạt nhờ đó đặc thù của những cơ cấu tổ chức và ngoại giới được hiểu biết lần lần. Các mối liên hệ trở nên sáng tỏ. Bản năng tâm linh là cái năng lực của linh hồn biết ghi nhận sự tiếp xúc với Thánh Đoàn, mà linh hồn là một thành phần, nội tại, cũng như trong một thể xác những sự ứng đáp do bản năng, những phản ứng và phản xạ tự nhiên của một người đều là những thành phần phối hợp trong một cơ cấu tổ chức sức khỏe thể chất nhất định. Trong trường hợp bản năng tâm linh, chính trực giác diễn đạt và soi sáng cái trí. Sức mạnh tư tưởng như được sử dụng trong hoạt động và sinh hoạt của Đạo Viện, tùy nơi quyền lực của người đệ tử biết tập trung chuyên sâu và nâng cao cái trí hữu thức để tiếp xúc với chân ngã và khêu gợi trực giác. Khi việc ấy được triển khai tốt đẹp mới đến việc hòa hợp ba yếu tố : sự soi sáng của thể trí động lực của chân ngã và linh cảm bằng trực giác. Sự hỗn hợp ba yếu tố này sẽ tạo nên loại tư tưởng hữu hiệu và kiến thiết xây dựng trong việc phụng sự Thiên Cơ, gây ý thức vô kỷ vị tha, khai mở lòng bác ái. Tùy theo năng lực của toàn nhóm nói chung hoàn toàn có thể hoạt động giải trí dưới sự thôi thúc của bản năng tâm linh mà Chân Sư mới thực thi được tốt đẹp những kế hoạch của Ngài qua trung gian của nhóm. Trong định luật thiêng liêng, Ngài không thao tác một mình, Ngài không hề hoạt động giải trí trong sự cô lập một mình. Ngài hoàn toàn có thể gieo cảm hứng dạy dỗ, nhu yếu hợp tác và giúp sức, dìu dắt trong việc làm thiết yếu. Ngài không làm gì khác hơn ngoài những việc đó. Trong chu kỳ luân hồi quốc tế hiện tại, việc làm của Thánh Đoàn tùy một phần nhiều nơi những đệ tử, bởi đó, họ hoàn toàn có thể hiểu tại sao điều chướng ngại ở đầu cuối mà bị Chân Sư loại trừ là sự bực tức. Không một vị Đạo Đồ nào hoàn toàn có thể xây dựng một Đạo Viện thật sự cho đến khi nào mọi năng lực hiểu nhầm, bực tức và chỉ trích đã biến mất. Sức mạnh tư tưởng của một Chân Sư, nếu bị lạm dụng hoàn toàn có thể là một sức mạnh có tiềm năng tàn phá ghê gớm. Ngài phải có vừa đủ sự tự tín trước khi Đạo Viện của Ngài hoàn toàn có thể hoạt động giải trí một cách đúng đắn và bảo đảm an toàn .
Công việc của người đệ tử hầu hết trọn vẹn gồm những chiêu thức sử dụng năng lượng và sức mạnh. Sự học hỏi đạo lý huyền môn là sự khảo cứu về những năng lượng, cùng nguồn gốc và ảnh hưởng tác động của sức mạnh. Một Đạo Viện là nơi mà sự nghiên cứu và điều tra những nguồn năng lượng bước vào một tiến trình thí nghiệm, người đệ tử hẳn là đã ý thức được sức mạnh và năng lượng nào góp thêm phần vào việc cấu trúc nên bản thân y. những năng lượng đó xuất phát từ bên trong con người của y, gây nên những đổi khác và ảnh hưởng tác động nhất định trong hoạt động và sinh hoạt của y trên quốc tế. Khi nào y tự biết mình là sự sống và những đời sống ( như đã đề cập trong bộ Giáo lý Bí truyền ) một tổng hợp những sức mạnh và một năng lượng kiềm chế, thì chừng đó y hoàn toàn có thể là một đệ tử của trần gian và hoạt động giải trí hữu hiệu trong một Đạo Viện .
Bởi vậy khi một đệ tử gia nhập một Đạo Viện và thao tác trong mối liên hệ ngặt nghèo với Chân Sư hơn trước, y khởi đầu cộng tác đến mức tối đa với những bạn đồng môn. Đó là sự tái diễn mối liên hệ giữa “ sự sống ” ( trong trường hợp này là Chân Sư ) và “ những đời sống ” ( trong trường hợp này là những đệ tử ) tức mối liên hệ giữa nguồn năng lượng TW và những sức mạnh phân phối. Xét theo quan điểm của Chân Sư về yếu tố nhóm, có đối tượng người tiêu dùng lưỡng nguyên Open trong sự biểu lộ của nhóm. Chân Sư, trên vị thế là nguồn năng lượng TW, phải biểu lộ xuyên qua những sức mạnh. Xét theo góc nhìn của người đệ tử, một sức mạnh ( chính là y ) được link với những sức mạnh khác ( đồng thời nó phải phân phối với một năng lượng đó là năng lượng của Chân Sư. Sự cung ứng này là do việc thừa nhận có sự tương đương về mục tiêu, về nguồn gốc và đặc thù, nhưng không tương đương trên địa hạt biểu lộ. Bởi vậy Đạo Viện thật ra là một TT quy tụ những sức mạnh được chuyển vận bởi nhiều loại năng lượng trong khoanh vùng phạm vi khu vực tác động ảnh hưởng của Đạo Viện. Những nguyên tắc cơ bản của đối tượng người dùng nhị nguyên được nhận thấy khi năng lượng niềm tin ảnh hưởng tác động trên sức mạnh của chân ngã và sức mạnh của phàm ngã. Nên nhớ rằng Chân Sư biểu lộ năng lượng của chơn thần, còn những đệ tử trong nhóm của Ngài đang tìm cách biểu lộ năng lượng của chân ngã và họ đang thực thi điều ấy một phần nào bằng tình thương và phụng sự. Trong khi đó, họ cũng phát động sức mạnh của phàm ngã do bởi họ vẫn còn bị phàm ngã chi phối trong cuộc sống hàng ngày, mặc dầu họ vẫn có sự ngưỡng vọng về chân ngã. Bởi đó, họ được hữu dụng theo quan điểm của Chân Sư. Đồng thời đó cũng là nguyên do của mọi sự khó khăn vất vả và đôi lúc của sự thất bại trên đường hành đạo của họ .
Bởi vậy, người đệ tử phải dò xét ảnh hưởng tác động của ba loại năng lượng, toàn bộ đều ảnh hưởng tác động vào bản thân của y kể ra như sau :
1 ) Những năng lượng thuộc về đặc thù riêng biệt của y ( sức khỏe thể chất, xúc cảm và trí năng ) và những năng lượng đến với y từ chân ngã ( hay linh hồn )
2 ) Những năng lượng đến với y từ những bạn đồng môn trong nhóm hay Đạo Viện. Ảnh hưởng này sẽ tùy nơi thái độ tách rời bản ngã của y và do y dễ cung ứng với những gì đến với y từ những người bạn đạo. Theo định luật huyền môn, khi tình thương của ta càng sâu đậm, ta càng hoàn toàn có thể phân phối và dung nạp thuận tiện những quan điểm, đặc thù và năng lượng của những người đồng loại. Điều này cũng đặc biệt quan trọng vận dụng cho một nhóm đệ tử. Phần nhiều những đệ tử không có sự ứng đáp bén nhạy so với kẻ khác, là vì họ quá chú trọng đến bản thân và quá lo chăm nom đến sự văn minh cá thể của họ .
Những năng lượng đã thăng hoa xuất phát từ Chân Sư hay là được Chân Sư dụng tâm chuyển đạt cho người đệ tử .
Mục đích của mọi công việc làm của người đệ tử dù là trong nhóm hay Đạo Viện là sự biểu lộ của hành vi phát minh sáng tạo tập thể. Điều này được tóm tắt trong câu “ Sự sống và những đời sống ” đã nêu ra ở trên. Một ý niệm tương tự như với những ảnh hưởng tác động liên hệ được nhận thấy rõ trong việc Chân Sư ( trong cương vị ý thức hay chơn thần ) tự phản ảnh hay giao nguồn cảm hứng cho người đệ tử ( cương vị chân ngã hay linh hồn ) và do đó người đệ tử hoàn toàn có thể chứng tỏ sự hoạt động giải trí của chân ngã trên cõi hạ giới .
Chúng ta hãy xem xét đặc thù của một nhóm đệ tử của Chân Sư nhiều lúc gọi là Đạo Viện, trong nhiều cụ thể hơn. Tôi muốn định nghĩa chữ Đạo Viện để chư môn đệ có một ý niệm rõ ràng về sự khác nhau giữa một nhóm đệ tử đặc biệt quan trọng của Chân Sư và nhiều nhóm ngoại môn khác. Những nhóm này tuy cũng hoạt động giải trí dưới sự dìu dắt của Ngài và có mục tiêu phụng sự Thiên Cơ, nhưng không nhất định được gọi là Đạo Viện .
Một Đạo Viện là một sự hỗn hợp nội tại những chân ngã chớ không phải phàm ngã, hội họp chung nhau vì mục tiêu phụng sự. Đó là sự hòa hợp những hoạt động giải trí riêng biệt vào thành một tập đoàn lớn. Tập đoàn này được hợp nhất về phương diện mục đích và triển vọng, nhưng thường có những chiêu thức và kỹ thuật khác nhau. Công việc của Đạo Viện là trình diễn cho trần gian những mục tiêu phụng sự được triển khai cách nào cho tương thích tối đa với năng lực của người đệ tử, dưới “ ấn tượng ” của Chân Sư, và với sự hợp tác của toàn nhóm của Ngài. Một nhóm đệ tử không cam kết làm cùng một loại việc làm giống nhau theo cùng một chiêu thức và cùng đồng một lúc. Họ cam kết thao tác dưới cảm hứng của chân ngã, dưới sự tinh chỉnh và điều khiển, chỉ huy của linh hồn và được tăng cường bởi sự tiếp xúc với Chân Sư và tiếp xúc giữa họ với nhau. Họ có liên hệ với nhau bởi họ cùng đồng có chung một triển vọng, một tiết điệu rung động cộng với sự tương thân tương kính và nhất là sự trọn vẹn tự do .
Một Đạo Viện không phải là một nhóm người hoạt động giải trí dưới sự bảo trợ của một Chân Sư. Đây là một điều quan trọng cần nhớ. Như đã nói ở trên đó là một điểm từ điểm cao độ một sự hỗn hợp những năng lượng, nhắm vào một TT hội đồng và gồm có 2 yếu tố từ điển .
1 ) Một động lực thống nhất nhắm về sự hội họp tập thể trên cõi trí tuệ ( thượng giới ). Điều này tương hợp trên một bình diện cao hơn với bản năng quần tụ của loài thú và của loài người nhưng thuộc đặc thù tâm linh và được thôi thúc bởi một động cơ khác hẳn. Bản năng quần tụ thấp hơn của loài cầm thú phần nhiều được thôi thúc bởi động lực của bản năng tự vệ. Bản năng quần tụ cao hơn của loài người là do động cơ thừa nhân tính chất bất diệt của linh hồn, và bản năng phụng sự mặc dầu phải quyết tử bản thân mình. Định luật “ chết để mà sống ” quản lý mọi sự. Khi sức mê hoặc từ điển của nhóm đủ mạnh thì sự sống của phàm ngã tự tiêu diệt. Bởi vậy khi mà nhóm đệ tử trong toàn bộ mọi thành phần, chưa biểu lộ được cái động lực quyết tử hướng ngoại nói trên thì nó vẫn chưa phải là một Đạo Viện .
2 ) Sức hấp dẫn từ điển của điểm tích cực ở tại chính TT của nhóm. Đó là sức mê hoặc từ điển của Chân Sư. Như chư môn đệ đã biết, tối thiểu trên kim chỉ nan ở TT Đạo Viện luôn luôn có một Chân Sư hoặc một Đạo Đồ hoặc một đệ tử của trần gian. Vị ấy có trách nhiệm hòa hợp kết nạp những năng lượng do những đệ tử trong nhóm cung hiến vì lý tưởng phụng sự, và chỉ định cho họ những công tác làm việc phụng sự trên những địa hạt khác nhau. Phương thức hoạt động giải trí thuần bản năng tính ấy được gọi là sự vâng lời bậc trưởng thượng trong huyền môn, nó được tự nguyện đáp ứng và hàng loạt tuân theo. Khi một nhóm ( dưới sự tinh chỉnh và điều khiển của một Chân Sư ) được thôi thúc bởi một động lực tâm linh và hoạt động giải trí xuyên qua một tổ chức triển khai cố định và thắt chặt ( giống như âm điện tử xoay chung quanh một nhân có điện dương trong một nguyên tử ) thì tiềm năng của nhóm sẽ trở nên hữu hiệu cấp thời chứ không phải trước đó .
Đến đây, tôi muốn chỉ cho chư môn đệ thấy rằng sự tương qua giữa một Đạo Viện nội môn với một nhóm đệ tử ngoại môn cũng giống như mối đối sánh tương quan giữa chân ngã và triển vọng của nó so với người đệ tử riêng biệt hoạt động giải trí, với những hạ thế của phàm ngã. Đó là một nơi để sử dụng nội tâm. Bởi vậy những đệ tử hoàn toàn có thể nắm vững sự tân tiến của mình khi hướng về sự kết hợp thành một Đạo Viện, bằng sự tăng trưởng nhãn quang tâm linh để nhận thức tiềm năng nội tại của nhóm và tăng trưởng năng lực tiếp xúc thuận tiện với Chân Sư, trong cương vị cá thể cũng như tập thể .
Một trong những việc làm mà Chân Sư phải làm là dạy những đệ tử nghiên cứu và điều tra và ghi nhận trung thực điểm tập trung chuyên sâu thường lệ của họ làm hằng ngày. Đó là công phu hồi quang phản chiếu thật sự, và nếu được tập luyện một cách khôn ngoan sẽ đưa đến sự nhận định và đánh giá tâm thức nội tại chân thực và trường cửu. Nó cũng thừa nhận nhu yếu thắng đoạt sự thiếu sót số lượng giới hạn ( thường không phải những sự thiếu sót được ghi nhận ) và nhu yếu phá vỡ những chướng ngại của phàm ngã. Toàn bộ phương pháp này hoàn toàn có thể tóm tắt trong những lời sau đây : Mục đích của Đạo Viện là sự hành đạo trong đó là giúp cho người đệ tử sống một đời sống chân thực trên mọi cõi giới mà y đã khai mở được cho hoạt động giải trí tâm thức của mình. Nên nhớ rằng không một người nào được nhận vào một Đạo Viện trước khi ý đã vượt qua khỏi số lượng giới hạn tâm thức riêng biệt, trước khi y đã nhạy cảm so với cung và đặc thù của Chân Sư và trước khi y có được cái ý thức về chân ngã .
Sự thực hiện những điều này đặt thành một yếu tố nghĩa vụ và trách nhiệm lớn. Việc đảm đương nghĩa vụ và trách nhiệm ấy đưa đến những tín hiệu tiên phong của điều gọi là “ Tâm thức Đạo Viện ”, một tâm thức trọn vẹn không vị ngã và luôn luôn chú trọng đến những điều cơ bản của sự hoạt động và sinh hoạt tâm linh .
Những điều bận tâm của người đệ tử vào lúc khởi đầu công phu tu luyện có một đặc thù rất phức tạp về đời sống trong Đạo Viện thường chỉ là một toàn cảnh lý thú cho kinh nghiệm tay nghề và sự sống hàng ngày, chứ không phải là cái yếu tố có tầm mức quan trọng như nó phải có. Những nhu yếu về sinh kế, những sự tiếp xúc với mái ấm gia đình, sự bất mãn về cuộc sống và những va chạm phũ phàng của đời sống, sự không ưa bị chỉ trích và hiểu nhầm, những áp lực đè nén của sự khai mở tâm linh và những việc nhỏ mọn của đời sống hàng ngày, thường là những điều bận trí quá lớn, đến nổi đời sống Đạo Viện chỉ là một nguồn cảm hứng thoáng qua một đôi khi thay vì là một tập quán hoạt động và sinh hoạt cố định và thắt chặt. Khả năng so sánh có đặc thù bất lợi chân ngã kẻ khác ( nhất là cho những bạn đồng môn hay cho thực trạng riêng của mình ) sự sợ sệt phải quyết tử quá nhiều cho đời sống của Đạo Viện, sự do dự quan ngại cho tương lai và bao nhiêu hình tư tưởng khác nữa, cộng với sự chú trọng quá đáng vào sự hoạt động và sinh hoạt chu kỳ luân hồi của thể xác, đặt trước Chân Sư một hình ảnh với những khó khăn vất vả chướng ngại thật là kinh khủng mà Ngài phải đương đầu. Yếu tố về thái độ của Chân Sư là điều mà những đệ tử rất dễ quên chính do họ chỉ thường chú trọng đến bản thân mình cùng những nỗi khó khăn vất vả và phản ứng riêng của họ thôi .
Có điều nên ghi nhận là những đệ tử trong một Đạo Viện rất đặc biệt quan trọng bận rộn về những yếu tố thế sự. Trong cương vị tập thể của một nhóm, họ cam kết làm việc làm trần gian, với tư cách cá thể, họ học tập làm việc làm đó. Những đệ tử tương lai cần phân biệt giữa ảnh hưởng tác động từ điển của nhóm và sự cố gắng có ý thức mà nhóm hoàn toàn có thể làm dưới sự mong ước hợp nhất và sự tinh chỉnh và điều khiển của Chân Sư, để thấu đạt tới trí óc những nhà chỉ huy trần gian đang nắm vận mệnh của quốc tế. Những biến cố bên ngoài, trong một số lượng giới hạn nào đó hoàn toàn có thể tiên liệu trước vì chúng là hậu quả của những nguyên do ẩn tàng chôn sâu trong tiềm thức trái đất. Các biến cố đó hoàn toàn có thể được ghi nhận và trong một số lượng giới hạn nào đó hoàn toàn có thể bị đảo lộn hay khích động bởi tiềm năng của nhóm đệ tử. Đó là một trong những việc làm quan trọng của Thánh Đoàn. Các Chân Sư thao tác trong ánh sáng và trong cõi giới nguyên do. Các đệ tử đương nhiên còn lặn hụp trong cõi giới hậu quả, và do đó còn bị đắm chìm trong ảo giác, ảo ảnh .
Sự tác động ảnh hưởng hữu hiệu của những điểm tập trung chuyên sâu năng lượng tâm linh ở cõi giới, đương nhiên phải hội đủ những yếu tố sau đây :
Một sâu xa, không lầm lẫn để “ nhìn thấy ” trong ánh sáng. Tình thương vốn là động lực khai sáng thật sự .
Khả năng rút lui trọn vẹn trên cương vị cá thể cũng như tập thể, ra khỏi quốc tế của những phản ứng sức khỏe thể chất và những giao động xúc cảm và thuần hoạt động giải trí trên cõi trí tuệ. Ở mức độ đó, người đệ tử tập trung chuyên sâu tâm thức nơi hạ trí, nhưng hướng một cách ý thức về chân ngã và lần lần càng trở nên nhạy cảm so với trực giác, triển vọng và Thiên Cơ cũng như so với linh hồn của nhóm và so với Chân Sư, toàn bộ đều theo cái trật tự ứng đáp như vừa trình diễn .
Kế đó là cái năng lực trên cương vị một nhóm, phác họa cái ảnh hưởng tác động mong ước của tư tưởng bằng cách nào để cho nó thấu triệt đạt tới trí não, tâm hồn của những người mà mình muốn tiếp xúc. Đó là cái năng lực phóng phát hình tư tưởng được cấu trúc cách nào để cho nó thuộc về loại tư tưởng có đặc thù thiết yếu để khêu gợi sự cung ứng và như vậy để hoàn toàn có thể thỏa mãn nhu cầu nhu yếu của những người mà mình muốn giúp sức và nâng cao tình thương. Hình tư tưởng phóng ra sẽ biểu lộ ánh sáng và tình thương, cũng như bộc lộ ý niệm của nhóm đúng như triển vọng mong ước .
Có bao nhiêu người hoàn toàn có thể làm được việc này ? Hiện nay thật sự chưa có bao nhiêu. Các đệ tử thường chú trọng đến sự mong ước giúp sức hơn là kỹ thuật trợ giúp một cách khoa học. Họ phải coi sự mong ước đó như một việc đương nhiên, rồi quên nó đi không nghĩ đến nữa. Tất cả những đệ tử trong lúc này hãy cố gắng nỗ lực có một triển vọng sáng suốt để thừa nhận những người ở chức vụ chỉ huy có nghĩa vụ và trách nhiệm dìu dắt hướng dẫn quả đât thoát ra khỏi vòng nô lệ để triển khai tự do. Hãy trợ giúp họ với tình thương chính do họ ở vị thế của họ hiện thời là do định mệnh cá thể và do sự dìu dắt của chân ngã. Cuộc đời phải được nhận xét đúng đắn và sống một cách thực tiễn, không phải thực tiễn theo ý nghĩa thế tục mà thực tiễn theo quan điểm chân ngã hay linh hồn. Triển vọng của nó vốn trường kỳ và bao quát nên nó nhìn thấy rõ chân tường của cuộc sống .
Chấp nhận sự kiện là một trong những bổn phận tiên phong của người đệ tử. Trong việc trợ giúp quả đât, với tư cách một thành viên của nhóm đệ tử hay Đạo Viện của Chân Sư, sự kiện rằng có những người nam và nữ nắm giữ những chức vụ quyền hành để thực thi Thiên Cơ là một trong những sự kiện tiên phong mà y gặp phải. Y phải đồng ý điều đó với một niềm tin không chỉ trích, không nên khi nào cũng nhìn thấy khuyết điểm mà hãy thông cảm những yếu tố khó khăn vất vả của họ, nhận thức tiếng gọi của chân ngã giữa họ với mình và tiếp tục ban rải cho họ tình thương và hiểu biết. Họ là những đệ tử tân tiến hơn chư môn đệ, tuy rằng điều ấy không ai biết rõ. Họ được đặt dưới ấn tượng của Chân Sư một cách hữu thức hay vô thức. Người đệ tử trung bình không hề làm được gì nhiều trong việc uốn nắn tư tưởng hay tác động ảnh hưởng đến những quyết định hành động của họ. Tự nhiên là tôi đề cập đến những nhà chỉ huy thuộc về những lực lượng của ánh sáng trên cõi hạ giới. Nhưng những Đạo sinh và đệ tử hoàn toàn có thể bảo vệ họ với một bức tường rào ánh sáng và tình thương, đừng gây chướng ngại cho họ bằng những tư tưởng chỉ trích để khỏi tăng cường thêm làn sóng chỉ trích của trần gian. Còn việc toan tính tác động ảnh hưởng đến những nhà chỉ huy lực lượng của chủ nghĩa duy vật thì tôi nhu yếu chư môn đệ dùng làm. Điều này hoàn toàn có thể làm được thuận tiện hơn vì phàm ngã của người đệ tử sẽ tạo nên một cánh cửa lan rộng ra cho việc tiếp xúc. Nhưng họ mạnh hơn người đệ tử trung bình rất nhiều, và thế cho nên, việc ấy vô cùng nguy hại .
Trong thế hệ Bảo Bình sắp đến, sẽ có sự bành trướng ra ngoài Đạo Viện nội tại trên trần gian. Những đệ tử, Đạo Đồ và đệ tử trần gian sẽ gặp nhau lần tiên phong trong lịch sử vẻ vang, sẽ nhìn ra lẫn nhau và nhìn ra Chân Sư của họ trong nhóm của họ. Đạo Viện nội tại là một nơi tập trung chuyên sâu những chân ngã tự do và không số lượng giới hạn. Còn Đạo Viện ngoại tại, dưới sự thí nghiệm tương lai của thế hệ Bảo Bình, sẽ gồm có một sự tập trung chuyên sâu những phàm ngã và chân ngã. Bởi vậy, sự số lượng giới hạn vẫn còn .
Đạo Viện thật sự, mà những Đạo Viện ngoại tại sắp đến chỉ là những phản ảnh không hề nghị luận nghiên cứu và phân tích bằng hạ trí. Nó là một điểm tập trung chuyên sâu của sự thụ cảm. Nó gồm có nỗ lực thiết lập sự tương hợp xuyên qua sự giống hệt thừa nhận lý tưởng, thừa nhận cơ bản huyền nhiệm của đời sống và những định luật chi phối sự hành vi. Tuy nhiên, nó không phải là một nơi thực hành thực tế những pháp môn thiền định vĩnh viễn và thầm lặng, vì nó là một điểm cao thế, tại đó những góc nhìn thâm sâu, bí nhiệm nhất của nền minh triết truyền thống được đem ra luận bàn, đặc thù mối đối sánh tương quan của linh hồn được nhìn nhận và sự hỗn hợp những hào quang cùng sự hòa hợp những tam giác, vẫn triển khai một cách ý thức. Một Đạo Viện là cái tâm trạng của một nhóm tâm linh, một điểm tư tưởng hợp nhất, một TT làm sáng tỏ triển vọng chứ không phải một TT hoạt động giải trí theo những chiêu thức của trần gian. Tuy những đệ tử tập kết hợp với nhau trong Đạo Viện của Chân Sư, họ nhận thấy rằng điều thứ nhất mà họ phải làm là thiết lập sự điều hòa cơ bản giữa họ với những bạn đồng môn và tăng cường mối liên giao giữa linh hồn của họ với nhóm và với Chân Sư. Chừng đó, bằng sự tranh luận và thí nghiệm, họ sẽ khám phá đặc thù của những năng lượng mới đang tìm cách biểu lộ ra ngoài trần gian và đặc thù của những lực lượng phải được hóa giải, nếu những năng lượng mới này cần phải tác động ảnh hưởng hữu hiệu để đem lại những đổi khác mong ước theo kế hoạch của Thiên Cơ .
Họ cũng sẽ được biết rằng, với tư cách cá thể khác biệt, không có một sở trường hay sở đoản nào trong tâm tính của họ thoát ra khỏi tầm mắt dò xét của toàn nhóm. Như vậy họ sẽ có thời cơ lột bỏ toàn bộ những lớp màn che dấu, ngăn cản sự chói rạng của ánh sáng chân ngã. Mục tiêu của việc làm trong Đạo Viện của Chân Sư là thực sự, khi những đệ tử thao tác bằng cách đó từ TT ánh sáng, hiểu biết về chân lý, trong đó càng ngày họ càng phối hợp ngặt nghèo hơn, thì họ lại càng tăng gia hiệu năng phụng sự lên gấp bội. Trên cương vị của một nhóm tập thể, họ sẽ biết những gì cần phải làm và cứu cánh sẽ thành tựu như ý muốn .
Nhiệm vụ chính của Chân Sư trong những quá trình đầu của việc giảng dạy đệ tử là chấm hết thời kỳ mà người đệ tử chỉ bận rộn những ý nghĩ cá thể, với công việc làm, với phản ứng so với Chân Sư, hay với sự hứa hẹn tiếp xúc với chân ngã trong tương lai, với những ý nghĩ riêng tư về con đường đệ tử và những sự diễn đạt chân lý theo ý niệm cá thể của y. Chân Sư quy tụ một nhóm đệ tử có những thành kiến cố định và thắt chặt mà họ trọn vẹn chắc là đúng, vì đó là những gì tốt đẹp nhất và cao quý nhất mà họ ý niệm từ trước nay. Họ cả quyết chắc như đinh rằng họ đã tới quá trình mà họ đã ghi nhận vài ý niệm và giá trị tâm linh nào đó, đã đồng cảm chân lý đến một mức độ nào đó và sốt sắng mong mỏi, vượt lên bậc thang tiếp nối. Bởi vậy, việc làm tiên phong của Chân Sư là phá vỡ những thành kiến đó, làm cho họ ý thức sâu xa về tính cách hư giả, không ổn định của những công thức và hình tượng của hạ trí thấp kém và chuẩn bị sẵn sàng cho họ đảm nhiệm những đường lối mới hơn và cao hơn khả dĩ đưa đến chân lý. Điều này thường được triển khai bằng cách bắt buộc họ duyệt xét lại toàn bộ những Tóm lại đã có trong quá khứ .
Tất cả tất cả chúng ta là những đệ tử và đạo đồ ở mọi trình độ cấp đẳng đều phải bước vào nơi bí nhiệm của cuộc Điểm Đạo với một ý thức mù quáng ( hay lạc mất đường lối ) và với một cảm xúc trọn vẹn đơn độc. Người đệ tử nên nhớ ằng y phải trở nên một điểm di động và từ đó thành một đường thẳng, y tiến lên hàng ngũ Thánh Đoàn và khoác lấy một thái độ tâm linh đúng đắn. Nhưng đồng thời y cũng giáng thấp xuống vực sâu của những nỗi khó khăn vất vả và tội lỗi của quả đât nếu cần. Trong khi đó y vẫn gìn giữ toàn vẹn thái độ tâm linh của mình, nhưng sẽ học được ba bài học kinh nghiệm quan trọng sau đây :
1 ) Nhìn nhận rằng mình cùng san sẻ toàn bộ mọi khuynh hướng của con người. Tốt cũng hư xấu và do đó, y hoàn toàn có thể phụng sự .
2 ) Nhận thức rằng điều mà y sợ hãi và ghê tởm nhất chính là điều đang ngự trị can đảm và mạnh mẽ trong tâm hồn y, nhưng chưa thể hiện ra ngoài. Y cũng thấy rằng y còn phải thám hiểm và khám phá những khu vực sợ hãi và ghê tởm đó trong tâm thức của y để làm thế nào cho cứu cánh chúng sẽ trở nên một điều tốt đẹp, thay vì là điều dở cần phải tránh. Y tập đức vô úy, lòng không sợ sệt, y là toàn bộ mọi sự, y là một người nhưng cũng là một nhà thần bí, một nhà huyền học, một đạo gia và một đệ tử. Bởi vì y đã khai mở tổng thể những trạng thái tâm thức đó, nên cứu cánh y trở nên một Chân Sư .
3 ) Nhận thức sự vô lý của những thái độ xử kỷ tiếp vật và lối sống đã qua thường địa thế căn cứ trên truyền thống cuội nguồn và thực trạng, có đặc thù ngăn cách chia rẽ y với người khác .
Khi người đệ tử thật sự học được ba điều ấy, y trở nên một vị cao đồ .

Trong khi học hỏi về những quy trình tiến độ trên đường đạo mà toàn bộ mọi người phải đi qua, tất cả chúng ta sẽ nhận thấy một điều là đời sống hàng ngày của người đệ tử sẽ toát ra một tác động ảnh hưởng tốt đẹp. Ảnh hưởng đó xuất phát từ “ cõi giới ý nghĩa ”, trong đó người đệ tử tập sống có ý thức và tiếp tục. Một trong những yếu tố của Chân Sư liên hệ đến đệ tử là dạy cho họ biết ý nghĩa sâu xa của những sự vật quen thuộc và tầm mức quan trọng của những chân lý tiềm tàng bên trong tổng thể những vấn đề tầm thường. Đó có lẽ rằng là việc khó khăn vất vả nhất vì sự phản ứng cố hữu của người đời so với những sự vật quen thuộc và chính bới cần phải làm 2 điều : chứng tỏ rằng vật quen thuộc có ẩn dấu một thực sự quan trọng, và bằng cách đi sâu vào cõi giới ý nghĩa, người đệ tử thấy rằng y hoàn toàn có thể bước vào tiến trình đầu của thời kỳ chuẩn bị sẵn sàng đệ tử chính thức .
Giai đoạn đầu mà tất cả chúng ta phải điều tra và nghiên cứu là quy trình tiến độ “ Tiểu đệ tử ”. Bàn về quy trình tiến độ này cũng như tổng thể những quy trình tiến độ khác, hãy nên nhớ rằng tôi muốn đề cập yếu tố trên góc nhìn việc làm của Chân Sư, chứ không phải trên góc nhìn việc làm của người đệ tử, đến nổi sự quá quen thuộc với đề tài làm cho người ta không có được sự thẩm định và đánh giá đúng mức. Sự cố gắng khám phá đã được tập trung chuyên sâu vào người đệ tử cùng những yếu tố tính hạnh và bản ngã của y. Tôi không hề giãi bày việc này trong từng chi tiết cụ thể. Tôi chỉ có dự tính trình giãi đến mức tối đa bằng cách nào một Chân Sư sẵn sàng chuẩn bị cho người đệ tử trên đường dự bị bước vào con đường nhập môn. Tôi sẽ nói về thời kỳ gồm có luôn những tiến trình trên con đường đệ tử từ tiến trình tiên phong đến quá trình siêu phàm. Ở tiến trình thứ tư, người đệ tử thoát ra ngoài nhóm của Chân Sư và trở nên một góc nhìn cố định và thắt chặt của Thánh Đoàn, theo danh từ huyền môn. Đó là một câu trọn vẹn không có ý nghĩa so với chư môn đệ. Khi đó y bước vào vòng tác động ảnh hưởng của SHAMBALLA, và chiêu thức chuẩn bị sẵn sàng cho người đệ tử có sự tích hợp với TT tiên phong đó rất khác với việc sẵn sàng chuẩn bị cho họ tham gia vào việc làm của TT mà tất cả chúng ta gọi là Thánh Đoàn. Một đằng thì chủ trương tăng trưởng tình thương và tâm thức tập thể, còn một đằng thì chủ trương tăng cường ý chí và đạt tới quá trình mà Đạo PATANJALI gọi là “ sự hợp nhất cô lập ”. Đó cũng là một câu trọn vẹn không có ý nghĩa nữa so với người nào còn ở dưới trình độ được ba lần điểm đạo. Trong cuộc tham luận này, tôi sẽ không nói đến việc chuẩn bị sẵn sàng cho những cuộc điểm đạo và những điểm khác nhau của chúng. Tôi sẽ nói về sự tăng trưởng của cái gọi là sự “ thân thương tâm linh ” trong Đạo Viện đề cập đến thái độ của người đệ tử so với quốc tế linh hồn và sự khai triền tâm thức của y trong mối đối sánh tương quan một liên hệ với Thánh Đoàn. Tôi sẽ chú trọng đến việc tăng trưởng năng lực phát minh sáng tạo của y, không phải phát minh sáng tạo hình thể mà là sự phát minh sáng tạo sự rung động, tác động ảnh hưởng của nó so với quốc tế loài người và sự Open sau đó của những cơ phận cung ứng khác hẳn với những hình thể phát minh sáng tạo. Chư môn đệ hãy suy gẫm về tư tưởng này .
Sự tăng trưởng năng lực nhạy cảm là một điều khó hiểu. Các thành viên trong một nhóm hay Đạo Viện của Chân Sư phải ngày càng trở nên nhạy cảm, nhạy cảm so với Chân Sư và so với những cộng tác viên đã phát hiện của Ngài. Người ta không hề trở nên nhạy cảm bằng cách dùng những giải pháp nọ kia bằng công phu tập luyện. Mọi người đều nhạy cảm, nhưng họ không biết đó thôi, vì họ quá bận rộn với những yếu tố thế tục, với sự sống sức khỏe thể chất và ngoại vật của trần gian. Tôi thử đặt lại câu nói ấy như sau : những gì chư môn đệ nói với chính mình và với kẻ khác, bằng lời nói hay bằng cách hoạt động và sinh hoạt hàng ngày, thật là ồn ào đến nổi chư môn đệ không dễ gì mà hiện rõ chân tướng của mình và được nhìn nhận như một thực thể tâm linh. Chân Sư được dìu dắt bởi những gì Ngài biết về người đệ tử trong những giờ phút ngưỡng vọng yên lặng, bí mật bởi những khuynh hướng hoạt động và sinh hoạt cố hữu mà người đệ tử đã chứng tỏ trong nhiều năm và bởi cách phản ứng của y trong những cơn khủng hoảng cục bộ hay dịch chuyển. Nhiệm vụ của Chân Sư là khích động người đệ tử để cho y giữ vững những khuynh hướng tốt đẹp cao quý nhất của y vào bất kể khi nào chứ không phải vào những lúc ngẫu hứng nhất thời mà thôi. Đó là vì trần gian đang cần cấp bách những người phụng sự mưu trí, ưu tiên, vô ngã và tân tiến, nhất là ở vào thời đại này. Nhiều người đã đạt tới mức độ hoàn toàn có thể trở nên nhạy cảm nếu họ biết dập tắt những ước vọng của phàm ngã và để cho vận dụng chân ngã được tự do chói rạng. Chừng đó họ hoàn toàn có thể làm cho việc làm của Chân Sư được thuận tiện bằng cách chuyên chú một cách hăng say vào đời sống tâm linh và không chú ý quan tâm đến phần cá thể của mình cũng như của Chân Sư. Khi đó sẽ có nhiều giải pháp được bật mý để trợ giúp cho sự tác động ảnh hưởng hỗ tương giữa sư phụ và đệ tử .
Vì tất cà những cung đều là cung phụ của cung thứ hai, tất cả chúng ta sẽ đặc biệt quan trọng chú trọng tới những chiêu thức ảnh hưởng tác động của cung 2 so với những đệ tử. Những giải pháp đó là cơ bản của tổng thể những kỹ thuật khác. Những sự dị biệt đó nếu có, là do sự vận dụng những phương pháp tùy theo từng loại cung và tùy nơi việc đặt trọng tâm trên những bí huyệt hay luân xa nhất định nào đó. Hãy suy gẫm về điều này chính bới nó tiềm ẩn nhiều ý nghĩa cho người nào hoàn toàn có thể hiểu nó bằng ánh sáng của trực giác. Tôi sẽ nói về sự liên hệ của Chân Sư và nhóm đệ tử của Ngài so với người đệ tử, chứ không nói nhiều về thái độ của người đệ tử .
Trên cơ bản, thái độ của người đệ tử thật ra không quan trọng bao nhiêu, so với tác động ảnh hưởng và những kỹ thuật tác động ảnh hưởng của Thánh Đoàn so với y. Các hiệu quả sẽ đến một cách đương nhiên, chính do chúng tùy nơi hai yếu tố :
1 ) Yếu tố thứ nhất là ấn tượng của Thánh Đoàn không được áp đặt cho người đệ tử cho đến đến khi nào y đã tự sẵn sàng chuẩn bị vừa đủ bằng sự trì giới, khắc kỷ để cung ứng với ấn tượng ấy, và do đó đã tiến gần đến mức ở đầu cuối của đường đạo .
2 ) Yếu tố thứ hai là sự phân phối tập thể của toàn nhóm. Điều này có nghĩa là cung ứng theo 2 đường lối :
a ) Đáp ứng với nhu yếu của quả đât, hậu quả là đưa đến một đời sống hiến dâng cho việc phụng sự .
b ) Đáp ứng với ấn tượng của chân ngã đưa đến sự nhạy cảm tâm linh .
Khi 2 yếu tố này đã được thiết lập ( dù cho người đệ tử không hay biết trong khi thức tỉnh ). Sự kìm hãm của chân ngã so với phàm ngã trở nên chắc như đinh không hề suy chuyển. Khi đó và chỉ đến khi đó, Chân Sư mới hoàn toàn có thể mở màn ảnh hưởng tác động và sự phân phối sẽ hữu hiệu, thật sự và bền vững và kiên cố. Bây giờ tất cả chúng ta sẽ nghiên cứu và điều tra những tiến trình trên Đường Đạo đã được trình diễn ở tiến trình sơ giãi nơi trang đầu, chương hai .

Giai đoạn 1 – Người đệ tử sơ cơ

Nhiều người đã vượt qua khỏi tiến trình sơ cơ này rất xa. Dấu hiệu tiên phong chỉ rằng một người đã đạt tới tiến trình này ( nhìn từ góc nhìn Chân Sư ) là khi tia sáng lóe ra trong một kiếp nào đó, làm cho sư phụ chú ý đến người ấy. Có thể nói rằng y phải qua 4 sự diễn biến cùng hàng loạt Open thì y mới được Chân Sư chú ý quan tâm .
1 ) Nguyện vọng tâm linh của người ấy trên cõi trần thình lình giúp cho y thức động được chân ngã. Ngay khi việc ấy xảy ra, ánh sáng trong đầu y nhất thời bằng lóe lên .
2 ) Tác động của nghiệp qua trong đời y trở nên tăng gia rất nhiều, và ngoài nghiệp quả cá thể của y, lần tiên phong y tham gia và gánh vác một phần nghiệp quả của nhóm. Sự trả quả song phương này tạo nên một vòng xoáy năng lượng trong hào quang của nhóm và điều này mê hoặc sự quan tâm của Thánh Đoàn .
Điều kế đó không dễ lý giải hay dễ hiểu. Chư môn đệ đã nghe nói linh hồn vốn chìm đắm trong cơn thiền định thâm sâu trong nhiều kiếp, chỉ khi nào phàm ngã được tinh luyện đến một mức độ khả quan, thì linh hồn mới không còn chú ý quan tâm đến những việc nội tại riêng tư của nó, mà mở màn quan tâm đến phàm ngã. Khi việc ấy xảy ra, Chân Sư biết ngay sự diễn biến này mà huyền môn gọi là sự nhìn xuống của linh hồn. Trên đường đạo, chân ngã luôn luôn ý thức sự chiến đấu của phàm ngã và sẽ đến quá trình ( ở khoảng chừng cùng tột của con đường tiến hóa ) mà linh hồn ôn lại những quy trình tiến độ nhập thể và xuất thể của diễn trình tiến hóa .
Năng lực của linh hồn giáng xuống và sức mạnh của phàm ngã đi lên, điều này diễn ra bằng một phương pháp giáng và thăng một cách có ý thức. Đó là phương pháp hành vi của chân ngã dưới động lực thôi thúc của Thiên Cơ, chứ không phải phương pháp của phàm ngã lôi kéo đến linh hồn do bởi nhu yếu khẩn thiết mà sự tuần tự chế dục tạo nên trong tâm thức hạ đẳng của y .
Lần lần đường giao thông vận tải được thiết lập và do đó “ ánh sáng lớn và ánh sáng nhỏ ” được tiếp xúc với nhau một cách có ý thức. Một đường vận dụng và năng lượng được tạo ra giữa 2 khí cạnh thiêng liêng đó. Khi 4 vấn đề trên đây cùng Open, thì chừng đó điều gọi là : “ Các thói quen tâm linh ” khởi đầu hình thành và được tuần tự thiết lập. Ảnh hưởng của chúng rốt cuộc sẽ có ảnh hưởng tác động mê hoặc sự chú ý quan tâm của Chân Sư. Sự tiếp xúc hãy còn quá yếu ớt và ảnh hưởng tác động của chân ngã so với phàm ngã hãy còn quá kém để Chân Sư hoàn toàn có thể trực tiếp giúp sức đạo sinh. Đó là quá trình của mục tập thể và khuynh hướng hoạt động và sinh hoạt tập thể. Người Đạo sinh không có lòng mong ước phụng sự thật tình và vô kỷ. Y chỉ có một ước vọng mơ màng muốn tìm sự giải thoát cá thể, kiện toàn cá thể và niềm hạnh phúc trường cửu cho riêng mình. Điều này phải được đổi khác thành sự giải thoát tập thể, tích hợp tập thể và niềm vui tập thể của toàn nhóm. Bởi vậy quá trình thứ nhất trong việc đào tạo và giảng dạy người Đạo sinh sơ cơ là phó thác cho một người đệ tử hạng sang để hướng dẫn y đem đến cho y sự trợ giúp thiết yếu. Lý do là vì người đệ tử hạng sang này thân mật với người Đạo sinh sơ cơ hơn, y hãy còn chưa được toàn thiện và cũng còn đang tập p. tiến trình này gồm có thời kỳ học hỏi, tìm tòi về giáo lý huyền môn và thường lê dài đến nhiều kiếp. Trong quá trình này, người Đạo sinh thường đổi khác thầy, y chạy từ vị Đạo sư này sang vị Đạo sư khác tùy khuynh hướng, thời cơ và nhu yếu. Y là hiện thân của sự bấp bênh vô định, nhưng y được dò xét cẩn trọng, bởi người đệ tử hạng sang, người này đã vượt qua quá trình lao chao rồi đó. Nhiệm vụ của người đệ tử này là giúp cho người Đạo sinh sơ cơ thoát khỏi tâm trạng không ổn định nói trên, để lần lần bước qua quy trình tiến độ công phu khảo sát nội tại .
Trong suốt thời kỳ này, Sư phụ không quan tâm gì đến những người Đạo sinh. Phải qua một thời hạn lâu dài hơn trước khi người Đạo sinh được đưa đến trước mặt Ngài, vì có một sự tiếp xúc riêng với sư phụ. Thỉnh thoảng người đệ tử giám sát tiến trình sơ cơ này báo cáo giải trình với sư phụ từng kỳ hạn rất hiếm và thưa thớt. Chỉ khi nào người Đạo sinh đã đạt tới một điểm mà y hoàn toàn có thể bước vào ánh sáng của thiên thần, thì sư phụ mới khởi đầu đảm nhiệm việc huấn luyện và đào tạo của y. Chừng đó người Đạo sinh đã sẵn sàng chuẩn bị một cách dứt khoát và không suy chuyển. Điều này diễn ra trong quá trình 3, tức tiến trình đệ tử chính thức. Tất cả những quy trình tiến độ này đều có tương quan đến một cấp đẳng này hay cấp đẳng khác của những cuộc điểm Đạo. Giai đoạn người đệ tử sơ cơ có tương quan đến cuộc điểm đạo thứ nhất. Cuộc điểm đạo này liên hệ đến cõi hồng trần, và cũng như tôi đã nói rõ nhiều lần, một số ít đông người đã qua khỏi từ lâu. Tất cả những đệ tử chân chính đều đã được một lần Điểm Đạo. Sự kiện này được chứng tỏ bởi sự chiến đấu ráo riết của họ để bước vào đời sống tâm linh, để theo con đường quyết định hành động chuyển hướng về đời sống niềm tin. Tôi tin rằng nhiều người sẽ nhìn nhận quyết định hành động đó như động lực cơ bản của đời họ. Giai đoạn này là một sự tương hợp với phương pháp thoát kiếp thú vào thời kỳ châu Lémuria và quá trình đệ tử sơ cơ đôi khi được gọi là tiến trình của “ Lémuria ”, từ đó sẽ đưa người Đạo sinh trải qua tiến trình đệ tử trong ánh sáng của thời kỳ Atlantide đến quy trình tiến độ đệ tử chính thức của thời kỳ Arian ngày này. Đến tiến trình này, lần sẵn sàng chuẩn bị thứ ba và thật sự cho cuộc Điểm Đạo được triển khai một cách có ý thức, chính do khi đó người đệ tử đã trưởng thành trong tâm thức và sẵn sàng chuẩn bị đặt mình toàn vẹn và không chút dè dặt dưới ảnh hưởng tác động và đối tượng người tiêu dùng của Thánh Đoàn .
Tưởng không cần phải nói thêm nhiều về quá trình sơ khai này của con đường đệ tử, tuy nhọc nhằn, khó khăn vất vả nhưng đầy cảm hứng khuyến khích. Nhiều giáo lý đã được phổ cập trên trần gian về yếu tố này với rất nhiều cụ thể về sự tinh luyện, phụng sự và sùng tín .
Tôi muốn lập lại rằng so với đa phần đệ tử trên trần gian và những người đã tiến hóa cao thì họ đã vượt khỏi rất xa tiến trình thứ nhất này từ lâu. Nhiều đệ tử trong thời kỳ này là những đệ tử chính thức, tức là đã bước qua quy trình tiến độ thứ ba, bởi đó họ đã trải qua ba loại kinh nghiệm tay nghề sau đây :
1 ) Giai đoạn “ đệ tử sơ cơ ” nhiều thử thách và lao chao bất định .
2 ) Giai đoạn “ đệ tử trong ánh sáng ”
3 ) Cuộc điểm đạo thứ nhất. Cuộc điểm đạo này luôn luôn có trước quy trình tiến độ đệ tử chính thức. Không một Chân Sư nào thâu nhận vào Đạo Viện của Ngài một người đệ tử chưa triển khai được tâm thức Bồ đề, hay tâm thức của Đức Christ .
Tôi muốn nhắc nhở chư môn đệ tuy rằng trong lúc này, tôi đang đào tạo và giảng dạy nhiều đệ tử khai mở tâm thức lên những trình độ cao siêu hơn, nhưng tôi viết quyển sách này với mục tiêu là để cho những thế hệ tương lai và cho những đệ tử nào trong những năm tới đây sẽ đọc những dòng chữ này để tìm thấy con đường đưa vào Đạo Viện của những Chân Sư. Thánh Đoàn thiết kế xây dựng cho tương lai chớ không bận tâm với hiện tại. Tất cả những khu công trình của Thánh Đoàn đều được thực thi với dự tính mở đường đưa vào một quốc tế thoáng rộng bát ngát hơn. Nhân loại chỉ bận rộn với hiện tại còn Thánh Đoàn hoạt động giải trí và đặt kế hoạch cho tương lai, SHAMBALLA chỉ bận nghĩ đến hiện tại Vĩnh Cửu, đến đời sống nó đã tạo nên quá khứ, trấn áp hiện tại ( tức TT ảo giác ) và bận lo cho tương lai .

Giai đoạn II – Người đệ tử trong ánh sáng

Đây là tiến trình mà tâm thức của người đệ tử dự bị bận lo kìm hãm ảo ảnh, ảo giác và chữa trị nhãn quang thiển cận, xiêu vẹo của những người còn bị chìm đắm trong cuộc sống vật chất, sắc tướng. Người ấy nay đang tập nhìn đời bằng một nhãn quang mới, khắc chế cảm hứng và hoạt động giải trí trong một thực trạng mới, tức là cõi giới ánh sáng .
Chân Sư không hoạt động giải trí trên cõi trung giới như vài phái huyền môn thường nói. Đối với Ngài là những vị đã thắng đoạt ảo ảnh, ảo giác, cõi trung giới vốn không có. Nó chỉ là một ý niệm hư ảo của người Đạo sinh trung bình. Bởi vậy, trong tiến trình này, người Đạo sinh đặt dưới sự dìu dắt, chăm nom của một đệ tử tuy vẫn còn chịu tác động ảnh hưởng của ảo giác, nhưng đồng thời đã ý thức được đặc thù phù du, hư giả của cõi trung giới .
Đây là quá trình của nhiều Đạo sinh trên trần gian thời nay, vì vậy, trước khi nói qua những yếu tố khác, tôi muốn nói về đặc thù của những việc làm mà những sư phụ đang muốn thực thi với những nhóm đệ tử trong thời kỳ khủng hoảng cục bộ của quốc tế hiện tại. Đó là một yếu tố tối quan trọng cho quốc tế theo quan điểm của những Chân Sư. Đừng khi nào quên rằng trong tổng thể sự bàn luận và tìm hiểu và khám phá về Đạo lý giữa tất cả chúng ta, tôi vẫn nỗ lực tối đa để trình diễn quan điểm của Thánh Đoàn một cách đơn giản và giản dị và vừa tầm hiểu biết của người Đạo sinh trung bình .
Đối với những Đạo sinh này, những Chân Sư luôn luôn nỗ lực khơi động “ ngọn lửa tâm linh ” nơi họ để cho họ hoàn toàn có thể tiếp dẫn ngọn lửa thiêng ấy cho quốc tế. Trong thời kỳ hiện tại, trần gian đang chìm đắm dưới những ngọn lửa thiêu đốt của nghiệp quả và trào lưu vật chất. Như mọi người đều biết, phải dùng lửa để trị lửa, và muốn dập tắt cái hỏa ngục điên cuồng đang tàn phá quốc tế ngày này, thì cái đối tượng người dùng phải là ngọn lửa tâm linh mà những đệ tử phải biết sử dụng và phân phối một cách hiệu suất cao. Nhiệm vụ của SHAMBALLA so với Thánh Đoàn cũng có đặc thù giống như thế, nhưng biểu lộ trên một bình diện cao quý hơn. Các Đấng Cao Cả ban rải ngọn lửa thiêng của ý chí. Xét cho cùng, ngọn lửa mà những đệ tử trên trần gian phải sử dụng là ngọn lửa của ý chí ban rải tình thương. Ngọn lửa này không phải như chư môn đệ tưởng nghĩ. Ý chí ban rải tình thương có nghĩa là một tình thương bát ngát toàn vẹn và năng lực ứng đáp nhu yếu vì quyền lợi tập thể theo đúng đường lối và sự khôn khéo trong hành vi. Nó gồm có năng lực hành vi kinh khủng khi cần, do tại người đệ tử có một tầm nhãn quang to lớn và không bị lạc hướng bởi cái tâm lý thiển cận. Y hoạt động giải trí và chuẩn bị sẵn sàng cho tương lai. Nói cách khác, đó là dự tính đầy tình thương, muốn làm “ nẩy lửa ” khích động trần gian với cái ý niệm mới về niềm tin đối sánh tương quan khởi nguồn từ cá thể người đệ tử, mái ấm gia đình và nhóm bạn đồng môn tiếp cận của y. Muốn triển khai sự khích động nẩy lửa đó một cách hữu hiệu, người đệ tử phải vận dụng ngọn lửa đó ở tự bản thân và trong ánh sáng lửa đó y tự nhận xét thấy chân tướng của mình. Ngọn lửa của góc nhìn vật chất ( tức lửa của phàm ngã ) hãy còn quá mạnh và ngự trị đời sống của người Đạo sinh. Nó làm cho cuộc sống họ bất hảo. Hãy nhớ rằng ngọn lửa của trí tuệ là phản ảnh rơi lệch của ngọn lửa niềm tin. Vài đệ tử chỉ dùng ngọn lửa trí tuệ. Trong những lúc ngẫu hứng tốt đẹp, hùng vĩ nhất, họ toan dùng ngọn lửa tình thương để khắc chế ngọn lửa của cái trí phê bình, nghiên cứu và phân tích, nhưng đó không phải là tình thương tuôn tràn một cách tự nhiên mà là một sự cố ý làm ra vẻ dịu dàng êm ả, ưu tiên, một sự khắc kỷ, tự kềm chế một cách khó khăn vất vả để tránh không thốt ra những lời nói chỉ trích bất hảo do cái trí phê bình làm dữ thế chủ động, hoặc tránh không hành vi theo tư dục hay ý riêng mà ngọn lửa trí tuệ đã tạo ra cho họ. Ngọn lửa này luôn luôn được nhắm vào một bạn đồng môn và sự cố tránh việc dùng ngọn lửa ấy đương nhiên tạo ra một hố sâu hay một bức rào ngăn cách. Trong đa số Đạo sinh, không hề có sự biểu lộ tình thương chân thực, mà chỉ có nhiều nỗ lực của phàm ngã để tránh sự chỉ tích. Họ chuyên tâm nỗ lực không chỉ trích. Điều này vốn là một nhu yếu cơ bản và được thừa nhận, chính bới đó là một thái độ đúng đắn và đáng được khen thưởng, khuyến khích, nhưng sự chuyên tâm ấy không địa thế căn cứ trên những hậu quả gây ra cho kẻ khác khi ngọn lửa trí tuệ tai hại buông lung với những ảnh hưởng tác động tàn phá, diệt trừ nó .
Bởi vậy, những Chân Sư mong ước “ thiêu đốt người đệ tử trong ngọn lửa ý chí ” ban rải tình thương để cho y được tự do và để phá vỡ những bức rào ngăn cách sự lưu nhập của nguồn thần lực thiêng liêng. Tại sao vậy ? Bởi vì thời nay chính những đệ tử của trần gian chớ không phải những đời làm ngăn trở sự giáng trần của Đấng Chưởng Giáo và làm vô hiệu dự tính của Ngài. Ngài không dám Open cho đến khi nào những đệ tử và Đạo sinh trên trần gian đã triển khai nơi họ những sự đổi khác thiết yếu vì nguyên do “ không có đủ ý chí ban rải tình thương ”. Khi nào ý chí Open thì có hai việc xảy ra :
1 ) Có thể có sự ban bố thần lực trong dịp Đức Chưởng Giáo lâm phàm để trợ giúp sự tiến hóa tâm linh quả đât .
2 ) Đức Chưởng Giáo và những Đấng Cao Cả phụ bậc dưới quyền pháp và ảnh hưởng tác động của Ngài sẽ được đáp ứng một nhóm đệ tử, họ hoàn toàn có thể :
Ứng đáp một cách mưu trí và tiếp đón ảnh hưởng tác động trên .
Phân phối thần lực thiêng liêng do Ngài ban xuống .
Giải thích cho trái đất hiểu rõ những động lực mới, có công dụng đem lại một nhãn quang mới, một trật tự quốc tế mới và những lý tưởng của Kỷ Nguyên Mới .
Chừng đó, sẽ có rất nhiều “ đệ tử trong ánh sáng ” và những đệ tử ở những cấp bậc khác Open. Hiện nay, nhiều người đã có cái nhãn quang linh cảm được ảnh hưởng tác động về việc làm của Đức Chưởng Giáo trong tương lai. Đó là một triển vọng một cuộc Đại lâm phàm, có tính năng chấm hết mọi sự xung động, phiền não, khai mở một Kỷ Nguyên Mới của độc lập và thiện chí, xoa dịu những tâm hồn đưa quả đât vào một quốc tế mỹ lệ và niềm hạnh phúc. Ngài sẽ bộc lộ tham vọng của trái đất. Ngài sẽ yêu quý và trợ giúp một cách thầm lặng những người con ngoan của Ngài và sẽ quét sạch những kẻ bất hảo ra khỏi mặt đất để cho chúng khỏi làm trộn lẫn trở lại nền độc lập quốc tế. Ngài sẽ là người an ủi của quả đât khổ đau .
Tuy nhiên đó không phải là cái viễn ảnh thật sự sẽ xảy ra. Nó địa thế căn cứ trên những tín điều thần học và những ích kỷ của loài người. Nó địa thế căn cứ trên sự lầm than của trái đất và sự mù quáng tâm linh của những Đạo sinh và đệ tử làm cho họ không nhận thức được đặc thù thật sự của tình thương và của Thiên Cơ huyền diệu .
Ngài sẽ đem lại ngọn lửa bác ái. Ngài rao truyền thông điệp của ngọn lửa tinh luyện. Ngài sẽ không rao giảng về “ nước tẩy trần ” như nó vẫn là cái hình tượng được truyền dạy từ trước tới nay, mà sẽ truyền giảng ngọn lửa thiêu đốt và diệt trừ toàn bộ mọi chướng ngại trong tinh chất con người, mọi bức rào ngăn cách giữa người nọ với người kia, giữa những đoàn thể và giữa những vương quốc. Với tư cách là những cá thể, những đệ tử và Đạo sinh, chư môn đệ có chuẩn bị sẵn sàng đặt mình dưới sự thiêu đốt của ngọn lửa ấy chăng ?
Khi một người trở nên đệ tử “ trong ánh sáng ” sẽ xảy ra vài biến chuyển giúp y nhìn thấy cái triển vọng đó rõ ràng hơn và biết mình phải làm gì, do tại ánh sáng sẽ bật mý mọi sự. Những biến chuyển đó là :
1 ) Người Đạo sinh chuyển di tâm thức từ cõi trung giới lên cõi thượng giới và trong khi đó, người đệ tử đỡ đầu sẽ đem đến cho y sự trợ giúp và ảnh hưởng tác động thiết yếu .
2 ) Người Đạo sinh tập phân biệt rõ ràng những cặp xích míc, đối tượng người tiêu dùng nhị nguyên .
3 ) Người Đạo sinh ý thức được rằng cứu cánh là y phải tự giải thoát ra khỏi ảo ảnh, ảo giác và phải trợ giúp trần gian thoát khỏi móng vuốt của nó .
Ba loại biến chuyển này đã được đề cập đến trong một quyển Quy luật dành cho những đệ tử trên đường dự bị .
Những bài học kinh nghiệm tiên phong trong 3 cuộc diễn biến này được truyền thụ cho “ người đệ tử trong ánh sáng ” dưới sự hướng dẫn của một đệ tử hạng sang đã tiến hóa hơn nhiều, tuy chưa đắc quả vị nào. Trong khi đó người Đạo sinh vẫn không hay biết rằng Chân Sư đang quan tâm đến y. Sư phụ vẫn nhận được những báo cáo giải trình tiếp tục của vị đệ tử hạng sang có trách nhiệm chăm nom trợ giúp y. Chính do điều này mà nhiều mới liên hệ cấp đẳng được thiết lập, và sau đó, do việc làm công quả trong Đạo Viện của Chân Sư chứ không phải trên cõi thế tục mà những mối liên hệ đó được củng cố và là một trong những yếu tố tạo nên :
1 – Sự phối hợp với Thánh Đoàn .
2 – Mối đối sánh tương quan ngặt nghèo giữa quả đât với Thánh Đoàn .
3 – Trong hiện tại, số người đã có được mối liên hệ đó tăng gia rất nhiều và những đệ tử cao niên của những Chân Sư đang vô cùng bận rộn với việc huấn luyện và đào tạo Đạo sinh, cũng như với việc tương quan đến tình hình khủng hoảng cục bộ của quốc tế. Những Đạo sinh được huấn luyện và đào tạo trong khuôn khổ đó có một tầm quan trọng thật sự, vì họ là mầm mống của những người phụng sự trần gian trong tương lai. Công việc của những đệ tử hạng sang và Đạo Đồ gồm có ba loại chính và trong khi bận rộn với những việc làm này, họ cũng học được rất nhiều. Ba loại việc làm đó là :
Thiết lập tác động ảnh hưởng từ điển .
Tạo mối đối sánh tương quan TGCM .
Thực hiện những cuộc kiểm soát và điều chỉnh nghiệp quả cơ bản .
Công việc thứ nhất mà những đệ tử phải làm là đồng cảm đặc thù của những Đạo sinh mà họ có nghĩa vụ và trách nhiệm hướng dẫn và thiết lập một khu vực tác động ảnh hưởng để hoàn toàn có thể hoạt động giải trí hữu hiệu và tiếp xúc với Đạo sinh. Trong quá khứ mối liên hệ này là giữa linh hồn với linh hồn và do đó cần có một thời hạn thông cảm lâu bền hơn để cho trí óc người Đạo sinh có đủ thời giờ nhận định và đánh giá đối tượng người tiêu dùng một cách đúng đắn. Ngày nay chiêu thức đó còn vận dụng trong nhiều trường hợp, nhưng nhiều vị đệ tử đỡ đầu còn đang thí nghiệp “ dưới sự tinh chỉnh và điều khiển của Chân Sư ” trong việc tác động ảnh hưởng trực tiếp với người Đạo sinh trên cõi hồng trần, tức là tạo nên mối liên hệ về phàm ngã cũng như chân ngã. Đó là mối liên hệ khó khăn vất vả hơn nhiều, nhưng nó nằm trong kế hoạch mới, nhằm mục đích phát huy cố gắng nỗ lực của Thánh Đoàn ra ngoài trần gian, mà tổng thể những Đạo Viện ngoại tại đang tuần tự hình thành chỉ là một phần. Do phương pháp này, người “ đệ tử trong ánh sáng ” tập nhận diện những vị thành viên của Thánh Đoàn bằng cách nhận ra trước hết những vị đệ tử tiến hóa hơn y và tập nghe lời hướng dẫn và gợi ý của những vị này một cách cẩn trọng. Bởi vậy, chư môn đệ thấy rằng cần phải làm một nỗ lực lớn lao dường nào để tạo nên mối đối sánh tương quan mật thiết hơn giữa hai thành phần quả đât và Thánh Đoàn về cả hai phương diện chủ thể và khách thể .
Tất cả những người nào trong kiếp này từ quá trình “ đệ tử trong ánh sáng ” bước qua tiến trình đệ tử chính thức, đều đã triển khai được 2 điều :
1 ) Nhận diện được vị đệ tử cao niên mà họ đã phát hiện “ trong ánh sáng ” .
2 ) Nhận ra vị Chân Sư của mình. Toàn bộ yếu tố nhận ra Chân Sư sẽ được giảng giải sau .
Phương thức tăng trưởng động tác TGCC là một điều cần được nghiên cứu và điều tra rất kỹ. Tất cả những nhóm đệ tử hoạt động giải trí trong hay ngoài một Đạo Viện, phải tiếp xúc với nhau trong một sự đối sánh tương quan TGCC mật thiết và như vậy để tạo một môi trường tự nhiên đào tạo và giảng dạy cho sự khai mở loại năng khiếu sở trường này. Điều trước nhất cần phải có giữa một nhóm đệ tử là tình thương và sự tin tưởng lẫn nhau, vì nếu không thì không thể nào có sự chuyển di tư tưởng thật sự. Nhóm nào không có được 2 điều kiện kèm theo này thì nhất định phải nỗ lực tập cho được .
Quy luật thứ hai là tuyệt đối tránh mọi sự chỉ trích, phê bình nếu muốn có được một tiết điệu điều hóa thiết yếu trong nhóm. Trong bất kỳ nhóm đệ tử nào cũng có những kẻ không biết đặt yếu tố theo thứ tự ưu tiên. Họ đặt nhiều việc và nhiều người lên số 1, trước những bổn phận và nghĩa vụ và trách nhiệm tâm linh. Điều này đương nhiên tạo ra cho những bạn đồng môn những thời cơ chỉ trích. Có khi sự chỉ trích đó mặc nhiên là việc nhìn nhận thực sự. Điều đó có nghĩa là người đệ tử chỉ trích đã đạt tới điểm mà sự xét đoán của y địa thế căn cứ trên tình thương đến nổi nó không gây nên tác động ảnh hưởng va chạm thuộc về phàm ngã trong đời y hay trong đời của người bạn đồng môn. Đó chỉ là sự nhìn nhận một khuyết điểm do tình thương dữ thế chủ động và nó chỉ trở nên một điều quấy khi nào những việc ấy được dùng để khêu gợi sự chỉ trích của những kẻ xấu hạnh và đặt thành những yếu tố tranh luận. Người đệ tử hay Đạo sinh có những lỗi lầm rõ ràng và không chịu sửa đổi, tạo nên một bức tường rào ngăn cách mà y phải cố gắng nỗ lực hủy hoại bằng cách loại trừ mọi nguyên do khả dĩ tạo thời cơ chỉ trích. Bức rào chướng ngại này ngăn trở sự chỉ trích bằng TGCC .
Đến đây một câu hỏi lý thú hoàn toàn có thể được nêu ra : những đệ tử hoạt động giải trí phải cố gắng nỗ lực vượt lên để theo kịp những đệ tử tiến hóa hơn trong nhóm, hay là họ phải trì hoãn sự tân tiến của họ và hạ thấp xuống cho vừa tầm mức của những kẻ chậm tiến hơn ? Câu hỏi đó là yếu tố cơ bản trong những Đạo Viện và chỉ có những đệ tử mới hoàn toàn có thể vấn đáp .
Về yếu tố kiểm soát và điều chỉnh nghiệp quả, người đệ tử hướng dẫn phải biết vài điều cần yếu. Y phải biết chắc người Đạo đinh được y bảo trợ còn phải trả quả báo gì trong kiếp hiện tại. Khi đó y phải khuyến nghị người Đạo sinh chịu thêm vào cái định nghiệp đó, cái gọi là “ Nghiệp quả giải phóng ”. Đó là chiêu thức cưỡng ép mà người đệ tử nào muốn chọn con đường điểm đạo khó khăn vất vả hơn phải tự nguyện gánh vác do bởi ý chí tự do của mình. Người đệ tử trong ánh sáng cố gắng nỗ lực triển khai những điều sau đây :
Y trả dứt cái định nghiệp của kiếp này một cách mưu trí và ý thức đến mức tối đa .
Y chịu trả thêm vài loại quả báo mà đáng lẽ chỉ đến với y trong một kiếp tương lai .
Y khởi đầu gánh vác không ít nghiệp quả chung của quả đât và như thế tăng thêm nghiệp quả của mình .
Y khởi đầu hợp tác và khám phá về nghiệp quả của trần gian, tuy rằng y chưa gánh vác nghĩa vụ và trách nhiệm gì về yếu tố này .
Sau 2 lần điểm đạo, y mới hợp tác một cách ý thức và trên cương vị cá thể, với nghĩa vụ và trách nhiệm về nghiệp quả của Đấng Tinh Quân quản lý bầu quốc tế hiện tại .
Tôi muốn nói rõ rằng tôi không muốn đề cập đến nghiệp quả tốt cũng như xấu. Nhiệm vụ của người đệ tử hạng sang là hướng dẫn người “ Đệ tử trong ánh sáng ” trong việc kiểm soát và điều chỉnh nghiệp quả của y. Người đệ tử cao niên ấy làm việc làm này bằng cách gieo ấn tượng bằng tư tưởng .
Tất cả mọi nghiệp quả khi đương đầu một cách ý thức, được khích động bằng thế lực của tư tưởng. Đây là một bài học kinh nghiệm lớn mà người đệ tử cao niên phải dạy Đạo sinh. Bằng cách đó người Đạo sinh được trợ giúp nhìn thấy “ Trong ánh sáng ” những gì y còn phải gặp trên bước đường của mình và người đệ tử cao niên sẵn sàng chuẩn bị cho y bước vào tiến trình đệ tử chính thức vẫn tiếp xúc tiếp tục chới Chân Sư. Như thế một mối liên hệ hình tam giác được thiết lập và có một giá trị huyền môn nhất định .
Nếu người đệ tử “ Trong ánh sáng ” thật sự có nhiệt tâm và nỗ lực tăng trưởng sự nhạy cảm tâm linh, thì quá trình này hoàn toàn có thể tương đối rút ngắn, nhiều lúc chỉ trong hai kiếp cũng đủ. Chừng đó người đệ tử bước vào tiến trình thứ ba tức là quy trình tiến độ đệ tử chính thức. Tất cả những tiến trình này đều có liên hệ đến việc làm trong Đạo Viện và sự hoạt động và sinh hoạt của nhóm bên trong. Như chư môn đệ đã biết, nhóm này gồm có những vị đệ tử và Đạo Đồ cao niên và nhiều kinh nghiệm tay nghề, cùng những Đạo sinh sơ cơ và những đệ tử ở những cấp bực văn minh cao thấp khác nhau trên đường đạo. Chính những thành phần đệ tử khác nhau đó đưa đến sự liên hệ hỗ tương giữa những Đạo Viện nội tại và ngoại tại, giữa nhóm đệ tử hoạt động giải trí ngoài trần gian và nhóm bên trong gồm thành phần đông hơn nhiều. Điều này đưa đến một câu hỏi thường Open trong trí của những người trong nhóm ngoại tại và liên hệ một cách rời rạc lỏng lẻo với nhóm bên trong. Mức độ tâm thức của Đạo Viện ngoại tại được quyết định hành động bởi những thành viên của nhóm ấy hay bởi sự liên hệ của nó với toàn thể Đạo Viện mà nó chỉ là vật tương đối nhỏ ? Khi câu hỏi ấy được một thành viên của Đạo Viện nêu ra nó chỉ là một sự bận tâm rõ ràng với những thành viên của nhóm, chứ không phải với cả nhóm như một góc nhìn của Đạo Viện của Chân Sư. Các đệ tử cần nhớ rằng một Đạo Viện không phải chỉ số lượng giới hạn trong số một vài người quen biết và hoàn toàn có thể gặp gỡ nhau như những thành viên của Đạo Viện. Mỗi Đạo Viện là một nhóm Quốc tế gồm có những linh hồn đang chuyển kiếp hay chưa đầu thai. Nó là một sự tổng hợp những vị Đạo Đồ trên nhiều cấp đẳng và những đệ tử chính thức. Các Chân Sư không coi những đệ tử đã được điểm đạo lần thứ nhất như thể những vị Đạo Đồ. Đó là một điểm cần nhấn mạnh vấn đề lại .
Những đệ tử đã được điểm đạo lần thứ hai được coi như “ Đạo Đồ dự bị ” và chỉ khi nào họ được điểm đạo lần thứ 3, họ mới thật sự là những vị Đạo Đồ theo quan điểm của Thánh Đoàn. Cuộc Điểm Đạo lần thứ nhất nhiều lúc được gọi là Điểm Đạo LEMURIA, cuộc Điểm Đạo thứ hai gọi là Điểm Đạo ATLANTIS, nhưng cuộc Điểm Đạo 3 “ Giống dân ARYAN ” lại được những Ngài coi như cuộc Điểm Đạo 1. Đây là góc nhìn mới mà chư môn đệ đã suy gẫm. Theo quan điểm trên, danh từ “ Đệ tử chính thức ” gồm luôn những quá trình Điểm Đạo thứ nhất và thứ hai. Khi người đệ tử được điểm đạo lần thứ ba, y không còn là đệ tử chính thức nữa mặc dầu y vẫn còn ở trong một nhóm của Chân Sư cho đến khi y đã có được 4 lần Điểm Đạo. Tôi muốn nêu ra những chi tiết cụ thể đó để chư môn đệ có một ý niệm dứt khoát và rõ ràng .
Bởi vậy, một Đạo Viện là nơi tiêu biểu vượt trội cho toàn bộ mọi quy trình tiến độ tăng trưởng gồm từ những kẻ tiến hóa nhất cho đến những kẻ sơ cơ, như những người đang đọc những huấn từ này. Điều quan trọng cho mỗi đệ tử trong một Đạo Viện là y hoàn toàn có thể khai mở tâm thức và ứng đáp với âm ba rung động của bầu không khí trong đó chẳng để đừng làm ngăn trở những hoạt động giải trí của Đạo Viện ? Những vị Đạo Đồ và đệ tử tiến hóa cao có nên ngưng tiến, trì hoãn hay hạ thấp mức độ hoạt động giải trí của mình chăng để chờ đón những người thấp kém hơn, để cho những người này có thì giờ và thời cơ tiến lên cho bằng họ ? Câu hỏi đó Kết luận là những đệ tử hạng sang phải chờ đón, hay là những đệ tử sơ cơ làm ngăn trở tiến trình của Đạo Viện ?
Tiêu chuẩn để đo lường và thống kê, cân ngắc không phải là ở một mực cứng ngắc, chết cứng một chỗ và những đệ tử sơ cơ nên biết rằng họ không hề làm chướng ngại cho nhóm đệ tử tiến hóa cao hơn trong Đạo Viện, nhưng họ hoàn toàn có thể tự loại mình ra khỏi vòng hoạt động giải trí, tuy không ra khỏi nhóm. Chỉ có những người chưa sẵn sàng chuẩn bị và đạo tâm chưa vững mới phải chở đợi mà thôi, chứ không phải những đệ tử có đạo tâm vững chắc và thật sự hiến dâng .
Nhiệm vụ của Sư phụ là khích động tối đa cho những đệ tử trong nhóm của Ngài tiếp tục hoạt động giải trí trên mức độ tâm linh. Một số đệ tử trong Đạo Viện hãy còn phải nỗ lực công phu trong những tiến trình đầu để tìm hiểu và khám phá những hỏa lực của cái trí. Những ngọn lửa trí năng này cần phải được hiểu rõ trước hết và dập tắt trước khi ngọn lửa của ý muốn yêu dấu hoàn toàn có thể xâm nhập vào người đệ tử .
Điểm cần phải hiểu rõ là việc làm của Đạo Viện vẫn liên tục, những đạo đồ và đệ tử, với ngọn lửa thiêng phát cháy trong tâm hồn, vẫn liên tục hoạt động giải trí không chướng ngại. Điều này cũng nói luôn về phản ứng cá thể so với những thành viên của Đạo Viện. Nhưng khi mà toàn bộ nhóm đều bốc lửa với tình thương và sống như những chân ngã, thì chừng đó Đạo Viện trở nên một TT năng lượng vô cùng hữu hiệu. Các Chân Sư nỗ lực xây dựng những Đạo Viện là để triển khai càng chóng càng hay sự hợp nhất giữa tình thương và ý chí. Chỉ có kẻ sơ cơ mới bận tâm với những động tác và ảnh hưởng tác động cá thể của y trong Đạo Viện. Còn đệ tử được huấn luyện và đào tạo thành thục thì chú trọng nhiều hơn đến việc làm phải làm và trách nhiệm phải được thực thi mỹ mãn. Trên cương vị cá thể, một đệ tử hoàn toàn có thể đau lòng mà thấy những bạn đồng môn trong nhóm không hiểu hay không kiềm chế nổi ngọn lửa loạn động của trí não, nhưng y vẫn kiên tâm bền trí thao tác với toàn bộ hiệu năng của mình mà lòng không xao xuyến hay dời đổi. Y biết rằng với thời hạn qua, có ngày họ cũng sẽ thoát khỏi sự vọng động của trí não như đã nói ở trên. Trong khi chờ đón, y nỗ lực hóa giải ảnh hưởng tác động của họ và cũng vì đó mà việc làm của y trở nên khó khăn vất vả khó khăn vất vả hơn, nhưng y biết rằng họ cũng đang tiến bước trên con đường hiểu biết, thông cảm. Y cũng biết rằng hiện thời họ không làm gì khác hơn là nhìn thấy nơi y và thậm chí còn nơi cả Chân Sư nữa, chính những đặc thù đang ngự trị trong tâm hồn họ. Đó là chính do tất cả chúng ta nhìn thấy nơi kẻ khác những gì đang ngự trị nơi lòng tất cả chúng ta, dẫu rằng việc đó không hề có, hoặc có trên một mức độ giống nhau. Người đệ tử cần phải đánh giá và nhận định rõ sự dị biệt giữa năng lực nghiên cứu và phân tích bén nhạy và óc chỉ tích. Một Chân Sư không chỉ trích những thành viên trong Đạo Viện của Ngài. Ngài tìm cách nghiên cứu và phân tích dùm họ những điểm chướng ngại làm cho họ mất hiệu năng phụng sự trong việc làm của Đạo Viện. Có một sự dị biệt lớn lao giữa sự trợ giúp một cách thiết kế xây dựng đó và sự chỉ trích địa thế căn cứ trên cái ý thức tự tôn và ưa bươi móc lỗi lầm của kẻ khác .
Mỗi vị Chân Sư đã đạt tới trình độ có một nhãn quang sáng suốt vốn là một ân sủng được ban ra cho những đạo đồ. Ngài tự đồn hóa với nhãn quang đó, tô điểm nó với sắc tố phong phú và đa dạng của Ngài và diễn đạt nó trong khuôn khổ sự góp phần của của Ngài cho đoàn thể. Đó là tuyệt kỹ của cái nhãn quang vô chướng ngại, bộc lộ qua những cố gặng hỗn hợp của Thánh Đoàn, mà một Chân Sư hay một nhóm Chân Sư thực thi trong thời hạn và khoảng trống trên cùng một cung nhất định hay trên nhiều cung khác nhau. Trong những tiên phong của chu kỳ luân hồi nỗ lực hiện tại của Thánh Đoàn ( trong khoảng chừng giữa năm 1825 – 1936 ), trái đất chịu ảnh hưởng tác động sự ảnh hưởng tác động của cung 1. Tác động của cung này đến tột điểm với sự tuyên chiến của Anh Quốc năm 1939, khi lực lượng tàn phá của cung ấy, do sự lạm dụng và điều khiển và tinh chỉnh sai lầm, làm cho Đức Quốc xâm lăng Ba Lan. Năm 1932, ảnh hưởng tác động của cung 2 khởi đầu Open và sẽ liên tục cho đến năm 1945 khi cung 7 từ từ chuyển vận để tham gia. Lúc ấy có 3 cung hàng loạt tạo tác động ảnh hưởng so với trái đất :
Cung 1 ( quyền lực tối cao / ý chí ) tác động ảnh hưởng mạnh .
Cung 2 ( Minh triết / Bác ái ) đạt tới trung điểm và tác động ảnh hưởng cho tới năm 1957 .
Cung 7 ( Trật tự / Nghi thức ) ảnh hưởng tác động hỗn hợp với 2 cung trên tạo nên sự mỹ lệ từ cơn hỗn loạn lúc bấy giờ .
Bởi vậy những đệ tử của Chân Sư RAKOCZI đang bước vào thời kỳ hoạt động giải trí ráo riết. Vận mạng quốc tế nằm trong tay ba nhóm đệ tử đã điểm đạo của những Ngài. Những đệ tử chính thức của ba nhóm ấy được nhu yếu hợp tác với những Ngài, và đó là thời cơ đưa đến cho nhiều đệ tử ở những nơi, vì họ cố gắng nỗ lực để khám phá Thiên Cơ, hợp tác với ba vị Chân Sư và những nhóm Đạo Đồ của những Ngài, nên thời cơ được đưa đến cho họ. Lực lượng tam giác này được những Đấng Trưởng Thượng ở SHAMBALLA phó thác nghĩa vụ và trách nhiệm kiểm soát và điều chỉnh những việc thế sự. Ngoài những việc trên đây, trái đất không được cho biết thêm điều gì nữa vì xét ra không thiết yếu .
Đừng quên rằng Đạo Viện là một lòng chảo sức mạnh và một TT năng lượng xuyên qua đó cả 2 loại thần lực thiêng liêng được hợp nhất và luân chuyển để biểu lộ nguyện vọng tương lai. Sức mạnh và năng lượng này được tinh chỉnh và điều khiển bởi một vị Chân Sư, một nhóm ba vị Đạo Đồ hạng sang và một nhóm khác nữa gồm những vị Đạo Đồ ở cấp thấp hơn. Cách sắp xếp ấy tiêu biểu vượt trội cho một tổ chức triển khai quản trị hành tinh tiểu quy mô ở cấp Đạo Viện, mục tiêu chuyển di thần lực xuống cho những đệ tử chính thức hoàn toàn có thể sử dụng và phân phối một cách bảo đảm an toàn. Năng lực mà những Chân Sư sử dụng đến từ SHAMBALLA. Còn những sức mạnh mà những Ngài dùng để hoạt động giải trí là do Thánh Đoàn cung ứng. Khi những đệ tử chính thức ứng đáp được với những sức mạnh hỗn hợp ấy, thì nó mới hoàn toàn có thể được sử dụng trong việc phụng sự. Nói cách khác, những vị Đạo Đồ trong một nhóm của Chân Sư tiếp thu những năng lượng đến từ bên ngoài. Còn những đệ tử chính thức, qua trung gian của linh hồn họ, tiếp thu và phân phối sức mạnh mà Chân Sư ban phát ra ngoài trần gian theo kế hoạch của Thánh Đoàn, dưới sự mặc khải đến với những Ngài từ SHAMBALLA .
Những vị Đạo Đồ ( đệ tử đã được điểm đạo ) không thú vị điều gì khác hơn là triển vọng tâm linh và sự bộc lộ Thiên Cơ trên trần gian. Những tình thương nhập môn còn đang học hỏi những điều này và trong khi đó họ còn phải ứng đáp với triển vọng đó. Họ bận rộn với sự học hỏi Thiên Cơ và với việc phân phối những năng lượng có công dụng biểu lộ Thiên Cơ .
Như thế, những hoạt động giải trí của Đạo Viện được trọn vẹn phối hợp ngặt nghèo. Những đệ tử mới nhập môn còn đang học tập, hợp tác trong việc phụng sự cũng được sử dụng như những nhân viên cấp dưới thí nghiệm tùy theo phản ứng của họ so với những chân lý được truyền dạy và so với Thiên Cơ, tùy theo năng lực của họ ý thức được nhu yếu và ứng đáp với mọi nhu yếu và tùy theo năng lực hợp tác của họ với những đệ tử của trần gian ( những vị này chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trực tiếp với Chân Sư về một góc nhìn nào đó của Thiên Cơ ) mà họ sẽ thành công xuất sắc hay không trong cố gắng nỗ lực hoạt động giải trí của họ ngoài trần gian .
Như thế một lần nữa, ý niệm về cấp đẳng đối sánh tương quan lại được nhắc nhở cho chư môn đệ phải quan tâm. Trong thời kỳ nhiễu nhương này, chính việc quản lý và điều hành những mối đối sánh tương quan đúng đắn là tuyệt kỹ bộc lộ góc nhìn tiếp cận của Thiên Cơ trên địa cầu tất cả chúng ta. Bởi vậy, Đạo Viện là một TT thí nghiệm, thử thách những mối liên hệ đối sánh tương quan đó .
Một câu hỏi đơn giản và giản dị được nêu ra : làm thế nào những mối đối sánh tương quan đúng đắn hoàn toàn có thể được thiết lập trên trần gian, nếu chính những đệ tử chính thức trong một nhóm của Chân Sư cũng không hề ứng đáp với ý niệm đó và duy trì giữa họ với nhau những mối đối sánh tương quan đúng đắn một cách hàng loạt và không sai chạy. Trong hiện tại, yếu tố này gồm có 3 phương diện. Những mối đối sánh tương quan đúng đắn đó phải được thực thi .
Giữa những đệ tử chính thức, những vị Đạo Đồ và Chân Sư
Giữa những thành viên của một Đạo Viện với những Đạo Viện khác .
Giữa những Đạo Viện này với quốc tế bên ngoài .
Vị Chân Sư của một Đạo Viện và những vị Đạo Đồ hạng sang trong nhóm của Ngài chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về mối đối sánh tương quan giữa SHAMBALLA và Thánh Đoàn. Những đệ tử chính thức và những Đạo Đồ cấp nhỏ hơn chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về mối đối sánh tương quan liên hệ giữa mọi cấp đẳng được giữ gìn ngặt nghèo và bất khả xâm phạm .

Giai đoạn III – Con đường đệ tử chính thức

Trong những loạt huấn từ ngắn ngủi này, tôi không có dự tính nói về tiến trình đệ tử chính thức. Đã có nhiều sách vở được viết ra nói về quy trình tiến độ này. Tôi đã trình diễn đủ mọi góc nhìn thực tiễn về yếu tố đó trong những sách của tôi và tưởng không cần lập lại nữa. Những sách nói về con đường đệ tử do Hội Thông Thiên Học xuất bản đã trình diễn không thiếu về con đường dự bị. Tôi đã giảng giải về con đường đệ tử với nhiều cụ thể .
Những ẩn chứng Open trên con đường đệ tử chính thức đều được biết rõ nhưng không hề miêu tả với nhiều chi tiết cụ thể. Chúng khác nhau tùy mỗi người và tùy nơi cung của y. Chư môn đệ hãy nhớ rằng những ấn tín đó có xảy ra với những mức độ rõ ràng khác nhau và ở những tiến trình khác nhau trên đường Đạo. Như chư môn đệ đã biết đó là :
1 điềm báo mộng
1 lời dạy tượng trưng
Hình tư tưởng của 1 Chân Sư
1 cuộc tiếp xúc với Chân Sư trong cơn thiền định
1 cuộc hội kiến trong Đạo Viện của Chân Sư .
Ba loại ấn chứng tiên phong thường là kinh nghiệm tay nghề của người đệ tử dự bị, còn 2 loại sau cuối là kinh nghiệm tay nghề của đệ tử chính thức. Những ấn chứng đ1o có hình bóng trên cõi trung giới. Trong trường hợp này, chúng không phải là ảo ảnh hay ảo giác mà thật ra là mầm giống hay sự bảo vệ về những kinh nghiệm tay nghề tương lai trên đường Đạo. Nhiều người đã thấy hình tư tưởng của những Chân Sư, vì những hình tư tưởng đó có thật. Họ cũng nhận được những lời dạy tượng trưng trên cõi trung giới hay trên giấc mộng. Khi đó, những kẻ sơ cơ, thiếu kinh nghiệm tay nghề thường hay có thái độ như sau : một là nhìn nhận quá cao kinh nghiệm tay nghề của họ và tin rằng đó là ấn chứng của một trình độ tâm linh cao. Họ mở màn dựa vào ấn chứng đó hoặc coi nó như loại kinh nghiệm tay nghề thông linh thấp thỏi và bất hảo. Người đệ tử chính thức có trách nhiệm lý giải ý nghĩa của loại kinh nghiệm tay nghề đó cho người Đạo sinh sơ cơ. Những đệ tử hoạt động giải trí tâm linh nên nhớ rằng do hậu quả của cuộc chiến tranh, của sự khủng hoảng cục bộ, stress thần kinh và nguyện vọng hướng về KỶ NGUYÊN MỚI, những giấc mộng hay linh thị, những lời dạy tượng trưng, những hình tư tưởng Open đó sẽ tăng gia một cách liên tục và là những ấn chứng của sự tăng trưởng và tăng trưởng. Những kinh nghiệm tay nghề đó là những bảo vệ cho sự lan rộng ra kỹ năng và kiến thức trong tương lai và là những tín hiệu của một thành tính tương đối khả quan của người đệ tử .
Các đệ tử phải luôn luôn nhớ rằng họ văn minh bằng cách giải đáp những câu hỏi của chính tự họ đặt ra. Nhiệm vụ của Chân Sư không phải là vấn đáp thắc mắc mà người đệ tử với ít thì giờ chịu khó tâm lý, hoàn toàn có thể tự giải đáp lấy. Các Ngài chỉ gợi ý hoặc gieo vào trí óc người đệ tử loại thắc mắc tương thích với tư tưởng của y, và khích động thượng trí của y để cho y hoàn toàn có thể tìm ra câu vấn đáp thỏa đáng .
Bởi vậy chư môn đệ hoàn toàn có thể thấy tầm rõ mức quan trọng của toàn thể yếu tố đặt câu hỏi và trong một nhóm hay Đạo Viện của Chân Sư, việc giải đáp những câu hỏi do cá thể người đệ tử hay toàn nhóm đưa ra, có tác động ảnh hưởng như thế nào so với tập thể của nhóm. Khi đó thì việc làm đặc biệt quan trọng của Chân Sư chính là khích động cho Lạc Viện đạt những câu hỏi đó, nó sẽ đưa đến sự mặc khải chân lý. Một vị Chân Sư luôn luôn nhớ 2 điều này, một là trạng thái tâm linh của nhóm. Điều này phải tùy nơi mức độ rung động tập thể của toàn bộ những thành viên trong nhóm. Ngoài ra còn phải kể thêm sự ứng đáp tổng lực của toàn thể Đạo Viện. Một trong những sự khó khăn vất vả mà tổng thể những Đạo Viện đều gặp phải là tiếp thu những đệ tử và những thành viên mới dù một mình hay cùng nhóm. Một câu hỏi được nêu ra là : trong một Đạo Viện mà thành phần đệ tử tương đối mới và những người mới mở màn bước vào đường nhập môn, bằng cách nào một nhóm đó hoàn toàn có thể từ từ trở nên nhạy cảm so với sự rung động của toàn thể Đạo Viện và so với Chân Sư .
Câu hỏi này thật ra nó có bao hàm một yếu tố lớn giữa phàm ngã và chân ngã, giữa Chân Sư và đệ tử và giữa trái đất với Thánh Đoàn. Đó là yếu tố bộc lộ sự hợp nhất cơ bản và chấm hết cách biệt, phân ly. Các đệ tử cần phải tập tránh sự phân biệt giữa những góc nhìn của Lạc Viện bên trong và bên ngoài, nội môn và ngoại môn, giữa một số ít ít thành viên mà họ được biết với hầu hết mà họ chưa biết. Một Đạo Viện là một nhóm đệ tử, cao đồ thuộc nhiều đẳng cấp và sang trọng khác nhau, những đệ tử ngoài trần gian và những Đạo sinh sơ cơ mới bước vào đường đạo. Họ không nên phân biệt Đạo Viện nọ với Đạo Viện kia mà chỉ nên nghĩ đến một Đạo Viện tổng hợp chung cho tổng thể .
Bí quyết để thực thi điều đó là cường độ tâm linh tức là hoạt động giải trí từ một điểm trụ này tập trung chuyên sâu niềm tin, nó đưa đến sự mặc khải thiêng liêng. Chừng đó, người đệ tử hoàn toàn có thể tích lũy trong một ngày những gì mà lẽ ra y phải mất đến nhiều tháng hay nhiều năm mới học được. Điểm trụ này khi tập trung chuyên sâu đúng cách, là một quyền lực giải tỏa năng lượng rất lớn. Nhiều đệ tử tập trung chuyên sâu sai lầm và giải tỏa năng lượng sai đường lối. Một điểm trụ niềm tin đúng đắn trước hết được thực thi bằng sự khuynh hướng đúng đắn. Lần này cần có một ý thức chân xác về giá trị của sự vật trần gian và sự từ bỏ những điều bận rộn li ti làm phân tán ý thức thay vì gom vào một điểm trụ nhất định. Thí dụ : Nếu người đệ tử bận lo nghĩ về thực trạng sức khỏe thể chất sức khỏe thể chất của mình, y sẽ không tập trung chuyên sâu ý thức vào một điểm trụ nó làm cho y trở nên một TT từ điển để ban phát thần lực và tình thương. Nếu y bận nghĩ đến lỗi lầm của những kẻ khác hay dư luận của người khác nghĩ về mình, y cũng sẽ không hề định tâm vào điểm trụ để giải tỏa năng lượng hầu trợ giúp kẻ khác. Các đệ tử phải nỗ lực phát hiện những điểm phân tán, loạn động của mình rồi gom tâm thức vào điểm trụ ở nội tâm và tự đó họ hoàn toàn có thể điều khiển và tinh chỉnh năng lượng chân ngả một cách ý thức và hữu hiệu .
Đó là công phu tu luyện bí pháp chân chính. Phần nhiều đệ tử không có đến 60 Tỷ Lệ hiệu năng hoạt động giải trí, vì ý thức của họ bị phân tán loạn xạ, trên góc nhìn phàm ngã chứ không tập trung chuyên sâu vào một điểm trụ nhất định. Mỗi đệ tử phải tự tò mò lấy cái điểm tru tâm linh riêng của mình. Lý do vì sao những đệ tử không nhạy cảm so với Chân Sư, với hoạt động và sinh hoạt của ngoài chu vi của tâm thức chớ không ở tại TT. Bởi đó, việc làm phụng sự của họ chỉ hữu hiệu có một phần, ý thức hiến dâng của họ rất kém, họ đắm chìm trong sự bất động không nghĩ đến kẻ khác và bận rộn nhiều với góc nhìn hình hài vật chất của cuộc sống .
Một câu hỏi khác cũng hoàn toàn có thể được nêu ra về một câu mà tôi đã cố ý dùng nhiều lần trong những huấn từ này : sự dị biệt giữa tình thương và ý muốn yêu dấu như thế nào ? Câu hỏi này luôn luôn được nêu ra trong những tiến trình đầu của đường Đạo. Nó vốn địa thế căn cứ trên một ý thức nhu yếu cá thể cũng như nhu yếu tập thể. Nó cũng chỉ ra một sự nghiên cứu và phân tích tỉ mỉ giúp cho người đặt câu hỏi biết sự khác nhau giữa triết lý cộng với sự cố gắng và sự phát biểu tự nhiên một tâm trạng tự hữu, không gượng ép .
Ý muốn thương mến bao hàm ý nghĩa nhìn nhận sự hạn hẹp mong ước, gượng ép một yếu tố và nguyện vọng mãnh liệt muốn thương mến thật sự. Nó không nói lên sự tuôn tràn năng lượng của SHAMBALLA xuyên qua trung gian của chân ngã mà đặc thù tư hữu của nó vốn là tình thương tự nhiên, không gượng ép. Khi nói đến quyết định hành động yêu dấu thì đương nhiên Open một vài thái độ hoặc tự nhiên và thuộc về một phàm ngã tiến hóa, hoặc bị gượng ép qua sự cố gắng quan tâm đến chân ngã. Người đệ tử biết rằng y thiếu tình thương, chính bới y luôn luôn tự thấy mình sống tách rời, cô lập chứ không đồng nhất với những người khác. Y bị bực mình, không dễ chịu với những người khác, y chỉ trích bạn đồng môn, y có mặc cảm tự tôn so với họ hoặc có ý nghĩ họ sai quấy, còn ta phải, họ không hiểu điều này điều nọ, còn ta hiểu biết hơn họ chứ họ không biết được ta, ta phải kiên trì so với họ … Trong quy trình tiến độ này thái độ của y nhất định là “ ý muốn yêu quý ” đồng thời y có sự đánh giá và nhận định sâu xa về những nhóm chướng ngại trong sự biểu lộ tình thương do bởi kẻ khác gây ra và cũng do bởi những thói quen cảm nghĩ riêng của mình. Tất cả đều là một hình thức ích kỷ của bản ngã. Phương pháp chân chính đưa đến tình thương là sự suy gẫm, thiền định thâm sâu và liên tục về ý nghĩa, nguồn gốc và sự biểu lộ tình thương qua động tác của linh hồn cùng những đặc thù và mục tiêu của tình thương. Phần lớn sự suy gẫm của người Đạo đinh vốn địa thế căn cứ trên sự nhận thức từ bên trong rằng thật ra y không yêu quý một cách tự nhiên, thuận tiện và không gượng ép. Bởi vậy, người đệ tử vẫn bám chặt lấy bản ngã của mình và nghĩ rằng : “ Bây giờ ta đang yêu quý đây. Lúc này ta không có tình thương. Nay ta phải thử lan rộng ra tình thương. Tuy thế, những thái độ đó không phải thật sự là tình thương do tại người đệ tử đồng nhất với chính mình và tập trung chuyên sâu vào phàm ngã. Tình thương không khi nào hoàn toàn có thể tạo ra nơi phàm ngã thấp hèn, nó là một sự tuôn tràn tự do, không chướng ngại từ chân ngã cao siêu .
Tình thương đột khơi tự nhiên và luôn luôn hàm súc niềm tin tự do của Đấng Christ. Tôi cho rằng không có gì diễn đạt đặc thù tình thương đúng hơn lời diễn tà của Thánh PAUL. Hãy đọc lời định nghĩa tình thương của Ngài trong quyển Tân Ước. Hãy từ bỏ ý niệm “ muốn yêu dấu ” và hãy nhấn mạnh vấn đề trong tâm thức mình những nhu yếu của kẻ khác yên cầu sự thông cảm, chú ý quan tâm, trợ giúp và lòng từ ái. Sự cô lập của những đệ tử thường đi kèm với sự kiện hướng nội của toàn bộ những người mà họ tiếp xúc và sự bận tâm mãnh liệt của người Đạo sinh sơ cơ về sự tân tiến của cá thể của mình. Người sơ cơ kêu gào “ Hãy nói cho tôi nghe đi ”. Người đệ tử nói : “ Hãy trợ giúp trong việc phụng sự ”. Hãy tự quên mình. Thế gian đang cần đến anh ”. Có rất nhiều đệ tử còn đang sống khép chặt, thu hình ẩn núp đằng sau bức rào bản ngã và không ban rải tình thương thật sự. Hiệu năng phụng sự của họ bị ngăn trở, cho đến khi nào họ vượt qua khỏi bức rào phàm ngã và thật sự biết thương mến .
Chúng ta đã xem xét sơ qua những quy trình tiến độ của đệ tử và sơ cơ và “ trong ánh sáng ”. Một số đông đệ tử lúc bấy giờ đã vượt qua khỏi quá trình này. Tuy nhiên cũng cần làm sống lại những kinh nghiệm tay nghề đó và nhu yếu này còn để lại sau nhiều việc làm mà những đệ tử và Đạo Đồ đang làm trong lúc này. Ngày nay, nhiều người khác đang trải qua quy trình tiến độ đệ tử chính thức. Như mọi người đều biết điểm then chốt của quy trình tiến độ này là thiết lập sự tiếp xúc với Chân Sư. Nhiệm vụ tiên phong của Chân Sư là khêu gợi sự đáp ứng trực tiếp và phản ứng hữu thức của người đệ tử. Cùng với những phản ứng này, Chân Sư còn xem xét niềm tin vô tư của người đệ tử trong cách xử sự với Ngài và những bạn đồng môn vì đức vô tư là bước tiên phong trên con đường đưa đến tình thương và thông cảm. Những đệ tử chân thành nhất đều tập trung chuyên sâu cố gắng nỗ lực vào sự thương mến lẫn nhau, như vậy là họ đặt cái cày trước con trâu. Trên hết mọi sự, họ phải triển khai sự vô tư trong phép xử thế trước đã vì khi đó thì mọi sự chỉ trích sẽ không còn và tình thương mới nảy nở .
Chân Sư cũng xem xét những đệ tử có cố gắng nỗ lực thao tác trên một quy mô to lớn hơn và bao quát hơn chăng trong việc làm của Ngài trên trần gian. Ngài để cho họ tự do làm theo ý riêng, nhưng chắc như đinh là Ngài dò xét xem những nỗ lực của họ có đi theo những đường lối hoạt động giải trí đúng như ý Ngài muốn hay không. Để triển khai sự cố gắng quan trọng và mệt nhọc này, phải có năng lực tập trung chuyên sâu vào việc làm với những nhu yếu của nó và năng lực hợp tác với những người cũng làm việc làm tương tự như. Điều này cũng lại cần có đức vô tư và nhận định và đánh giá đúng mức. Chân Sư đang tìm kiếm những kẻ có niềm tin hiến dâng cho những nhu yếu của trái đất trong cơn khủng hoảng cục bộ, hấp hối của thời đại hiện tại. Điều này cần có sự nhạy cảm với những nỗi đau khổ của trần gian, như những việc thế sự hằng ngày vẫn chứng tỏ rõ ràng. Nó cũng cần có sự “ dửng dưng siêu thoát ” so với những biến cố bên ngoài trong sự hoạt động và sinh hoạt của phàm ngã và một ý thức về tỷ suất để giúp cho người đệ tử nhìn thấy tầm mức nhỏ bé của những vấn đề cá thể ( trên những phương diện sức khỏe thể chất, tình cảm và trí não ) so với đại cuộc toàn thể. Một lần nữa, tất cả chúng ta lại cần đến đức vô tư nhưng lần này là sự vô tư so với những phản ứng riêng tư của mình .
Bởi vậy, Chân Sư đương nhiên phải xét kỹ xem sự phí tốn thì giờ và năng lượng mà Ngài ban cho những thành viên trong nhóm hay Đạo Viện của Ngài có được sử dụng đúng chỗ hay không. Ngài cũng xét xem do hậu quả của sự trợ giúp của Ngài, nhóm đệ tử có tăng gia công tác làm việc phụng sự và đoàn kết ngặt nghèo hơn chăng trong tình huynh đệ đồng môn để cho họ bớt đặng nặng yếu tố phàm ngã mà phải sống với Chân Ngã trên cương vị một nhóm tập thể đại đồng .
Đức cô tư cũng phải được tăng trưởng trong mối liên hệ với Chân Sư. Ngài không có ý làm cho nhóm đệ tử được thỏa mãn nhu cầu với chính mình, hài lòng với quả vị hay công tác làm việc phụng sự của mình. Trong những việc tiếp xúc rất hiếm với những đệ tử, Ngài thường nhấn mạnh vấn đề về những sự thất bại và thiếu sót của họ. Ngài không phải chỉ đem đến cho họ những giáo lý và thời cơ phụng sự. Công việc của Ngài trước hết là giúp sức họ tự tách rời khỏi góc nhìn sức khỏe thể chất hình hài của đời sống và tự chuẩn bị sẵn sàng để triển khai một vài công cuộc tăng trưởng tâm thức. Ngài đồng ý sự hiến dâng và lòng mong ước phụng sự của họ như một việc đương nhiên và đã chứng tỏ điều đó bằng cách thu nhận họ vào nhóm đệ tử của Ngài. Khi Ngài làm như vậy, Ngài cũng đảm đương lấy nghĩa vụ và trách nhiệm, chuẩn bị sẵn sàng cho họ được điểm đạo. Bổn phận của Chân Sư không phải là vỗ về, khen ngợi những đệ tử về những công tác làm việc mà họ đã làm và sự tân tiến mà họ đã thực thi. Nhiệm vụ của Ngài là theo dõi ngặt nghèo đặc thù rung động của họ và chỉ cho họ thấy những gì cần phải biến hóa trong thái độ và ngôn từ, làm cách nào để tăng trưởng sự hoạt động và sinh hoạt tâm linh và kiểm soát và điều chỉnh phàm ngã để đạt tới sự tự do khoáng đạt hơn và hiệu năng phụng sự tốt đẹp hơn. Nếu phương pháp vận dụng này gây nên sự bất mãn và tuyệt vọng nơi người đệ tử, thì đó là tín hiệu chỉ rằng họ vẫn còn mắc kẹt nặng trong những phản ứng của phàm ngã. Có điều mà những đệ tử thường hay quên là Chân Sư phải bảo vệ toàn thể Đạo Viện chống lại phản ứng của những người còn đang tập sự công tác làm việc trong những nhóm nhỏ hơn và đang hợp tác với những nhiều kinh nghiệm tay nghề hơn. Đôi khi những đệ tử bị ngã lòng thối chí do bản tính tự nhiên hay buồn chán, hướng về trong, hôn trầm, cũng có khi do sự thiện chí và tìm cách rút lui ra khỏi nhóm hay Đạo Viện. Họ chỉ hoàn toàn có thể rút lui về phương diện ngoại môn hay hình thức mà thôi, chính bới sợi dây liên lạc nội môn luôn luôn vẫn còn sống sót, tuy rằng nó hoàn toàn có thể trong thời điểm tạm thời bị xóa bỏ vì toàn nhóm tập thể cần phải tự bảo vệ chống lại phản ứng riêng rẻ của một đơn vị chức năng nào đó trong nhóm. Những thành viên của một Đạo Viện và những đệ tử chính thức luôn luôn làm công tác làm việc một cách hữu hiệu ngoài trần gian. Những kẻ sơ cơ và những người mới khởi đầu gia nhập còn phải được huấn luyện và đào tạo để tham gia vào công tác làm việc đó, và có nhiều thời cơ được đưa đến cho họ để làm công tác làm việc đó .
Sẽ đến lúc có những thời kỳ mà người đệ tử phải đương đầu với những câu hỏi rõ ràng nhất định. Trong việc giải đáp những câu hỏi đó, họ sẽ tự phát hiện lấy mình và tò mò ra tầm mức, quy mô và hiệu năng của công tác làm việc phụng sự mà họ được nhu yếu góp phần. Một vài câu hỏi đó hoàn toàn có thể được đặt ra như sau :
– Công việc của tôi có hiệu suất cao thế nào trong mói đối sánh tương quan với lãnh vực hoạt động giải trí của tôi ?
– Sự suy tư và đặt kế hoạch của tôi có hiệu suất cao thế nào trong sự đối sánh tương quan với những gì hoàn toàn có thể xảy ra trong tương lai tiếp cận ? ( một thí dụ hợp thời là những kế hoạch cho một quốc tế hậu chiến và nhu yếu hoạt động giải trí thiết kế xây dựng tâm linh một cách sáng suốt mưu trí )
Tôi hoàn toàn có thể nhìn nhận những thành tích nào như là tác dụng những việc làm của tôi ?
Tôi cảm thấy rằng công việc làm của tôi được tốt đẹp mỹ mãn chăng, xét theo quan điểm chân ngã của tôi và theo quan điểm của Chân Sư ?
Tôi có thao tác một cách vô tư chăng trong sự liên hệ đối sánh tương quan với những bạn đồng môn và với những người đồng lao công tác làm việc, bất luận quả vị hay đẳng cấp và sang trọng ?
Tôi có luôn luôn giữ gìn được chăng niềm tin hợp tác trong tình thương thiết yếu ?
Tôi có thành thật nhìn nhận chăng những khuyết điểm của riêng tôi và của những bạn đồng môn và yên lặng triển khai việc làm với những người phụng sự chung với tôi mà không chỉ trích ?
Tôi có đánh giá và nhận định đúng vị trí hiện tại của tôi chăng ? Ai là người mà tôi hoàn toàn có thể giúp sức ? Ai là người mà tôi phải nhìn lên để noi gương, để tìm sự trợ giúp và thông cảm ?
Một trong những bài học kinh nghiệm tiên phong mà người đệ tử phải học là nhìn nhận điều mà huyền môn gọi là “ tiến trình đẳng cấp và sang trọng ”. Điều này giúp cho người đệ tử tự đặt mình một cách ý thức vào điểm tiến hóa và tăng trưởng tâm linh của mình để phân biệt những ai là người mà y hoàn toàn có thể giúp sức do kinh nghiệm tay nghề bản thân và ai là người mà y phải hướng về để tìm sự giúp sức tương tự như .
Đó là một bài học kinh nghiệm khó tiên phong. Người sơ cơ luôn luôn tự dối mình một cách ý thức hơn là người đệ tử già dặn và có kinh nghiệm tay nghề. Vì cần hiểu rõ sự kiện về tiến trình đẳng cấp và sang trọng này mà tôi mới chọn đề tài “ Sáu tiến trình trên đường Đạo ” làm đề tài học hỏi. Làm một người đệ tử không có nghĩa là toàn bộ những thành viên trong một Đạo Viện gồm đủ mọi quý phái. Từ quý phái của người sơ cơ mới đi qua bước tiên phong trên đường Đạo gay go hiểm trở, đến quả vị của một đệ tử đạt đến trình độ một Chân Sư minh triết. Tiến trình đẳng cấp và sang trọng là một điều cần được nghiên cứu và điều tra kỹ. Hãy nhớ định luật tâm linh sau đây : “ Chúng ta tiến hóa do những điều kiện kèm theo nhận thức của mình ” .
Một điều nhận thức khi nó được coi như một góc nhìn hay một phần nhỏ của một toàn thể to lớn, là cái mầm giống của một sự tăng trưởng tâm thức lớn lao. Một sự tăng trưởng tâm thức cố định và thắt chặt là tín hiệu của sự Điểm Đạo. Đó là một giáo điều huyền môn rất quan trọng .
Các đệ tử cần trau dồi thái độ nhận thức tâm linh, nhờ đó họ sẽ thấy rằng đời sống của họ sẽ được nhiều mẫu mã hơn. Sự tiếp xúc với những đệ tử cao niên. đạo đồ và Chân Sư, luôn luôn khêu gợi nguồn cảm hứng tâm linh do thái độ ấy đưa đến. Cái thế lực mà họ sử dụng một cách thường thì và vô ý thức có một tác động ảnh hưởng tuy nhiên đôi. Nó khích động phần tốt đẹp nhất và cũng khêu gợi phần bất hảo nhất trong khi nó đặt người đệ tử vào những tình thế mà y phải xử lý. Mỗi đệ tử là một điểm tập trung chuyên sâu thần lực đến một mức độ nhất định. Người đệ tử càng tiến hóa cao, nguồn thần lực tỏa ra từ con người y càng lớn. Điều này đương nhiên đưa đến tình thế mà người đệ tử ở cấp thấp hơn phải đối phó. Người đệ tử chân chính không khi nào làm điều ấy với sự dụng tâm. Có những môn phái cho rằng người trưởng tràng hay đệ tử cao siêu phải đặt người Đạo sinh sơ cơ vào một tình thế giả tạo nào đó để rèn luyện họ. Đó là một điều trái ngược với định luật huyền môn. Tuy nhiên, khi người đệ tử bước vào vòng tác động ảnh hưởng của vị Chân Sư hay một đệ tử cao niên, thì có vài sự kiện đương nhiên xảy đến trong đời y. Ảnh hưởng rung động từ điển của những vị ấy sẽ hữu hiệu khi nó được tiếp đón đúng cách và sử dụng một cách ý thức để đem lại những biến hóa thiết yếu. Sau cùng, khi rung động từ điển của người đệ tử được điều hòa và ứng đáp với những rung động thanh cao hơn, thì chừng đó cả hai loại rung động hoàn toàn có thể được hòa hợp với nhau. Chính sự hòa hợp đó là đặc thù của tổng thể mọi đẳng cấp và sang trọng dưới hoàn toàn có thể được thu nhận vào cấp đẳng cao hơn. Sự hòa hợp là chìa khóa của sự Điểm Đạo .

Giai đoạn IV – Người đệ tử trên đường dây

Trong quy trình tiến độ này, người đệ tử được truyền dạy chiêu thức lôi kéo đến sự chú ý quan tâm của Chân Sư trong những trường hợp khẩn cấp. Nó có cái tên kỳ lạ là “ Người đệ tử trên đường dây ” .
Giai đoạn này có tương quan đến hàng loạt yếu tố nhạy cảm thông linh loại cao. Những tác phẩm của tôi đã có nói rõ ràng và dứt khoát về tính cách bất hảo của những kinh nghiệm tay nghề không linh động thấp kém. Những Đạo sinh sơ cơ cần phải được cẩn trọng nghiêm nhặt về yếu tố này. Vấn đề càng khó khăn vất vả hơn vì những kẻ có năng khiếu sở trường thông linh hạng thấp lại không dễ gì liên lạc được để cảnh cáo họ và họ luôn luôn cho rằng những quyền lực thần nhãn và thần nhĩ của họ là tín hiệu của sự tân tiến tâm linh thượng đẳng. Tâm trí của họ khép chặt so với mọi sự cảnh cáo và họ thường hành vi đằng sau bức rào tự mãn, tự tôn. Họ quên rằng tất cà những giống người bán khai và loài thú đều có năng khiếu sở trường thông linh và tiếp đón những cảm xúc mà những loại người mở trí không đảm nhiệm được. Những giống người đó đều có năng khiếu sở trường tiếp xúc với cõi trung giới trong những hoạt động giải trí, cách diễn đạt, những hiện tượng kỳ lạ và thái độ của họ. Bởi vậy, cần phải tăng gia sự cảnh cáo và thức tỉnh những kẻ có năng khiếu sở trường thông linh trung bình về đặc thù bất hảo của hiện tượng kỳ lạ này. Tuy nhiên, người đệ tử không loại trừ góc nhìn biểu lộ thiêng liêng nào ra ngoài vùng kinh nghiệm tay nghề của họ. Họ biết rằng năng khiếu sở trường thông linh trong những quy trình tiến độ thấp kém nhất cũng là một góc nhìn biểu lộ thiêng liêng, vốn có đặc thù cao hơn, thường là những cơ năng hoạt động và sinh hoạt thuần vật chất của thể xác. Không ai hoàn toàn có thể nói rằng do tại y đã là đệ tử, y sẽ không còn phải trải qua một loại kinh nghiệm tay nghề này hay một loại kinh nghiệm tay nghề khác. Y phải chuẩn bị sẵn sàng trải qua mọi thứ kinh nghiệm tay nghề và đánh giá và nhận định sự kiện rằng rốt cuộc tổng thể những đệ tử đều phải trở nên thông linh, kể cả loại cao và loại thấp cũng như Đức Christ rất lâu rồi. Cái tuyệt kỹ bảo đảm an toàn duy nhất mà y nỗ lực đạt tới là ngăn chận sự khai mở những huyền năng loại thấp cho đến khi nào những năng lực thông linh thượng đẳng đã thức động. Chừng đó thì loại năng khiếu sở trường hạ đẳng được trấn áp, tương khắc và chế ngự và được sử dụng do sự tinh chỉnh và điều khiển từ mức độ tâm thức cao siêu. Theo sự hiểu biết của người đệ tử, chỉ có sự sống và hình thể, và y đang tập điều khiển và tinh chỉnh những phương pháp của sự sống qua trung gian của hình thể để tạo nên sự biểu lộ thiêng liêng .
Ngày nay, quốc tế đang bước vào một quá trình cực kỳ nhạy cảm. Các đệ tử phải tự luyện mình để sẵn sàng chuẩn bị trợ giúp. Sự biến chuyển tâm thức của thế nhân sẽ diễn ra trên mức độ ý thức ở cõi trung giới và bức màn ngăn cách giữa quốc tế hữu hình với cõi vô hình dung sẽ biến mất một cách mau chóng. Làm sao những đệ tử hoàn toàn có thể phụng sự, trợ giúp trong thời kỳ khó khăn vất vả đó nếu họ không có kinh nghiệm tay nghề diễn đạt những góc nhìn khác nhau của mọi hiện tượng kỳ lạ thông linh ? Làm sao họ hoàn toàn có thể tương hỗ và bảo vệ những kẻ khác nếu họ quan ngại không dám bước vào những cõi giới ngự trị bởi những hiện tượng kỳ lạ thông linh thấp kém ? Tôi không bảo chư môn đệ phải rèn luyện những phép thần thông mà bảo chư môn đệ hãy giữ mình trong tư thế s84n sàng để thấy và nghe trên toàn bộ mọi gia tầng phụng sự, hiểu biết những gì mình nghe thấy và nghe để có sự diễn đạt đúng đắn, không bị mù quáng bởi thành kiến và sợ sệt. Đường Đạo của người đệ tử không phải thuận tiện êm ái, nhưng nó được bù trừ xứng danh. Sự nhạy cảm thông linh là điều thiết yếu để hiểu rõ tiến trình này trên đường Đạo .
Giai đoạn thứ tư này chỉ hoàn toàn có thể đến với người nào đã từng là đệ tử chính thức trên một kiếp và đã chứng tỏ năng lực phụng sự với niềm tin vô kỷ và trung kiên .
Những điều kiện kèm theo được kể ra dưới đây :
1 ) Người đệ tử đã loại trừ phàm ngã và không còn bận rộn với đặc thù xúc cảm của mình. Sự chú trọng quá đáng đến cá thể mình vốn là điều thường thì nơi một số ít đông người, không còn kìm hãm tư tưởng và nguyện vọng của y .
2 ) Người đệ tử đã hoàn toàn có thể thao tác một cách vô tư bất luận rằng đặc thù cá thể của y hoàn toàn có thể phản ứng cách nào. Điều này có nghĩa là những xúc cảm, tư tưởng, yêu ghét và dục vọng không còn là những yếu tố quyết định hành động trong đời sống của y nữa, mà đó phải là những hoạt động giải trí có ích và ý tưởng sáng tạo tốt đẹp vì quyền lợi chung cho cả nhóm. Y sẽ không quyết tử một cá thể nào vì quyền lợi tập thể cho đến khi nào y đã nỗ lực trợ giúp người ấy hiểu biết yếu tố và chứng tỏ một mối đối sánh tương quan đúng đắn, nhưng y sẽ không chần chừ mà hành vi kinh khủng khi cần và khi có dịp .
3 ) Người đệ tử đã có một ý thức tỷ suất về việc làm, về giá trị tương đối của sự góp phần của y vào việc làm của Sư phụ và đời sống của Đạo Viện. Y đắm say với việc làm và thời cơ phụng sự chớ không bận tâm nghĩ đến cũng và vị thế cá thể của y trong tư tưởng của Chân Sư. Phần nhiều đệ tử trong những tiến trình đầu của thời kỳ sơ cơ không khi nào quên rằng họ là những đệ tử. Đó là điều mà ĐỨC THẦY MORYA, gọi là sự “ tự mãn của cái trí bám bíu lấy phàm ngã ”. Đó là một hình thức che đậy của thói kiêu căng mà những kẻ sơ cơ khó tránh khỏi. Họ không khi nào quên, dù chỉ một phút, cái vị thế đệ tử của họ và sự kiện họ được gần Sư phụ, dù rằng họ bận rộn bao nhiêu đến việc làm. Tuy nhiên nếu họ thật sự hoạt động giải trí từ một trụ điểm tâm linh, họ sẽ quên đi thậm chí còn cả sự hiện hữu của Ngài trong việc làm cần phải làm để phụng sự quả đât .
4 ) Người đệ tử đã đạt tới một điểm mà trạng thái tâm thức của chân ngã đã Open. Đó là trạng thái tâm thức mà phàm ngã của y chỉ là cái bóng và một phản ảnh méo mó, xiêu vẹo. Người đệ tử có ý thức hàng loạt về hai trạng thái hay hai điểm hoạt động giải trí tập trung chuyên sâu .
a ) Điểm trụ tâm linh, nơi mà y tập trung chuyên sâu niềm tin và cố giữ cho được liên tục và bất khả xâm phạm .
b ) Khu vực hoạt động giải trí tập trung chuyên sâu trong 3 cõi giới xuyên qua đó y triển khai việc phụng sự với tư cách đệ tử .
Hai điểm trực tiếp nầy thật ra không phải là hoạt động giải trí riêng không liên quan gì đến nhau trừ phi chúng Open trong tâm thức của người đệ tử trên cõi hồng trần và biểu lộ đời sống khách thể và chủ thể của y. Sở dĩ có như vậy là vì y phải hoạt động giải trí trong thời hạn và khoảng trống qua tác động ảnh hưởng của bộ óc sức khỏe thể chất. Điểm tập trung chuyên sâu thứ nhì thật ra phải là một sự xuất lộ ngoại tại của điểm trụ tâm linh nội tại. Đó là tuyệt kỹ của công phu tu luyện trên đường đạo của người đệ tử và của mối đối sánh tương quan giữa trái đất và Thánh Đoàn. Nó cũng liên hệ đến việc làm của ĐỨC PHẬT và Christ vì những Ngài là tiêu biểu vượt trội cho những trụ của SHAMBALLA và Thánh Đoàn .
Đa số đệ tử không hoạt động giải trí từ một trụ điểm tâm linh, mà từ một điểm tập trung chuyên sâu của phàm ngã, tuy đã là một bước tiến trình hơn của người thường, nhưng họ bám víu lấy nó quá lâu. Bao giờ người đệ tử còn tập trung chuyên sâu vào phàm ngã thì trụ điểm tâm linh sẽ còn cách biệt với y. Y sẽ bị thôi thúc do động cơ của phàm ngã, chứ không phải do thần lực của Đạo Viện, điều này sẽ đưa đến mọi nỗi khó khăn vất vả, trắc trở cho y và cho cả nhóm. Trụ điểm tâm linh, tác dụng của sự hiến dâng toàn vẹn của phàm ngã cho việc làm phụng sự quả đât, có tính năng khích động và tăng cường quyền lực chớ không khêu gọi sự sống thấp kém của phàm ngã .
Đó là những nhu yếu bắt buộc mà người đệ tử phải ứng đáp trước khi y được truyền thụ tuyệt kỹ tiếp xúc với Chân Sư tùy ý muốn trong những trường hợp khẩn cấp .
Đến đây, tôi muốn chư môn đệ chú ý quan tâm về thái độ của Sư phụ. Trong quá trình này, người đệ tử được phép lôi kéo đến sự quan tâm của Sư Phụ, nhưng chỉ khi nào y được đáng tin cậy rằng y sẽ sử dụng cái đặc ân này vào những mục tiêu phụng sự tập thể chứ không khi nào dùng vào quyền lợi cá thể. Điều này có nghĩa là người đệ tử sẽ tự xử lý lấy những khó khăn vất vả trong đời tư của mình, chứ không để cho những vấn đề cá thể xen vào đời sống của Đạo Viện. Điều ấy cũng ý niệm rằng người đệ tử đã có được sự thành tín và vô tư đến mức làm cho Đạo Viện xét thấy không cần phải tự bảo vệ chống lại những rung động từ điển của y. Sư phụ biết rằng nếu người đệ tử lôi kéo đến Ngài, Ngài sẽ không bị làm mất thì giờ đế ứng đáp, chính bới sự lôi kéo đó luôn được phát ra vì nhu yếu tập thể và vì quyền lợi của toàn nhóm .
Dầu Sư phụ đang bận việc gì, Ngài cũng phải ứng đáp lời lôi kéo đó vì người đệ tử tin cậy đã được ban cho cái quyền lôi kéo đến Ngài trong tình thương khẩn cấp. Sự liên hệ hỗ tương đó chỉ hoàn toàn có thể đạt được sau một thời kỳ hoạt động giải trí lâu dài hơn của người đệ tử chính thức ở bên ngoài và sau cuối là ở bên trong Đạo Viện. Nó không phải do hiệu quả của sự cố gắng nào để đạt tới cái vị thế uy quyền và thế lực trong việc phụng sự. Nó chỉ là cái hiệu quả yên lặng và hầu hết đạt được một cách vô ý thức của người đệ tử biết phụng sự trong bí mật lặng lẽ, tự quên bản ngã của mình chỏ lo thực thi Thiên Cơ bằng cách tận dụng năng lực của mình đến mức tối đa. Đó là phần thưởng của người đệ tử nào biết rằng mình đầu thai kiếp này để làm gì và nỗ lực thao tác đó với niềm tin hiến dâng toàn vẹn. Động cơ thôi thúc của cuộc sống y la nhu yếu của quả đât và sự nhận thức rằng y phải làm gì để triển khai bước văn minh tâm linh tiếp cận trong tương lai .
Nhiệm vụ chính của một ĐỨC THẦY khi một đệ tử bước vào Đạo Viện của Ngài là giúp y suy gẫm thêm đường lối tách rời bản ngã. Điều này làm cho người đệ tử tập quên bản ngã cá thể để trụ tâm thức vào việc phải làm và tập giải đáp những câu hỏi sau :
1 ) Đệ tử có thật biết rõ mình phải thao tác gì trong kiếp sống hiện tại chăng ?
2 ) Đệ tử có thử nỗ lực thực thi việc đó trong đời sống chăng ?
3 ) Mục tiêu chính của người đệ tử phải chăng là lập hạnh và tinh luyện ? Nếu vậy, đệ tử có nghĩ rằng mình còn đang đi trên đường dự bị chăng thay vì tự dối mình với ý nghĩa rằng mình đang theo con đường nhập môn ?
4 ) Đệ tử có nghĩ đến nhu yếu của trái đất chăng, hay là bận tâm lo nghĩ về vị thế của mình về những yếu tố khó khăn vất vả tâm linh của mình và về những chuyện rắc rối thuộc về đời sống cá thể của mình ?
Bao giờ mà chư môn đệ còn cho rằng đời mình là một cuộc sống đầy thú vị và cũng là một cuộc sống rất nhiều nỗi khó khăn vất vả, khó khăn vất vả thì chư môn đệ vẫn chưa dứt bỏ những thói quen tư tưởng cũ kỹ. Những câu hỏi này rốt cuộc phải được giải đáp trước khi người đệ tử có triển vọng tiến xa hơn .
Hãy nhớ rằng Đạo Viện chỉ được xuất lộ ra bên ngoài để làm một trụ điểm tâm linh. Từ Đạo Viện ấy, người đệ tử xuất phát để làm việc làm ngoài trần gian. Nhóm đệ tử ngoại môn hoạt động giải trí nhập thế tức Đạo Viện ngoại tại, được xuất lộ bằng cách phản ứng diệu quang của Đạo Viện nội tại và thiết lập một từ trường của năng lượng tâm linh. Điều này được triển khai khi nào những đệ tử ngoại môn link với Đạo Viện nội tại và phản ứng với cái diệu âm và đặc tính của nhóm đệ tử nội môn quy tụ quanh Sư phụ .
Một Đạo Viện không phải là một nhóm người đi tìm sự biểu lộ tâm linh. Đó là một TT hoạt động giải trí tập thể, có thần lực tương hỗ để giúp cho nhóm đệ tử thi hành kế hoạch của Sư phụ và ứng đáp nhu yếu của quả đât. Chư môn đệ có lẽ rằng sẽ tự hỏi tại sao tôi cứ luôn luôn nhắc đi nhắc lại mãi đến nhu yếu này. Đó là vì nhu yếu ấy là nguyên tắc chính đại và khẩn cấp của sự thỉnh cầu ơn trên. Nó hoàn toàn có thể lôi kéo đến sự ứng đáp của Thánh Đoàn và như thế sẽ làm cho hai TT trái đất và Thánh Đoàn trực tiếp nhau. Nó tương ứng trên quy mô tập thể với sự lôi kéo của phàm ngã so với linh hồn. Bởi vậy một nhóm hay Đạo Viện của Chân Sư là một TT thỉnh nguyện và khi người Đạo sinh trở thành một “ Đệ tử trên đường dây ”, thì đó cũng như là phần thưởng cho những công quả phụng sự mà người đệ tử đã làm với một ý thức vô tư và quyết tử tuyệt đối. Chừng đó thì Đạo Viện mới hoàn toàn có thể là một TT tiềm lực độc nhất của trần gian .
Những “ đệ tử trên đường dây ” dùng một kỹ thuật lạ kỳ tùy theo cung của họ. Họ luôn luôn hoạt động giải trí xuyên qua Nê Hườn cung, tức bí huyệt trên đỉnh đầu. Do bí huyệt này, họ phát ra lời thỉnh nguyện ( vô âm thinh so với thính giác phàm trần ) rung động dọc theo Kim Quang Tuyến ( Sutratma ) và đến với Đức Thầy. Tuy nhiên kỹ thuật này được truyền dạy trực tiếp cho người đệ tử khi sư phụ xét thấy y có quyền được ban đặc ân đó. Tôi không hề chỉ bí thuật đó cho chư môn đệ. Khi nào “ đi trên đường dây ” chư môn đệ sẽ được truyền thụ bí pháp đó .

Giai đoạn V : Người đệ tử trong hào quang

Như tôi đã nói trước đây, đó là tiến trình mà người đệ tử được phép biết giải pháp lôi kéo để có được cuộc hội kiến với sư phụ. Ở quy trình tiến độ này, người ấy được gọi là “ người đệ tử trong hào quang ” .
Đó là quá trình tiến hóa hơn nhiều so với trình độ mà phần lớn đệ tử đã đạt tới, chính bới nó ghi lại sự hợp nhất gần như trọn vẹn giữa người đệ tử và nhóm của Chân Sư .
Trong quá trình trước đó, người đệ tử được ban cho ân huệ lôi kéo sự chú ý quan tâm của Sư phụ trong những trường hợp khẩn cấp và chắc như đinh được sự phân phối của Ngài. Từ vị thế của một người được truyền pháp để trở nên một đơn vị chức năng phối hợp và hữu dụng trong Đạo Viện, y đã tiến đến vị thế của một người được sự an toàn và đáng tin cậy của sư phụ. Sự xu thế của y đã vững vàng và tuy rằng y còn chịu nhiều sự khó khăn vất vả, thử thách, nhưng điều ấy ngày càng liên hệ đến đời sống tập thể chớ không liên hệ gì với y. Ở đây, tôi không nói đến những sự khó khăn vất vả của một nhóm nào trong Đạo Viện hay của một đoàn thể nào mà người đệ tử còn dính líu ở ngoài trần gian, mà chỉ đề cập đến sự ứng đáp của y so với nhu yếu tập thể của quả đât. Khi y có sự ứng đáp đó, việc ấy có nghĩa là cái toàn thể so với y quan trọng hơn là một phần. Điều này không làm mất đi năng lực hợp tác của y với từng cá thể riêng không liên quan gì đến nhau, hay năng lực ban rải tình thương, sự thông cảm và lòng từ ái cho những người cần đến tình thương trên đường đời của y. Y đã đạt tới một ý thức tỷ suất và tổ chức triển khai đúng đắn những phương pháp hoạt động và sinh hoạt, khuynh hướng và hoạt động giải trí của y trong thời hạn và khoảng trống. Chừng đó ý hoàn toàn có thể được đáng tin cậy để luôn luôn thay thế sự quyền lợi tập thể vào quyền lợi cá thể, theo cái nhìn của phàm ngã .
ĐỨC THẦY biết rằng khi người đệ tử đạt tới tiến trình này, thì Ngài đã có một khí cụ tin yêu, y không còn là chướng ngại cho sự hoạt động và sinh hoạt của toàn nhóm. Trước đây, tôi có nói về phương pháp thâu nạp mọi đệ tử mới vào Đạo Viện thật là khó khăn vất vả dường nào. Y còn phải được chỉ dạy để tiến bước lần lần từ vòng ngoài tâm thức tập thể của nhóm, đến chỗ TT. Mỗi bước tiến đều cần có sự chăm nom của Sư phụ để giữ cho mọi hoạt động và sinh hoạt của Đạo Viện được trôi chảy điều hòa. Chỉ khi nào người đệ tử đã triển khai được sự bình an nội tâm, y mới được phép thường trụ trong hào quang tập thể của nhóm. Điều này đến với y khi y trở nên ý thức được sự rung động đặc biệt quan trọng tỏa ra từ hào quang của Sư phụ. Bởi đó chư môn đệ thấy rằng cần phải có sự bình an nội tâm trước đã. Tôi muốn nói rõ rằng bình an và bình tĩnh là 2 điều khác nhau. Sự bình tĩnh có tính cách nhất thời, thuộc về quốc tế cảm hứng và những trạng thái xê dịch ý thức. Sự bình tĩnh là thiết yếu cho sự văn minh, mỗi bước tiến đều không khỏi được ghi dấu bởi những sự trộn lẫn, khủng hoảng cục bộ và xê dịch, và khi những điều đó được xử lý ổn thỏa chúng mới được sửa chữa thay thế bởi những thời kỳ yên lặng hay bình tĩnh. Những sự bình tĩnh đó không phải là bình an và một đệ tử chỉ được phép thường trụ trong hào quang của Sư phụ, khi sự bình tĩnh đã được thay thế sửa chữa bởi sự bình an trong tâm hồn y. Bình an có nghĩa là sự yên tĩnh thâm trầm, không bị trộn lẫn bởi một cảm hứng nào của người đệ tử có tâm lý vững vàng, vững chắc. Xét theo góc nhìn thế tục đời sống bên ngoài của y hoàn toàn có thể ở trong trạng thái xê dịch kinh hoàng. Tất cả những gì mà y tham vọng hoài vọng một cách quý báu nhất trong ba cõi giới, hoàn toàn có thể siêu linh chung quanh y. Nhưng đâu đến như vậy, y vẫn đứng vững, tâm hồn y vẫn bình thản an nhiên và những phần sâu thẳm của cuộc sống y vẫn không hề bị trộn lẫn. Đó không phải là sự chai cứng vô cảm hứng, hay sự tự kỷ ám thị gượng ép, cũng không phải là một năng lực biểu lộ tâm thức ngoại đến mức không màng bận tâm đến những biến cố xảy đến cho mình từ bên ngoài. Đó là sự cảm hứng mãnh liệt được thăng hoa trở thành sự hiểu biết tập trung chuyên sâu. Khi người đệ tử triển khai được điều đó, y mới được phép sống trong vòng hào quang của Chân Sư. Từ nay, y không còn làm cho sư phụ phải tạm quên trong giây lát những việc lớn lao của Ngài để thao tác không quan trọng là trợ giúp một đệ tử .
Bởi vậy, một đệ tử chính thức văn minh qua sự trung gian của 3 điều nhận thức sau đây :
1 ) Y phản ứng với sự rung động hay đặc tính của một Đạo Viện tùy theo cung của y thuộc về loại nào. Y tiếp xúc với vòng ngoài khu vực trấn áp tập thể của sư phụ và trở nên đệ tử chính thức trong cơn tỉnh táo sáng suốt. Sư phụ ý thức được sự xuất hiện của y ở ngoài vòng tâm thức của Ngài. Các bạn đồng môn của y cũng ý thức được một điểm ánh sáng khác bên trong so với, phần đông do tại họ phải làm một cố gắng nỗ lực để hóa giải những phản ứng phàm ngã của người đệ tử mới so với cuộc hoạt động và sinh hoạt mới, so với những ảnh hưởng tác động gây ra trong tâm thức của y khi y tiến sâu vào quốc tế tâm linh do bởi sự đột khởi, lòng sùng tín của y so với sư phụ. Những đệ tử cao niên hơn có những trách nhiệm che chở và bảo vệ sư phụ chống lại những phản ứng mãnh liệt của người đệ tử mới. Một vị Đạo Đồ sẽ làm trung gian và đảm trách việc chăm nom y. người đệ tử mới như tôi đã nói trước đây chỉ được tiếp xúc với sư phụ khi Ngài muốn và đó là điều tốt, hữu dụng cho toàn nhóm .
2 ) Người đệ tử ngày càng nhận thức được đặc thù và đặc thù của Đạo Viện và tiến bước từ vòng ngoài vào bên trong khu vực tác động ảnh hưởng của sư phụ và nhóm của Ngài. Kế đó, y mở màn tham gia mỗi lúc càng nhiều vào đời sống tập thể và ngày càng ít chú ý quan tâm đến mình hơn. Bởi đó, y trở nên một lợi khí hữu hiệu hơn cho Đạo Viện và được phó thác những trách nhiệm nhất định. Y chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về những công tác làm việc này so với vị Đạo Đồ có phận sự chăm nom y. Sư phụ khởi đầu tiếp xúc với y thường xuyên hơn, và do tại y đã trở nên vô tư kỷ và ngày càng coi sự tân tiến cá thể của mình ít quan trọng hơn việc phụng sự kẻ khác nên y được phép lôi kéo sự chú ý quan tâm qua Sư phụ mỗi khi toàn nhóm cần đến sự giúp sức, và như vậy y trở nên một đệ tử trên đường dây. Con đường thông thương “ ANTAKARANA ” được thiết lập mau chóng và tuôn tràn sinh khí từ tam thế thượng tâm linh càng ngày càng tăng một cách tuần tự và đều đặn. Người đệ tử đã đạt tới một quá trình khả dĩ quy tụ chung quanh mình một vòng ảnh hưởng tác động do hậu quả của sự phóng quang linh hồn xuyên qua phàm ngã. Có thể nói rằng không một người nào trở thành đệ tử trên đường dây trước khi tạo nên được một sự đối sánh tương quan tác động ảnh hưởng so với một số ít đông người ở ngoài trần gian. Ở một giai tầng thấp kém hơn cũng như mối đối sánh tương quan giữa sư phụ so với y. Y cũng ra sức quy tụ một nhóm riêng của y, thường là một cách xô lệch, méo mó và bất toàn, và ngày này đó là trường hợp rất thường thì. Thế gian dẫy đầy những đệ tử đang cố gắng nỗ lực ráo riết để xây dựng những tổ chức triển khai nọ kia và quy tụ chung quanh họ những người mà họ hoàn toàn có thể giúp sức. Đó là một thời cơ để cho họ phát huy một đặc thù và học tập những điều sơ yếu về công tác làm việc tập thể như Thánh Đoàn đang tìm cách thực thi .
3 ) Người đệ tử ứng đáp mãnh liệt và giật mình “ theo quan điểm của y ” với sự rung động của Sư Phụ khi Ngài hoạt động giải trí ngay tại chính TT của hóm đệ tử. Khi đã biết rõ nhịp độ rung động từ lời lôi kéo của Sư Phụ. Y đã trở nên ý thức được đặc thù của Đạo Viện mà Sư Phụ lôi kéo đến y. Bây giờ y được nhận vào chỗ bí nhiệm ở ngay Trung tâm Đạo Viện và trở nên một “ đệ tử trong hào quang ” .
Người đệ tử mở màn góp thêm phần đáng kể vào sự hoạt động và sinh hoạt của Đạo Viện. Mỗi đệ tử xâm nhập hào quang của Sư Phụ qua sự tương đồng tính chất và nhịp độ rung động, làm tăng cường nhóm đệ tử mà y có liên hệ mật thiết .
Với thời hạn qua, Đạo Viện của ĐỨC THẦY càng trở nên can đảm và mạnh mẽ từ điển xạ và phóng quang. Trong vòng hào quang, người đệ tử thực thi việc làm ngay Trung tâm phóng quang của đời sống tập thể và từ đó thi hành việc phụng sự ra bên ngoài. Y luôn coi chừng, bảo vệ Trung tâm đó và giữ sao cho hào quang của y đừng phạm một điều gì có đặc thù bất hảo không tương thích với đặc thù của Chân Sư. Y cũng giữ gìn tư tưởng và dục vọng của y sao cho khỏi làm trộn lẫn hào quang tập thể của toàn nhóm. Khi y được nhận vào quá trình này thì đó là nghĩa vụ và trách nhiệm của y và đặc ân đó không khi nào được ban cho y trừ phi y hoàn toàn có thể tự giữ mình bằng cách đó và bảo vệ khu vực ảnh hưởng tác động chung mà y có một phần tham gia .
Bởi vậy, chư môn đệ thấy rằng Thánh Đoàn cũng chỉ là một Đạo Viện lớn với một hình tam giác ở tại Trung tâm, gồm có Đức Chưởng Giáo Christ, Đức Văn Minh Đại Đế “ MAHA CHOHAN ” và Đức Bàn Cổ “ MANOU ”. Cái hình tượng tam giác đó là một TT phóng quang vì sự phát quang của mỗi vị trong 3 Đấng Cao Cả ấy diễn ra theo một thể cách làm cho hào quang của những Đấng ấy hòa lẫn và hợp nhất với nhau. Mỗi Đạo Viện tỏa ra một đặc tính tùy theo việc làm của vị Chân Sư ở Trung tâm. Cũng y hệt như thế Thánh Đoàn tỏa ra đặc thù Ngôi Hai của Thượng Đế giống như SHAMBALLA tức Đạo Viện trên quy mô thượng đẳng bao hàm đặc tính trội nhất của Ngôi Một tức là sự sống vậy .
Hào quang của Sư Phụ cũng là hào quang của toàn thể Đạo Viện. Có 3 loại phát quang mà người đệ tử hoàn toàn có thể ứng đáp :
1 ) Sự phát quang đến từ cảnh giới cao của cõi thượng giới hay từ góc nhìn thấp nhất của Tam Thế Thượng Tâm linh “ MANAS ”. Mãnh lực của sự phát quang này và tầm mức khu vực ảnh hưởng tác động sẽ được quyết định hành động bởi mức độ tiếp xúc tâm linh của Sư Phụ với trí năng của Thượng Đế. Chính sự phát quang này khêu gợi một sự cung ứng từ cái Trí trừu tượng phôi thai của người đệ tử khi đường thông thương “ ANTA ” được thiết lập. Đó là loại tiếp xúc tiên phong mà người đệ tử sơ cơ cung ứng trong những quá trình sau cuối của con đường dự bị ,
2 ) Sự phát quang đến từ cõi bồ đề hay cõi trực giác tâm linh “ BOUDHI ” đó là sự biểu lộ đặc thù bác ái của Sư Phụ, nó giúp cho Ngài tiếp xúc với tình thương của Thượng Đế. Ba loại phát quang này xuất phát từ Chân Sư và được tăng cường bởi những sự phát quang tựa như tuy kém mãnh liệt hơn nhiều của những đệ tử nội môn trong Đạo Viện, là những yếu tố làm cho Sư Phụ và Đạo Viện tiếp xúc với điều mà huyền môn gọi là Ngôi Mặt Trời sức khỏe thể chất, qủa tim của Mặt trời và Mặt trời Tâm linh TW .
3 ) Sự phóng quang đến từ cõi Niết bàn hay góc nhìn ý chí của Tam Thế Thượng “ ATMA ”, để ghi nhận mục tiêu của Thượng Đế và hợp tác với Thiên Cơ. Thiên Cơ này tức là sự biểu lộ việc triển khai ý chí thiêng liêng trong một chu kỳ luân hồi nhất định .
Một sự kiện lý thú hoàn toàn có thể được nêu ra ở đây. Khi người Đạo Đồ đã tăng cường sự rung động của mình đến mức đồng nhất với sự rung động của ĐỨC THẦY và hoàn toàn có thể giữ vững nhịp độ rung động đó như là nhịp độ thường thì của mình thì khi đó người đã trở nên một vị Chân Sư. Trong mỗi Đạo Viện, vào một lúc nhất định nào đó, luôn luôn có một đệ tử được truyền pháp để thay thế Chân Sư để Ngài hoàn toàn có thể đảm nhiệm những việc cao quý quan trọng hơn. Như chư môn đệ đã biết, tôi là người đệ tử trưởng tràng của ĐỨC THẦY K.H. và khi tôi đắc quả vị Chân Sư, tôi được thay chân Ngài để cho Ngài lãnh trách nhiệm khác cao quý hơn và một đệ tử khác thay tôi lên làm trưởng tràng trong nhóm đệ tử của Ngài. Phải cần đến hai vị đệ tử thay thế sửa chữa để cho một ĐỨC THẦY được trọn vẹn giải nhiệm so với mọi việc làm trong Đạo Viện, và tôi là người thứ nhất trong 2 người được chọn để thao tác này. Người kia vẫn chưa đắc quả vị. Khi phương pháp đồng điệu này diễn ra, thì tổng thể thành viên trong Đạo Viện đều hoàn toàn có thể tiến lên một bực, tuy rằng điều này ít khi xảy ra .
Chân Sư luôn luôn có 3 đệ tử thân tín nhất, hợp tác rất ngặt nghèo với Ngài và trông nom những đệ tử khác trong nhóm tùy theo nhu yếu, trình độ tiến hóa và cung của họ. Đức Christ khi xưa cũng có 3 vị mục tiêu thân cận với Ngài hơn 9 vị khác. Truyện tích về Đức Christ như được miêu tả trong Kinh Thánh cho thấy hình ảnh một Đạo Viện và hình ảnh của Thánh Đoàn. Ngài có ba vị đệ tử thân yêu và tin yêu nhất, kế đó 9 vị khác hoàn thành xong Đạo Viện Nội môn. Kế đó nữa là 70 vị tượng trưng toàn thể Đạo Viện, ở đầu cuối là 500 người tiêu biểu vượt trội cho những đệ tử dự bị dưới sự trông nom của Ngài chứ không phải dưới sự hướng dẫn của 3 vị, 9 vị và 70 vị kia cho đến khi họ được nhận vào nhóm đệ tử chính thức. Trong Đạo Viện Thượng đẳng “ Đức SANAT KUMARA ” cũng có một mạng lưới hệ thống tựa như trên một giai tầng cao hơn gồm những Đấng Cao Cả trong nhóm những tập sự viên thân tín của Ngài. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng những Đấng ấy là những nhân vật tượng trưng chứ không có thật. Số đệ tử trong một Đạo Viện vẫn tiếp tục biến hóa nhưng luôn luôn có 3 vị chịu nghĩa vụ và trách nhiệm với Sư phụ để quản đốc mọi hoạt động giải trí của Đạo Viện. Họ là những vị cố vấn thân tín nhất và thực thi những kế hoạch của Ngài .
Chúng ta đã thấy rằng người đệ tử phát nguyện đã đạt tới tiến trình trở thành một đệ tử chính thức, tiến bước lần lần từng điểm trong vòng chu vi khu vực ảnh hưởng tác động của Chân Sư cho đến khi y đạt tới một thời kỳ mà y “ biết ” được hào quang của Chân Sư một cách ý thức. Câu này có vẻ như thật không có ý nghĩa, nhưng trên khía cạnh huyền môn lại rất đúng như lý giải dưới đây :
1 ) Người đệ tử không những ý thức được Chân Sư mà còn biết rõ những gì ở trong trí của Ngài. Điều này có nghĩa là y tiếp xúc liên tục với Chân Sư bằng TGCC .
2 ) Y đã vượt qua quy trình tiến độ khảo sát nội tâm để tìm hiểu và khám phá xem Chân Sư muốn y làm những việc gì. Y biết rõ cái vai trò mà y phải góp phần trong đại cuộc .
3 ) Y cung ứng bén nhạy với hào quang của Chân Sư không những trên cõi vô hình dung và trong Đạo Viện, mà cũng cung ứng bằng khối óc vật chất của y. Y vận động và di chuyển, đi đứng trong vòng hào quang ấy trong đời sống hàng ngày. Phương thức này đương nhiên gồm 5 quy trình tiến độ .
a ) Y tiếp xúc bằng TGCC, trí óc của y cung ứng với trí năng của Chân Sư .
b ) Bởi vậy, y ý thức được tư tưởng của Chân Sư bằng cái trí của mình. Điều này ảnh hưởng tác động đến đời sống và việc làm phụng sự của y. trí năng của y luôn luôn chuyển đạt những ấn tượng y nhận được bằng TGCC cho nó trở thành những công thức rõ ràng, trật ự để sử dụng vào những phương pháp chỉ định .
c ) Ở quá trình này vì đã tương đối giải thoát khỏi ảo ảnh, ảo giác, nên y hoàn toàn có thể phân phối từ góc nhìn nhạy cảm và xúc cảm, và bởi đó y hoàn toàn có thể chuyển đạt những kế hoạch của Sư Phụ lên cõi trung giới .
d ) Ở mức độ dĩ thái, y hoàn toàn có thể mở màn hoạt động giải trí với năng lượng của Đạo Viện mà Chân Sư hoàn toàn có thể dành cho y sử dụng trên cõi phàm trần. Y trở nên một vị “ phóng phát năng lượng ” và chừng đó y hoàn toàn có thể tạo nên tác dụng trên cõi hồng trần .
e ) Khối óc của y trở nên ý thức được tính cách hàng loạt ảnh hưởng tác động của 4 phương pháp trên đây và y bước vào tiến trình mới của con đường đệ tử hữu thức. Qua sự tác động ảnh hưởng của chân ngã và ảnh hưởng tác động của Chân Sư, y nhận thức được Thiên Cơ một cách rõ ràng như phô bày trước mắt y. Đây không phải chỉ là một tiến trình tiến hóa cao trên Đường Đạo của người đệ tử, mà còn gồm có kiến thức và kỹ năng hiểu biết của vị Đạo Đồ. Người đệ tử sơ cơ biết rằng mục tiêu của nhà huyền học là sử dụng năng lượng. Tuy nhiên y không biết rằng điều ấy không hề thực thi một cách ý thức cho đến khi nào y đã hội đủ những điều kiện kèm theo sau đây :
1 ) Y đã ảnh hưởng tác động như một vận hà trong một thời hạn vĩnh viễn. Hãy suy gẫm về điều này. Việc đạt tới năng lực làm vận hà thuần túy và phân phối năng lượng một cách lưu thông, không bị chướng ngại là mục tiêu tiên phong và yên cầu một thời hạn vĩnh viễn. Năng lực do một đệ tử phân phối, trước khi thiết lập một vận hà lưu thông và vững vàng thường là bị nhuộm mầu bởi đậm cá tính riêng không liên quan gì đến nhau của y “ dẫu cho đó là một đậm cá tính xuất sắc ưu tú tốt đẹp ”. Trong tương lai sẽ đến một thời kỳ mà người đệ tử hoàn toàn có thể phân phối năng lượng thuần túy của Đạo Viện tùy ý muốn .
2 ) Bởi đó, người đệ tử phải phân phối năng lượng chứ không phải mãnh lực. Có một sự lầm lẫn rất lớn trong trí của nhiều đệ tử về yếu tố này. Trừ phi y là một Đạo Đồ hạng sang, người đệ tử ít khi phân phối năng lượng. Y chỉ ảnh hưởng tác động với những mãnh lực thuộc về ba cõi giới. Khoa huyền môn có nói rằng : “ Khi người đệ tử hoàn toàn có thể phân phối 4 loại mãnh lực và phát âm được 7 âm điệu của chúng, mỗi âm điệu trong 7 thứ âm điệu này có một sự biểu lộ tứ diện, y không hề sử dụng năng lượng. Khi y sử dụng năng lượng, y tác động ảnh hưởng với 7 chứ không phải 28 ”. Hãy suy gẫm về câu này. Tôi nói thêm rằng 28 thuộc về số 7 và khi người đệ tử ảnh hưởng tác động với số 7, y đương nhiên giải tỏa số 28 và thao tác dưới ấn tượng đặc tính của 7 cung .
3 ) Y còn phải học vận dụng những sự phân biệt và tổng hợp. Đây là một điểm gợi ý có công dụng đặc biệt quan trọng cho những người phụng sự .
4 ) Y biết những mối nguy hại mà người Đạo sinh sơ cơ hoàn toàn có thể gặp phải khi nỗ lực phân phối mãnh lực hay điều khiển và tinh chỉnh năng lượng theo một chiều hướng nhất định. Y nhận thức rằng mục tiêu của y là làm một vận hà trong một thời hạn vĩnh viễn do bởi một đời sống tinh khiết, xu thế đúng đắn và không chỉ trích. Sự khuynh hướng đúng đắn này gồm có một điều xích míc mà toàn bộ những đệ tử phải xử lý, đó là hướng về chân ngã và Đạo Viện nhưng đồng thời cũng hướng về quả đât. Chỉ có những đệ tử thân cận trong tận tâm với Chân Sư và do đó ý thức được hào quang của Ngài, mới có quyền điều khiển và tinh chỉnh mãnh lực theo những đường hướng nhất định. Khi họ chưa đạt tới vị thế đó thì trách nhiệm của họ là làm những vận hà để phân phối năng lượng một cách tổng quát và đại đồng chớ không theo một đường lối nhất định .
Một ĐỨC THẦY hoặc trên một Cấp Đẳng cao hơn, Đấng Chưởng Giáo thường bị những đệ tử làm khổ nhiều hơn là vì những người ở ngoài trần gian. Công việc của những Ngài bị làm trở ngại bởi những đệ tử đã biến hóa cao nhiều hơn là bởi những tư tưởng gia uyên bác ở ngoài đời. Hãy nhớ rõ điều ấy trong lúc này. Không phải là sự gian ác của người đời đã gây nên những nỗi khổ đau cho Đấng Christ khi Ngài còn tại thế mà chính là những tông đồ của Ngài, cùng với khối nghiệp quả tích tụ của quả đât trải qua thời hạn, rải rác trong quá khứ, hiện tại và tương lai .
Những đệ tử họp thành từng nhóm hoạt động giải trí ngoài trần gian, nhiều người trong số đó làm công tác làm việc hữu hiệu hơn rất nhiều so với những đệ tử quy tụ trong những nhóm nội môn. Người đệ tử chính thức hạng sang luôn luôn có một nhóm riêng mà y quy tụ chung quanh mình để triển khai những việc có tính cách tích cực và phát minh sáng tạo. Hãy nhớ lấy điều này : Tiêu chuẩn để xét đoán năng lực của một đệ tử là tác động ảnh hưởng của y so với kẻ khác, đó là ảnh hưởng tác động mà y tạo nên do bởi sự truyền bá đạo lý bằng ngòi bút, bằng sự thuyết pháp và ảnh hưởng tác động cá thể xuyên qua gương mẫu của mình .
Trong sự công phu tu luyện của người đệ tử, việc sử dụng những bí huyệt hay luân xa phần đông tùy nơi y thuộc về cung nào. Chân Sư không khi nào dùng những bí huyệt của người đệ tử làm khí cụ phân phối năng lượng. Những bí huyệt khi hoạt động giải trí đúng cách là những kho dự trữ và phân phối năng lượng t6o màu bởi đặc thù đặc biệt quan trọng của người đệ tử. Trong những quy trình tiến độ ở đầu cuối trên đường Đạo của người đệ tử, những luân xa ấy trọn vẹn đặt dưới sự trấn áp của linh hồn xuyên qua nê hường cung. Nhưng phải nhớ rằng sau cuộc điểm đạo thứ tư và thể thượng trí tan rã, thì không có một thể nào còn giam hãm người đệ tử trong cõi sắc tướng hay làm cho người bị số lượng giới hạn nữa. Sau cuộc điểm đạo thứ ba, những bí huyệt thấp hơn không còn trấn áp những cơ phận cung ứng sức khỏe thể chất. Theo quan điểm huyền môn Thượng Đẳng và khi người đệ tử đã ở bên trong Đạo Viện, những bí huyệt được coi là những TT luân chuyển năng lượng. Trước cuộc điểm đạo thứ ba, những bí huyệt có một tầm quan trọng trong thời điểm tạm thời trong sự tu luyện, do tại chính do đó mà người đệ tử học hỏi về đặc thù của năng lượng, sự dị biệt của nó với mãnh lực và những chiêu thức phân phối năng lượng như thế nào .
Thành phần cấu trúc chân ngã hay linh hồn là yếu tố số 1 cho Sư phụ trong việc giảng dạy người đệ tử đảm nhiệm việc làm củ Thánh Đoàn. Điều này đương nhiên sử dụng đến 3 bí huyệt ở trên, đó là những bí huyệt trên đỉnh đầu, tim và cuống họng. Sư phụ đặc biệt quan trọng chú trọng đến cái gọi là “ hoa sen chân ngã ”, và đây là một điểm mà người đệ tử rất hay quên. Linh hồn chú trọng đến đời sống riêng của nó, còn những cụ thể về sự sống của phàm ngã không có tác động ảnh hưởng gì so với tâm thức của chân ngã. Trong khi sự sống của phàm ngã tăng trưởng mãnh liệt, thì chân ngã vốn đã đảm nhiệm những gì cao quý tốt đẹp nhất mà phàm ngã đáp ứng trong những nguyện vọng cầu tiến của nó và đã từ từ chú ý quan tâm đến trí năng của phàm ngã cũng đã ý thức được một yếu tố chống đối biểu lộ của chân ngã trong đời sống bên ngoài. Khi đó thì khởi đầu diễn ra một cuộc xung đột giữa những cặp đối tượng người dùng xích míc, một cuộc chiến đấu giữa chân ngã và phàm ngã diễn ra một cách ý thức từ cả hai phía. Cuộc xung đột này trước mỗi lần trong ba cuộc điểm đạo tiên phong, cứu cánh là đưa đến sự chạm trán giữa hai đối phương : kẻ giữ cửa “ vong linh thử thách người đệ tử muốn vượt qua cửa điểm đạo ” và Đấng Hiện diện Thiên Thần. Ở đây, tất cả chúng ta không nói về đại chiến đầu này, tất cả chúng ta chỉ nói về sự cung ứng với năng lượng của Thánh Đoàn hàm súc trong hào quang của Chân Sư và từ đó chuyển sang con người đệ tử, những đường chuyển vận năng lượng đó hoàn toàn có thể được nêu ra như sau :
1 ) Thánh Đoàn ( ĐẠI ĐOÀN CHƯỞNG GIÁO ) : Chân Sư, Đạo Viện, Chân ngã của người đệ tử
2 ) Nhân loại : người đệ tử, đường giao thông vận tải ANTAHKARANA, ba bí huyệt ở phần trên .
Đó là phương pháp đại cương và tổng quát đi từ cái đại thể ( nói riêng về cá thể người đệ tử ) đến tiểu tiết tức là người đệ tử trong xác phàm .
Những chi tiết cụ thể về sự ban rải năng lượng, hay phương pháp cảm hứng tâm linh ( cả hai câu này đều miêu tả ý niệm ứng đáp với hào quang của Chân Sư ) hoàn toàn có thể được trình diễn như sau :
Hào quang của Chân Sư
Hoa sen của chân ngã hay thể của linh hồn
Sự lưu thông năng lượng của Đạo Viện xuyên qua :
Những hoa sen quyết tử hay góc nhìn của ý chí .
Những cánh hoa tình thương hay góc nhìn minh triết / bác ái
Những cánh hoa kỹ năng và kiến thức hay góc nhìn trí năng. Phương thức này sẽ chịu ảnh hưởng tác động bởi loại cung của người đệ tử .
Sự phân phối của người đệ tử trên cõi trần và sự thụ cảm của những bí huyệt của y với hoạt động giải trí của chân ngã, dưới ấn tượng của Chân Sư sẽ diễn ra như sau :
Những cánh hoa quyết tử sẽ chuyển di năng lượng đến Nê Hườn cung, xuyên qua những cánh hoa quyết tử ( có 3 cánh toàn bộ ) Trong vòng cánh hoa chung quanh “ viên ngọc trong hoa sen ”, từ đó đến cánh hoa quyết tử trong 3 cánh hoa tình thương, và trong 3 cánh hoa kiến thức và kỹ năng. Thế là có toàn bộ 5 cánh chuyển đạt ý chí .
Những cánh hoa tình thương cũng chuyển vận năng lượng tình thương giống y như trên đến bí huyệt ở tim xuyên qua những cánh hoa tình thương toàn bộ cũng có 5 cánh .
Những cánh hoa kiến thức và kỹ năng chuyển vận năng lượng của hoạt động giải trí trí tuệ đến bí huyệt nơi cuống họng cũng theo giải pháp giống như trên xuyên qua 5 cánh hoa kiến thức và kỹ năng .
Phương thức này tiếp nối trong thể chân ngã và do người đệ tử ghi nhận trên cõi hồng trần, rốt cuộc tạo nên cái gọi là một “ Trung tâm thỉnh nguyện can đảm và mạnh mẽ ”. Trung tâm thỉnh nguyện này khêu gợi sự cung ứng từ Tam Thế Thượng tâm linh được nêu ra như sau :
1 ) Tam Thế Thượng Tâm linh, kho gìn giữ năng lượng của chơn thần hột chủng tử ý chí ( ATMA ) – những cánh hoa quyết tử – Đường giao thông – ANTAHKARANA – hột chủng tử hồng trần trong hoa sen chân ngã – Bí huyệt trên đỉnh đầu .
2 ) Tam Thế Thượng Tâm linh – Hột chủng tử Minh triết ( BUDDHI ) – Những cánh hoa tình thương – Đường giao thông – ANTAHKARANA – Một chủng tử thể tình cảm trong hoa sen chân ngã – Bí huyệt nơi quả tim .
3 ) Tam Thế Thượng Tâm linh – Một chủng tử trí tuệ ( MANAS ) – những cánh hoa kiến thức và kỹ năng – Đường giao thông – ANTAHKARANA – Đơn vị trí năng – Bí huyệt nơi cuống họng .
Những cụ thể trên đây thuộc về phần kỹ thuật của công phu tu luyện, vốn thuần lý thuyết và chỉ là những hình tượng bằng ngôn từ của phương pháp tiến hóa tất yếu và bất khả kháng. Phương thức ấy miêu tả nguồn cảm hứng thiêng liêng mà tổng thể mọi người đều phải trải qua như một phần hoạt động và sinh hoạt của Thượng Đế và được đảm nhiệm một cách ý thức khi con người đạt tới những tiến trình bước vào con đường của người đệ tử và quá trình điểm đạo. Phương thức này, nếu được hiểu rõ, chứng tỏ đặc thù của khoa luyện khí công, hay luyện hơi thở. Hơi thở hay khí vận là tổng thể tuyệt kỹ của sự tu luyện. Trong phương pháp lôi kéo và thỉnh nguyện, vốn là trụ cột của toàn thể phương pháp này, có sự gợi ý về cơ cấu tổ chức và trái tim của MẶT TRỜI, cơ phận của THÁI DƯƠNG HỆ hiện tại và của hàng loạt mạng lưới hệ thống tiến hóa trong cơ hoạt động và sinh hoạt của ngoài hành tinh .
Khảo sát về những quá trình trên đường Đạo thật rất khó mà giảng giải cho người sơ cơ biết rõ ràng về trạng thái tâm linh và những diễn biến nội tại. Điều này cũng do bởi sự kiện rằng tôi nỗ lực diễn đạt yếu tố ý thức vốn không có trong tầm kinh nghiệm tay nghề của chỉ đến người đệ tử đã tiến hóa cao. Khi tôi nói về ba quy trình tiến độ sau cuối tất cả chúng ta đề cập đến điều gọi là tâm thức của người, Đạo Đồ ở vào trạng thái khai triển cao độ với một sự hiểu biết không thể nào miêu tả bằng ngôn từ hay danh từ .
Chư môn đệ có thấy chăng là người Đạo Đồ hạng sang sống trong một quốc tế đặc biệt quan trọng với những phản ứng và hiện tượng kỳ lạ tế vi, trọn vẹn không hề tư tưởng được so với người đệ tử trung bình ? Bởi vậy, trong khi y hoạt động giải trí trên cõi hồng trần hay trong 3 cõi giới, y chỉ vận dụng góc nhìn tâm thức thấp thỏi nhất. Tôi đã hướng dẫn cho chư môn đệ trong nhiều năm qua và chư môn đệ đã có một sự thú vị sâu xa. Chư môn đệ đã thấu triệt nhiều giáo lý huyền môn do tôi đưa ra và biết nhiều về mặt kim chỉ nan. Điều này được chứng tỏ bởi sự thú vị theo dõi và những câu hỏi mà chư môn đệ đã nêu ra. Những câu hỏi ấy nêu những vướng mắc về những hột chủng tử ( hay hột nguyên tử vĩnh cửu ) về công dụng hoạt động giải trí và phương pháp tiếp dẫn sinh khí của chúng .
Theo quan điểm của vị Đạo Đồ, những yếu tố ấy không quan hệ. Lưu ý vướng mắc về những hột chủng tử cũng chẳng khác chú ý quan tâm đến chất cường toan trong dạ dày, nó làm cho phương pháp hoạt động giải trí trên cõi hồng trần luôn luôn tái tạo không ngừng. Sự tương đương đó chắt chẽ hơn là chư môn đệ tưởng. Theo huyền môn, một sự quan tâm quá đáng đến cỗ máy tiêu hóa hay bất kỳ một bộ phận nào trong khung hình đều đưa đến sự khó khăn vất vả, bất mãn. Những người bị bệnh kinh niên đều phạm vào lỗi lầm này ( tuy không phải tổng thể ) do bởi sự chú trọng quá đáng của họ đến phần hình hài sức khỏe thể chất trên cõi hồng trần trong một thời hạn rất lâu. Người ta hoàn toàn có thể bị một bệnh tật nặng nề nhưng vẫn tràn trề sinh lực và không màng chú ý quan tâm đến thể xác đến mức làm cho bệnh nhân không hề lê dài kinh niên. Đây không phải là yếu tố ý thức thắng đoạt vật chất mà là yếu tố phân phát năng lượng làm vô hiệu ảnh hưởng tác động mối đe dọa của bệnh tật vào trong tâm thức. Hãy suy gẫm về câu sau này vì nó nắm cái tuyệt kỹ của việc giữ gìn sức khỏe thể chất trong tương lai .
Cũng y hệt như thế, sự chú trọng liên tục đến những chủng tử và vòng xoáy chân ốc sẽ đưa đến việc tăng cường sự sống hình thức và sự tác động ảnh hưởng thô bạo của mãnh lực đi xuyên qua chúng. Mục đích của phần đông đệ tử không phải là số lượng giới hạn tâm thức của họ bằng cách tập trung chuyên sâu vào những sự vật tế vi như hột chủng tử ví dụ điển hình và những cụ thể tương quan đến phần hình hài sắc tướng của một người. Mục đích của mỗi Đạo sinh là nới rộng tâm thức để gồm có cả những gì ở bên ngoài con người của y, để đạt tới những trạng thái tâm thức cao siêu hơn trong đời sống của tập thể và của quả đât, và tự phối hợp với Thánh Đoàn cứu cánh với SHAMBALLA, và trên phương diện mật nhiệm để “ biết ” Thượng Đế .
Sự nghiên cứu và điều tra tỉ mỉ và chú trọng đến những nguyên từ và những vòng xoáy trôn ốc có một sự thú vị về phương diện khoa học kỹ thuật, nhưng không đưa đến sự tăng trưởng tâm linh mà chỉ đưa đến sự đặt nặng phàm ngã, và thế cho nên, nó đưa đến thêm nhiều sự khó khăn vất vả trên Đường Đạo. Người đệ tử càng tiến hóa cao, thì sự đặt nặng và chú trọng quá đáng như vậy lại càng nguy khốn hơn nhiều. Trong khi đó, nhà bác học hay người Đạo sinh sơ cơ trên đường dự bị hoàn toàn có thể khảo cứu những yếu tố đó một cách tương đối bảo đảm an toàn do tại họ không vận dụng năng lượng để hoàn toàn có thể làm cho những “ điểm mãnh lực ” đó trở nên có tác động ảnh hưởng nguy khốn .

Giai đoạn VI : Người đệ tử trong lòng của Sư phụ

Đây là tiến trình ở đầu cuối trong 6 tiến trình trên đường Đạo. Tôi đã miêu tả tiến trình này ở phần mở đâu như sau :
Trong quá trình 6 người đệ tử luôn luôn giao cảm mật thiết với sư phụ. Y được sẵn sàng chuẩn bị Điểm đạo hoặc sau khi được điểm đạo, y được phó thác công tác làm việc đặc biệt quan trọng này. Ở tiến trình này, y được gọi là “ người đệ tử trong lòng của Sư phụ ”
Câu “ trong lòng của Sư phụ ” không có nghĩa ám chỉ một sự liên hệ tình cảm giữa sư phụ và đệ tử. Ý nghĩa thường thì được gán cho câu ấy là sau cùng người đệ tử đã xứng danh được yêu dấu thật sự và vì thế được thân mật mật thiết với sư phụ. Nhiều kiếp làm công quả phụng sự đã đưa đến cho y cái phần thưởng đó. Y đã được tự do tiếp xúc với Sư phụ trong một mối đối sánh tương quan ngặt nghèo đầy thông cảm và ưu tiên. Nhưng tiến trình này tuyệt đối không đề cập đến điều đó .
Còn một điều nữa cần hiểu rõ là khi người đệ tử đạt tới tiến trình này, y không còn là đệ tử chính thức nữa, y là Đạo Đồ hạng sang đã vượt ra ngoài sự giám sát và bảo vệ của Sư phụ để bước vào mối liên hệ trực tiếp với Đức Chưởng Giáo, là thầy của những Chân Sư và trụ điểm Trung ương của Thánh Đoàn, cũng như Sư phụ là trụ điểm của một Đạo Viện. Sư phụ là TT của một nhóm đệ tử còn Đức Chưởng Giáo là TT của Thánh Đoàn. Khi hành giả càng tiến gần đến đích triển khai chân ngã thì y càng nhận thức rõ ràng hơn rằng điểm TT và vòng chu kỳ luân hồi là một .
Ý nghĩa của chữ “ lòng ” chính là ý nghĩa của sự sống vì nó vẫn thoi thóp một cách trường cửu ở TT thiên hà. Trong sự sống đó người Đạo Đồ hiện hữu một cách ý thức và tự nhận thức rằng mình không thọ lãnh sự sống bằng ban phát những sự sống. Đó là một điều khác hẳn và nắm giữ những tuyệt kỹ của tiến trình này trên Đường Đạo. “ Lòng của Sư phụ ” là một danh từ kỹ thuật ám chỉ những nguồn sống và nhiều ý nghĩa tương tự như. Ở quy trình tiến độ này và sau cuộc điểm đạo lớn, có một đường năng lượng hay sinh khí trực tiếp ( được cảm nhận và sử dụng ) giữa người đệ tử hữu thức và :
Bí huyệt nơi quả tim
Bí huyệt trên đỉnh đầu
Hoa sen chân ngã, sau cuộc điểm đạo thứ tư là bí huyệt tim của đời sống chơn thần .
Sư phụ ở trong nhóm qua Ngài
Đức Chưởng Giáo ở TT của Thánh Đoàn .
Sự sống chơn thần mở màn biểu lộ cuộc điểm đạo thứ ba. Đức Ngọc Đế TT của Bạch Ngọc Cung ( SHAMBALLA ) .
Khi đó đường dây liên hệ này nới rộng từ những TT hướng tới trước, lên trên và ra bên ngoài đến tận sự sống ở bầu Kim Thinh, Mộc Tinh rồi từ đó đến Đức Thái Dương Thượng Đế và đến một điểm trong Mặt Trời SIRIUS .
Như thế quy trình tiến độ này khác rất xa với những gì ta hoàn toàn có thể tư tưởng. Đó là quá trình ghi dấu cuộc khởi đầu mới và một điểm giao thời quan trọng. Đó là một quy trình tiến độ mà người ta bước vào xuyên qua cánh cửa Niết Bàn mở ngỏ, nơi khởi đầu của con đường tiến hóa siêu nhân loại .
Trước đây tôi có nói về những đệ tử ngoài trần gian được thân thiện với quả tim củ sư phụ. Điều này không giống như là “ ở trong lòng của Sư phụ ”. Câu trên đề cập đến Chân Sư thuộc cùng một cung với đệ tử, câu dưới đề cập đến Đức Chưởng Giáo, tức sự tổng hợp cả những cung trong khoanh vùng phạm vi của Thánh Đoàn. Thế giới ngày này có nhiều thời cơ để cho tổng thể những đệ tử trở nên những đệ tử của trần gian, thân thiện với quả tim của Sư phụ và để cho họ vượt qua mau chóng những quá trình đầu trên Đường Đạo. Nó đưa đến thời cơ cho những đệ tử ngoài trần gian khởi đầu tiến bước gần đến Đức Chưởng Giá. Chư môn đệ phải chú ý quan tâm đến thời cơ tiên phong này, vì khi chư môn đệ tiến đến gần hơn với nhóm của mình thì chư môn đệ hoàn toàn có thể khởi đầu sự giảng dạy để được hữu dụng ngoài trần gian. Phần đông chư môn đệ có cho rằng mình đã quá cao niên để triển khai việc đó chăng ? Điều đó chư môn đệ hãy tự giải đáp. Linh hồn vốn không có tuổi tác và hoàn toàn có thể sử dụng cái thể xác của nó nếu thể xác ấy tự đào luyện thành một khí cụ thích nghi và chuẩn bị sẵn sàng. Chư môn đệ có quá an phận và quá bận tâm với bản thân mình để hoàn toàn có thể thực thi sự bình thản, tách rời, không lưu luyến, là đức tính thiết yếu cho việc phụng sự trần gian chăng ? Điều đó chư môn đệ phải tự mày mò lấy và chứng tỏ lấy so với mình. Nhóm đệ tử này đã được đáp ứng nhiều thời cơ và được truyền dạy nhiều giáo lý. Đáng lẽ nó phải chứng tỏ lòng sùng tín và làm công quả phụng sự đến một mức độ khác thường. Tôi tự hỏi không biết có được như vậy chăng ? Chư môn đệ có bị xuống niềm tin quá đổi chăng ( điều này cũng đồng nghĩa tương quan với lòng ích kỷ ) và quá nhạy cảm để hoàn toàn có thể phụng sự quả đât nhiều hơn từ trước đến nay ? Điều đó hoàn toàn có thể khắc phục được nếu chư môn đệ muốn. Điều mà chư môn đệ chú trọng riêng tư đến bản thân mình, nó luôn ngăn cách chư môn đệ với đồng loại ? Điều đó chư môn đệ cũng hãy tự tò mò lấy. Chư môn đệ có thật sự nhỏ nhoi, nhã nhặn và nhận thức được sự vĩ đại, huy hoàng của Thiên Cơ, hay là có sự tự tiếp xúc mặc cảm rồi coi như đó là tín hiệu của sự nhã nhặn tâm linh ? Chư môn đệ có cần xét lại ý nghĩa của đức nhã nhặn, cũng như toàn bộ những đức tính khác, theo ý niệm huyền môn và đặt lại yếu tố những giáo lý tâm linh .
Trước đây tôi có đề cập tới những đệ tử quy tụ trong chu kỳ luân hồi hiện tại theo lời lôi kéo của Thánh Đoàn, câu này có tương quan, nhất định, trong thời kỳ này với những đầu đề “ những quá trình trên đường Đạo ”. Lời lôi kéo của Thánh Đoàn được phát ra cho toàn thể quả đât, xuyên qua trung gian những nhóm đệ tử và Đạo Viện do những Đức Thầy tinh chỉnh và điều khiển. Lời lôi kéo ấy được tiếp đón bởi nhiều loại người khác nhau, và trong sự phân phối của họ. Lời lôi kéo ấy đã bị méo mó, rơi lệch nhiều, chỉ có những đệ tử hạng sang mới tiếp xúc đúng đắn hay phân phối một cách vừa đủ. Những người khác chỉ cung ứng một vài góc nhìn của lời lôi kéo và sự hoạt động giải trí của họ rất kém, vì địa thế căn cứ trên sự diễn đạt sai lầm đáng tiếc bị nhuộm mầu bởi những kém khuyết của phàm ngã, trầm trệ bởi sự bất động và thường là do động cơ ích kỷ. Do sự phân phối của những đệ tử trong nhóm hay Đạo Viện Đức Thầy hoàn toàn có thể phân biệt vị trí hay mức độ tiến hóa của người đệ tử, tuy rằng tất yếu còn có nhiều vật chứng khác làm tiêu chuẩn xét đoán việc ấy .
Chúng ta hãy xét qua vài loại người phân phối với lời lôi kéo ấy. Phần đông cung ứng một cách vô ý thức, nhưng phản ứng thuận tiện, chính bới có một cái gì trong người họ hòa hợp với lời lôi kéo, hay do tại họ nhạy cảm với vài loại tác động ảnh hưởng rung động nhất định nào đó. Đó là những loại người sau đây :
1 ) Những người thật sự yêu thương nhân loại, tuy họ hoàn toàn có thể không biết gì về giáo lý huyền môn, nhưng có lòng ưu tiên để cố gắng nỗ lực trợ giúp đến mức tối đa. Ho hoàn toàn có thể được Thánh Đoàn sử dụng một cách vô ý thức để làm điều lành và công tác làm việc từ thiện một cách hữu hiệu. Họ thường hành vi có tác dụng kiến thiết xây dựng hơn những đệ tử hữu thệ hay nhập môn. Bởi vì họ không có ý thức về vị thế, cấp đẳng hay nghĩa vụ và trách nhiệm trong Đạo Viện và tầm mức quan trọng cá thể của mình .
2 ) Những người có năng khiếu sở trường thông linh ở khắp nơi trên quốc tế và thuộc đủ mọi loại. Họ giao cảm với những nhân vật trên cõi trung giới, tiếp thu được ấn tượng thanh cao hay đảm nhiệm được bằng TGCC vài góc nhìn của ý niệm phóng phát ra. Trong những trường hợp đó luôn luôn có ảo ảnh, ảo giác, cảm nhận méo mó, xiêu vẹo và hiểu sai lầm đáng tiếc. Điều này gây nên nhiều sự khó khăn vất vả, nhưng đó là một sức mạnh mà những nhà chỉ huy và giáo hóa quả đât phải quan tâm. Nó tác động ảnh hưởng đến những thành phần kém mưu trí nhất trong quần chúng và đưa đến cho họ một ý niệm đại cương, tuy rơi lệch về Thiên Cơ, nhưng làm cho người tri thức phải bực mình và làm cho việc làm của người đệ tử càng thêm khó khăn vất vả, phức tạp .
3 ) Những đệ tử dự bị, họ tiếp đón và phân phối với ấn tượng này mau lẹ và rõ ràng hơn hạng người nói trên. Họ thường tiếp đón điều ấy qua nhãn quang và lời giáo huấn của một đệ tử hạng sang. Công việc phụng sự của họ so với Thiên Cơ thường bị hỏng do sự vô minh, chấp ngã và hiểu sai lầm giáo lý. Họ quá thiên lệch trong sự học hỏi chân lý và trong sự tiếp xúc với vị đạo sư của mình .
4 ) Những đệ tử chính thức, họ đảm nhiệm ý niệm và kế hoạch của Chân Sư một cách tuyệt vời và hoàn hảo nhất hơn nhiều, nhưng thường không triển khai được khá đầy đủ đúng theo tiêu chuẩn trong đời sống hàng ngày và trong công tác làm việc phụng sự trần gian do tại họ quá bận tâm với những yếu tố riêng tư trên tư thế của người đệ tử, với công phu luyện tánh của mình, với chức vị của họ trong Đạo Viện và vị thế của họ so với Sư phụ. Nếu họ biết yêu quý đồng loại, chỉ nghĩ đến việc phụng sự một cách kiên tâm kiên trì, thì họ sẽ vượt qua mau chóng hơn những tiến trình trên đường Đạo .
5 ) Những đệ tử mật thiết trong lòng của Chân Sư, những đệ tử ngoài trần gian và những đệ tử trong hào quang của Chân Sư, biết rõ kế hoạch của Ngài, nó cũng là kế hoạch của Thánh Đoàn, tuy có đặt trọng tâm vào một vài góc nhìn đặc biệt quan trọng, họ thường thành công xuất sắc mỹ mãn trong vài trò của mình, sự thành công xuất sắc đó phần đông do nơi ý thức tập thể, lòng nhã nhặn sâu xa và lẽ tất yếu do một trí năng tăng trưởng khá đầy đủ và một thể tình cảm đã được kềm chế .
Tôi không có gì để nói nhiều hơn với chư môn đệ trong lúc này về công tác làm việc và đối sánh tương quan tập thể. Có một sự trung kiên trong cõi Đạo, vốn khác hẳn sự trung kiên theo ý nghĩa thường thì của trần gian mà tôi muốn thấy được tăng trưởng trong nhóm. Vài đệ tử, nhất là những người hay có khuynh hướng tự bào chữa, vẫn học tập đức trung kiên, thầm lặng, nó có công dụng tích hợp cả nhóm làm một. Để tự vệ hay tự bào chữa thật rất thuận tiện quyết tử những bạn đồng môn hay người cộng tác với mình, nhưng không dễ gì mà hàn găn1 sự rạn nứt đó .
Tư tưởng rõ ràng, sáng sủa là điều thiết yếu trên nhiều lãnh vực trong khi nhóm đệ tử này mở màn và thao tác chung với nhau. Sự phân biện sáng suốt cũng là điều thiết yếu. Thời kỳ này là lúc những đường ranh giới giữa những lực lượng duy vật và những lực lượng của ánh sáng phải được phân định rõ ràng. Khi mà trên trần gian đã có sự phân định rõ ràng giữa một đàng là con đường tình thương, thiện chí và một đàng là con đường tàn ác, thù ghét thì những đệ tử phải có một thái độ rõ ràng, dứt khoát, không thành kiến hay thiên lệch. Nhiệm vụ khó khăn vất vả của nhóm đệ tử này là cương quyết chống lại những lực lượng phá hoại và thù nghịch, triệt để nỗ lực hóa giải và loại trừ những lực lượng tàn phá đó, đồng thời vẫn giữ thái độ trọn vẹn từ ái, thông cảm và bất bạo hành. Đó là vì trong thời kỳ hiện tại trên trần gian có những nguyên tắc và lý tưởng cần phải tranh đấu để bảo vệ, nhưng đồng thời cũng phải bảo tồn và tạo dựng nên cái nguồn năng lượng sôi động của tình thương, nó sẽ hàn gắn cái hố cách biệt giữa 2 lực lượng đối nghịch để hoàn toàn có thể đưa đến sự hòa hợp, thông cảm về sau này. Vài đệ tử không suy tư rõ ràng về những yếu tố liên hệ, vì họ quá chú trọng đến hình thức bên ngoài của cuộc tranh đấu nên không có một nhãn quang thấy biết sâu xa. Một nếp hoạt động và sinh hoạt tuy nhiên đôi, vừa tích cực tham gia việc thế sự để chống lại những lực lượng bất hảo đang làm ngưng trệ sự tiến hóa và tiêu diệt những lý tưởng cao siêu của trái đất trong quá trình này đã đến lúc mà không một cá thể hay một nhóm người nào hoàn toàn có thể tự cô lập, tách rời khỏi những hoạt động và sinh hoạt tập thể và quyền lợi chung. Một thái độ xấu đi cũng không đủ để xử lý cơn khủng hoảng cục bộ trên quốc tế lúc bấy giờ. Người nào không kề vai gánh bớt những nghiệp quả của trần gian và san sẻ nổi khổ đau của trái đất, sẽ làm trì hoãn sự văn minh của họ, vì như thế là họ tự đặt mình ra ngoài trào lưu tâm linh đang dâng lên cao với những nguồn năng lượng Phục hồi đang thấm nhuần khắp nơi trên quốc tế lúc bấy giờ cũng giống như sự xung đột mãnh liệt đang tiếp nối trong tâm hồn và đời sống của toàn bộ những Đạo sinh và đệ tử trên trần gian và đó là tín hiệu chắc như đinh rằng họ đang bước lên đường đạo một cách ý thức. Chân ngã và phàm ngã đang đụng độ với nhau để đi đến quyết định hành động mà chân ngã vẫn chờ đón trên cõi riêng của nó. Đó là điều đang diễn ra trong trái đất và thời kỳ này. Hãy suy gẫm cẩn trọng về điều này. Những thành viên trong nhóm người Phụng sự Thế gian không hề tách rời khỏi thực trạng khó khăn vất vả đang Open trước mắt mọi người. Họ không hề và không nên lẩn trốn vào cái lớp vỏ che đậy sự bảo đảm an toàn của sự tu luyện bản thân và quyền lợi cá thể. Nếu đó là thái độ của chư môn đệ thì tôi không hề giúp chư môn đệ được gì nhiều, vì nó chỉ cho tôi thấy rằng chư môn đệ không có óc phân biệt để nhận định và đánh giá những giá trị tâm linh, chỉ muốn lẩn tránh những việc khó khăn vất vả, khổ nhọc, muốn trao gánh nặng lên vai kẻ khác và không đồng điệu với niềm niềm hạnh phúc, khổ đau của quả đât .
Lời lôi kéo cứu độ trần gian đã được phát ra, ngày này những đệ tử đang quy tụ khắp nơi trên quốc tế. Đó không phải là sự tụ họp trên cõi hồng trần mà là một diễn biến sâu xa có đặc thù nội tại. Mỗi vị Chân Sư đều phát ra lời lôi kéo, nhiều đệ tử dự bị dẫu rằng đang ở điểm cách xa nhất trong vòng tác động ảnh hưởng của Chân Sư. Đều đang sốt sắng cung ứng. Những hành vi bên trong của họ thường là cả xấu lẫn tốt và sự phân phối của họ thường là do sự thôi thúc của mong ước tân tiến cá thể và khoa trương bản ngã. Ở vào quá trình này, họ có gây nhiều khó khăn vất vả, phức tạp cho lời lôi kéo phụng sự. Tuy nhiên, những hành vi xiêu vẹo, xô lệch của họ biểu lộ lời tiên tri trong Tân Ước rằng vào lúc sau cuối, sẽ có nhiều người làm xô lệch thực sự về sự tăng trưởng tâm thức siêu linh và sự trở lại của Đấng Christ, tức là sự giáng lâm lần thứ nhì của Đức Chưởng Giáo .
Như thế người đệ tử trải qua từng tiến trình, thực thi lần lần mọi giai tầng giác ngộ, từ thấp tới cao, từ chân ngã tới ý thức, từ phàm ngã tới chân ngã, từ sắc tướng tới tâm linh, y đã thám hiểm toàn bộ mọi ngành kỹ năng và kiến thức và hiểu biết, y đã xuống tận những hang sâu, vực thẳm của âm ti, y đã trèo lên đỉnh điểm cùng tột của sự Điểm Đạo, và từ đó vượt khỏi số lượng giới hạn của khoảng trống và thời hạn, y đã mất hết toàn bộ mọi ý thức về bản ngã và là một điểm trụ tư tưởng trong trí của Thượng Đế. Tôi hoàn toàn có thể nói gì hơn nữa ? Chắc là không. Vậy tôi chấm hết nơi đây những lời huấn thị này và nghĩa vụ và trách nhiệm của tôi cũng hết .
Bây giờ mới mở màn những nghĩa vụ và trách nhiệm của chư môn đệ .

CHÂN SƯ TÂY TẠNG


(1919-1943)

Tháng 11 năm 1919, tôi có tiếp xúc với Alice. A. Bailey để nhu yếu bà trợ giúp trong việc trước tác và xuất bản vài quyển sách để phổ cập tuần tự không ít giáo lý huyền môn. Bà đã khước từ ngay vì nguyên do là bà không có tình cảm với việc phát hành tràn ngập khắp nơi những loại sách ca tụng là huyền môn do nhiều môn phái đã làm, bà chưa có kinh nghiệm tay nghề viết sách cho công chúng đọc, và cũng bởi nguyên do là bà không thích làm bất kỳ việc gì có tính cách đồng tử, hoặc viết bằng năng khiếu sở trường thông linh. Về sau, bà đổi ý khi tôi lý giải rằng sự tiếp xúc bằng Thần giao cách cảm là một thực sự đã được chứng tỏ và có cơ bản khoa học, rằng bà không phải là nhãn thông hay nhĩ thông và cũng sẽ không khi nào có những năng khiếu sở trường này, và trên hết mọi sự, hãy thử thách thực sự để biết thực sự. Tôi nhu yếu bà hãy viết trong một tháng rời thử xem có quả thật chăng những gì bà viết ra là đúng chân lý, hoàn toàn có thể khêu gợi sự hiểu biết bằng quan năng trực giác và có tiềm ẩn trong đó chăng những gì có giá trị trong kỷ nguyên tâm linh mới. Nghe tôi nói vậy, bà mới gạt bỏ thành kiến về loại việc làm này và về những cách trình diễn giáo lý huyền môn đang phổ cập vào thời giờ đây. Bà chỉ bày tỏ ý niệm rằng những giáo lý đưa ra không nên đặt dưới một chiêu thức hay dựa vào một quyền uy, thế lực nào, mà hãy để cho nó tự đứng vững hay không do chân giá trị của nó .
Quyển sách xuất bản tiên phong là “ ĐIỂM ĐẠO HUYỀN MÔN ” ( Initiation Human and Solar ) tác dụng của khu công trình tiên khởi của bà để làm việc làm này, ba đặt nền tảng cho toàn bộ những quyển sau đó. Kể từ khi đó, bà đã trợ giúp tôi suốt gần 25 năm. Những quyển sách này được phát hành với một mục tiêu s6u xa, tiềm ẩn và được sự thừa nhận của toàn quốc tế .
Cuốn “ Điểm Đạo Huyền Môn ” có dụng ý đưa ra cho công chúng biết thực sự về Thiên Đoàn. Điều này, trước đây bà Bla, đã làm, nhưng không có mạch lạc, trật tự. Hội Thông thiên học để đưa ra những sự kiện về những Đức Thầy, tuy rằng bà Bla trong một thông tư gởi cho trường Bí Giáo, nói rằng bà rất hụt hẫng vì đã làm như vậy. Những giáo lý về sau đã bị diễn đạt sai lầm đáng tiếc bởi những nhà Thông Thiên Học hậu lai và những vị này đã làm vài điều lầm lỗi quan trọng. Họ diễn tà Chân Sư như thể những bậc đã toàn vẹn, không còn lầm lạc, đó là một điều không hề có, vì chính những Chân Sư cũng còn đang tiến hóa. Giáo lý mà họ đưa ra hàm súc một sự chú trọng đặc biệt quan trọng vào sư tu luyện bản thân và tập trung chuyên sâu ráo riết mọi cố gắng nỗ lực vào sự tân tiến và giải thoát cá thể. Những người mà họ nêu ra như thể những bậc Đạo Đồ và đệ tử hạng sang đều trọn vẹn thấp kém và không có tác động ảnh hưởng gì ngoài Hội Thông Thiên Học. Họ cũng chủ trương một sự sùng tín trọn vẹn so với những Chân Sư, sùng tín trên phương diện phàm ngã so với những Ngài. Họ cũng trình diễn những Chân Sư như thể can thiệp vào sự hoạt động và sinh hoạt tổ chức triển khai của những nhóm huyền môn nọ kia, những nhóm này tự cho là hoạt động giải trí dưới sự hướng dẫn của những Ngài. Các Chân Sư bị gán nghĩa vụ và trách nhiệm về những lỗi lầm của những vị Trưởng Nhóm, họ ẩn núp dưới những chiêu thức như thể : Chân Sư đã thông tư cho tôi nói điều nọ điều kia v.v … Chân Sư muốn việc này hay việc nó phải được triển khai, hoặc Chân Sư muốn hội viên phải làm điều này, điều khác … Người nào vâng lời được coi như là Hội viên tốt, người nào bất tuân và chống đối bị coi như là kẻ phản bội. Sự tự do cá thể luôn luôn bị xâm phạm, còn những khuyết điểm và những tham vọng của những nhà chỉ huy đều có những nguyên do để tự bào chữa. Biết rõ tổng thể những vấn đề ấy, bà Bailey đã khước từ không chịu dự phần vào thực trạng luôn luôn tái diễn đó, đó là thực trạng của tổng thể những nhóm huyền môn công khai minh bạch muốn mê hoặc sự quan tâm của người đời. Dẫu cho tôi muốn thao tác bằng cách đó ( mà bất kể vị nào có chân trong Đại Đoàn Chưởng Giáo đều không khi nào làm ) thì tôi cũng không có được sự hợp tác của bà .
Kế đến quyển “ THƯ TÍN VỀ PHÁP MÔN THIỀN ĐỊNH ”. Đó là một ý niệm tương đối mới về sự thiền định, không địa thế căn cứ trên sự sùng tín so với Chân Sư, mà trên sự thừa nhận linh hồn trong mỗi người. Sau quyển này là quyển “ Luận Về Lửa Tiên Thiên ”. Quyển này khai triển thêm giáo lý trong bộ “ Giáo Lý Bí Nhiệm ”, nói về 3 loại lửa : lửa điên, lửa Mặt Trời và Lửa do nhiệt lực cọ xát. Sách ấy cũng trình diễn cái chìa khóa tâm ý để đọc bộ “ Giáo Lý Bí Nhiệm ” và có dụng ý dành cho sự học hỏi của những vị đệ tử và Đạo Đồ vào cuối thế kỷ này và vào lúc mở màn thế kỷ tới, cho đến năm 2025 .
Về sau, Bà Bailey cảm thấy rằng thật là một điều tốt cho tôi và cho việc đạo nếu bà chứng tỏ rằng bà hoàn toàn có thể viết những loại sách có ích cho những Đạo sinh ngoài việc ghi chép những tư tưởng và giáo lý của tôi đưa ra. Những người đồng tử trung bình thường không có trình độ tri thức cao, nên vì quyền lợi của việc đạo trong tương lai, bà Bailey muốn chứng tỏ rằng người ta hoàn toàn có thể làm – làm những việc thông linh của người đồng tử nhưng đồng thời cũng có một trí óc mưu trí thật sự. Bởi vậy, bà Bailey đã xuất bản 4 cuốn sách sau đây, trọn vẹn là những tác phẩm của chính bà :
Tâm thức của Hội Nguyên Tử
Linh hồn và cơ cấu tổ chức của nó
Từ trí tuệ đến trực giác
Từ Bathlehem đến Calvary .
Bà cũng có viết một quyển sách khác với sự hợp tác của tôi nhan đề : “ Ánh sáng của Linh hồn ”, trong đó tôi có đưa ra bản dịch những đoạn kinh Yoga Sutra chữ Phạn của Đạo sư Patanjali, còn bà viết phần phản hồi và nhiều lúc có thỉnh cầu quan điểm của tôi về ý nghĩa của những danh từ Phạn ngữ .
Kế đó đến quyển “ Luận về Chánh Đạo ”. Quyển này được viết ra từ nhiều năm qua. Khi vừa viết xong mỗi chương, nó chỉ được đem ra đọc lần hồi từ chương một cho những Đạo sinh cao niên của Trường Nội Môn Bí Giáo. Đó là quyển tiên phong được viết ra nói về sự tinh luyện và trấn áp thể tình cảm. Nhiều sách huyền môn đã được viết ra về yếu tố tinh luyện thể xác và thể dĩ thái, phần lớn là sưu tập từ những sách khác, cũ cũng như mới. Còn quyển sách này của tôi có mục tiêu đào tạo và giảng dạy người Đạo sinh tân tiến trấn áp thể tình cảm với sự trợ giúp của trí năng trong khi đến lượt cái trí năng này được soi sáng bởi chân ngã .
Bộ sách sau đó là bộ “ luận về 7 cung ”. Đó là một bộ sách dầy chưa được triển khai xong, gồm 4 quyển mà 2 quyển đầu đã xuất bản, 1 quyển chuẩn bị sẵn sàng xuất bản và quyển sau cuối còn đang viết dở. Các quyển 1 và 2 nói về 7 cung với 7 loại trạng thái tâm ý liên hệ, … làm nền tảng cho khoa tâm ý mới, mà khoa tâm lý học văn minh, tuy là duy vật, có đặt một địa thế căn cứ lành mạnh và vững chãi. Quyển ba dành toàn vẹn cho sự giảng giải yếu tố chiêm tinh bí truyền, có mục tiêu trình diễn khoa chiêm tinh mới, địa thế căn cứ trên linh hồn chớ không địa thế căn cứ trên phàm ngã. Khoa chiêm tinh chính thống dựng nên một lá số diễn đạt định mệnh con người trên góc nhìn phàm ngã, nếu cái phàm ngã đó ít tiến hóa hoặc có trình độ tiến hóa trung bình, thì lá số thường được đoán rất trúng. Tuy nhiên trong trường hợp của những người tiến hóa cao, những Đạo sinh, đệ tử, Đạo Đồ đã khởi đầu trấn áp những tinh tú của mình, và bởi đó trấn áp được hành vi của mình, thì chừng đó, những vấn đề và biến cố xảy ra trong đời họ không thể nào tiên liệu trước được. Khoa chiêm tinh mới này trong tương lai sẽ nỗ lực đưa ra cái bí quyết đoán vận mạng của linh hồn, tùy theo cung của linh hồn chớ không phải cung của phàm ngã. Tôi đã trình diễn khá đủ dữ kiện để giúp những nhà chiêm tinh có khuynh hướng mới và thú vị với yếu tố này hoàn toàn có thể đoán vận mạng tương lai theo đường lối mới này do tôi đưa ra. Khoa chiêm tinh là một khoa học cơ bản va tối thiết yếu. Bà Bailey không giỏi về khoa chiêm tinh. Bà không biết lấy một lá số và cũng không biết tên những tinh tú nào đóng vào cung nào. Bởi vậy, tôi trọn vẹn chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về những gì được viết ra trong quyển này và tổng thể những sách khác của tôi, ngoại trừ quyển duy nhất như đã lý giải trước đây, nhan đề “ Ánh sáng của linh hồn ”
Quyển 4 nói về yếu tố chữa bệnh và yếu tố nối tiếp bằng đường giao thông vận tải Antahkarana, cái khoảng chừng giữa chơn thần và phàm ngã, quyển ấy cũng đưa ra 14 quy luật cho những đệ tử đang chuẩn bị sẵn sàng điểm đạo phải noi theo. Một lần nữa, tôi nhắc lại cho chư môn đệ nhớ rằng người đạo đồ chân chính không khi nào tự xưng rằng mình là một đạo đồ, dù trong câu truyện riêng tư hay công khai minh bạch trước mặt mọi người. Đó là một điều vi phạm định luật huyền môn, mà rất nhiều người không có đời sống tâm linh hay năng lực trí tuệ đặc biệt quan trọng vẫn tự xưng như vậy. Việc ấy gây nên hậu quả rất tai hại, làm hạ thấp giá trị của Thánh Đoàn và hạ nhục đặc thù của vị Tiên Thánh trước con mắt nhận xét của công chúng. Bởi vậy, tôi trọn vẹn chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về 14 quy luật này. Bà Bailey không hề tự nhận là gì khác hơn là một đệ tử hoạt động giải trí, bận rộn với việc làm trần gian ( điều này không ai hoàn toàn có thể chối cãi ). Bà đã lặp lại nhiều lần rằng tiếng “ đệ tử ” là một chữ hợp pháp và đúng đắn để vận dụng cho toàn bộ mọi quý phái phụng sự viên trong Thánh Đoàn, từ người dự bị, mới có sự liên hệ lỏng lẻo với một vài đệ tử cao niên trong Thánh Đoàn, cho đến Đức Chưởng Giáo, bậc thầy của những Chân Sư cũng như của những Đấng Thiên Thần và của toàn bộ mọi người .
Với sự đồng ý chấp thuận của tôi, bà đã cực lực chống đối sự tò mò bệnh hoạn của một số ít người về yếu tố quả vị và quyền chức. Đó là một cái ung nhọt xấu xa của nhiều chi phái, đưa đến sự tranh đua, ganh tị, chỉ trích và khoa trương, nói điêu mà phần lớn những nhóm huyền môn đều mắc phải. Tệ đoan đó làm cho bao nhiêu sách đạo lý của họ phát hành đều trở nên vô hiệu lực và làm cho công chúng không hấp thụ được giáo lý trong thực trạng thuần khiết và giản dị và đơn giản. Quả vị, quyền chức chỉ là số lượng không. Chỉ có giáo lý là đáng kể so với những chân lý hàm chứa trong đó, nó khêu gợi đến linh cảm, trực giác của con người. Điều này chư môn đệ phải luôn luôn ghi nhớ. Các đệ tử chính thức của một Chân Sư nhận ra được Ngài tự trong nội tâm của họ. Sự phân biệt đó hoàn toàn có thể được phối kiểm với những bạn đồng môn và được Chân Sư coi như một điều kiện kèm theo thuận tiện. Họ biết Sư Phụ của họ là ai, đồng ý lời dạy của Ngài và giữa họ với nhau, họ nói về Sư phụ với tư cách mật nhiệm trong sự liên hệ giữa Ngài với những đệ tử chứ không phải với quốc tế bên ngoài. Những huấn thị đăng trong tập kỷ yếu “ THE BEACON ” ( Ngọn Hải đăng ) không được duyệt xét lại cẩn trọng, đã nêu đích danh tôi với tư cách là một Chân Sư, đưa ra cho những đệ tử của một nhóm trong Đạo Viện của tôi. Nhóm này đã giữ kín tông tích của tôi trên 10 năm, đó là thái độ đúng đắn và bổn phận của họ phải làm như vậy .
Nhiều quyển sách đã được phát hành tiếp tục trong nhiều năm. Khi bộ sách “ Luận về Bảy Cung ” được triển khai xong, một quyển sách nhỏ nói về ảo ảnh và ảo giác đã chuẩn bị sẵn sàng lên máy in và quyển này “ ĐƯỜNG ĐẠO TRONG KỶ NGUYÊN MỚI ”, đã ở trong tay fan hâm mộ. Chừng đó khu công trình hợp tác của bà Bailey với tôi sẽ chấm hết và bà hoàn toàn có thể liên tục việc làm tại Đạo Viện của Sư phụ bà .
Giai đoạn kế đó của Đạo Sư mà tôi muốn thực hiện nay đã thực thi trong vòng trật tự. Sự ước mong của tôi, cũng như của nhiều vị trong Thánh Đoàn là thiết lập một TRƯỜNG NỘI MÔN BÍ GIÁO mà những học viên được gia nhập một cách tự do không bị ràng buộc bởi một điều cam kết hay thệ nguyện nào. Ngoài việc hướng dẫn về thiền định, học hỏi và giảng dạy giáo lý huyền môn, trường sẽ để cho học viên tự kiểm soát và điều chỉnh cách hoạt động và sinh hoạt riêng tư và từ điển đạt chân lý, tùy năng lực tiếp thu của họ .
Trường sẽ trình diễn cho họ nhiều quan điểm và đồng thời truyền thụ cho họ những chân lý thâm sâu bí truyền mà họ hoàn toàn có thể thừa nhận nếu họ đủ thức tỉnh tâm linh để bước vào nghành huyền môn .
Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO do bà Bailey khai giảng vào năm 1923 với sự trợ giúp của ông F. Bailey và vài Đạo sinh có sự hiểu biết và nhãn quang tâm linh để bước vào nghành nghề dịch vụ huyền môn. Bà đưa ra một điều kiện kèm theo là tôi sẽ không can thiệp vào hoạt động và sinh hoạt của trường và không nắm quyền trấn áp những đường lối chủ trương hay chương trình hoạt động và sinh hoạt. Thậm chí sách vở của tôi cũng không được dùng như sách giáo khoa, và chỉ có trong vòng 3 năm qua quyển “ LUẬN VỀ CHÁNH ĐẠO ” đã được đem ra học hỏi theo lời nhu yếu rất nồng nhiệt của nhiều Đạo sinh. Vài giáo lý nói về đường ANTAHKARANA ( sẽ Open trong quyển 4 của bộ “ LUẬN VỀ BẨY CUNG ” ) đã được đem ra học hỏi từ 2 năm nay trong một nhóm thuộc cấp thứ tư. Giáo lý về ảo giác cũng được đưa ra tìm hiểu thêm trong một nhóm khác .
Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO không yên cầu Đạo sinh có sự vâng lời mù quáng và không chủ trương phải “ vâng lệnh sư phụ ”, chính bới không có sư phụ nào tinh chỉnh và điều khiển trường này. Trường chỉ nêu lên một Chân Sư trong nội tâm, tức chân ngã, là thực thể tâm linh thật sự ở bên trong mỗi người. Trường không dạy một tín điều nào, người Đạo sinh không bị bắt buộc phải đồng ý bất kỳ một điều gì về sự diễn đạt hay phương pháp trình diễn chân lý. Họ hoàn toàn có thể gật đầu hay bác bỏ sự kiện về những Sư phụ, về Thánh Đoàn, về thuyết luân hồi, hay về linh hồn và vẫn giữ tư cách là một Đạo sinh đúng đắn. Không ai mong đợi hay yên cầu nơi họ một sự trung thành với chủ nào dù so với trường hay so với A. Bailey. Các Đạo sinh hoàn toàn có thể hoạt động giải trí trong mọi nhóm huyền môn hay tôn giáo khác mà vẫn là Đạo sinh của trường. Họ nhu yếu hãy coi những hoạt động giải trí đó như những môi trường tự nhiên phụng sự ở đó họ hoàn toàn có thể góp phần mọi sự trợ giúp tâm linh mà họ đã hoàn toàn có thể thu nhập được do sự học hỏi nơi trường. Những người phụng sự cao niên và những nhà chỉ huy trong nhiều nhóm huyền môn đều tham gia vào những hoạt động và sinh hoạt của trường, nhưng họ vẫn có trọn vẹn tự do dành thì giờ và công lao để phụng sự trong những nhóm riêng của họ .
Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO đã Open trên 20 năm và lúc bấy giờ đang bước vào chu kỳ luân hồi tăng trưởng mới, song hành với trào lưu tân tiến của toàn thể quả đât và đã được sẵn sàng chuẩn bị kỹ để ứng đáp với thời đại này. Đặc tính của trường là phụng sự địa thế căn cứ trên tình thương nhân loại. Công phu thiền định cũng được thực thi ở mức quân bình với sự học hỏi Đạo lý và nỗ lực phụng sự .
Một quy trình tiến độ khác trong việc làm của tôi mở màn cách đây độ 10 năm, khi tôi khởi sự viết những văn tập cho công chúng để kêu gọi họ quan tâm đến tình hình quốc tế và nhóm NGƯỜI MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN. Bằng đường lối đó, tôi tìm cách bộc lộ ngoại tại việc làm của Thánh Đoàn trên địa cầu. Đó là một cố gắng nỗ lực quy tụ về mặt chủ thể và khách thể tổng thể những người có mục tiêu tâm linh và tình thương sâu xa so với trái đất đang tích cực hoạt động giải trí trong nhiều xứ dù với tư cách cá thể hay trong những tổ chức triển khai tập đoàn lớn. Những người ấy có rất nhiều. Một số ít có quen thuộc với tôi, nhưng không quen thuộc với họ. Tất cả đều phụng sự dưới sự dìu dắt của Thánh Đoàn và đang thi hành bổn phận một cách hữu thức hay vô thức, với tư cách khí cụ của Chân Sư. Họ quy tụ tành một nhóm tích hợp ngặt nghèo với nhau bằng tình thương và thiện chí tâm linh trên góc nhìn tiềm ẩn, nội tàng. Vài người trong số đó là những nhà huyền học, hoạt động giải trí trong những nhóm huyền môn khác nhau, một số ít khác là những nhà thần bí, hoạt động giải trí với triển vọng tâm linh và tình thương. Những người khác nữa thuộc những tôn giáo chính thống, có một vài người không thuộc một tổ chức triển khai tâm linh nào. Tuy nhiên, tổng thể đều có ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm về niềm hạnh phúc của quả đât và từ bên trong tâm hồn, họ đã tự nguyện trợ giúp kẻ đồng loại. Nhóm người này tổng hợp thành Đấng Cứu Thế ở trong tiến trình này để cứu độ trần gian và khai mở một Kỷ Nguyên Mới của thời hậu chiến. Những văn tập do tôi viết ( tập tiên phong nhan đề “ Ba năm tới đây ” ) có nêu ra những mục tiêu và kế hoạch của họ và đưa ra những điểm gợi ý về phương pháp hợp tác với nhóm NGƯỜI PHỤNG SỰ THẾ GIAN, họ đã Open và tích cực hoạt động giải trí trên nhiều nghành nghề dịch vụ .
Những người mà nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian ảnh hưởng tác động để tìm cách hợp tác với họ và hoàn toàn có thể hành vi như những khí cụ trung gian của nhóm, chúng tôi gọi họ là những người có thiện chí kể cả nam lẫn nữ .
Tôi đã cố gắng nỗ lực tiếp xúc với những người ấy hồi năm 1936 khi thấy có một chút ít triển vọng mong manh rằng chỉ đến giờ phút sau cuối đó, cuộc chiến tranh vẫn hoàn toàn có thể tránh khỏi được. Nhiều người còn nhớ chiến dịch đó và sự tương đối thành công xuất sắc của nó. Hàng triệu người đã được tiếp xúc bằng ngôn từ, văn tự và vô tuyến truyền thanh, nhưng không có được bao nhiêu người thú vị trên phương diện tâm linh, chịu làm những giải pháp thiết yếu để ngăn chận làn sóng hận thù, ác tâm và hành vi xâm lược đang hăm dọa tràn ngập quốc tế. Chiến tranh bùng nổ vào năm 1939 mặc dầu tổng thể những nỗ lực của Thánh Đoàn và những tập sự viên của những Ngài và công tác làm việc thiện chí đương nhiên đã thất bại. Phần việc làm này đã được những Đạo sinh của Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO cố gắng nỗ lực triển khai và hiệu quả là đã có 19 TT phụng sự được xây dựng trong 19 vương quốc. Nó đã phải bị gián đoạn trong một lúc, nhưng đó chỉ là trong thời điểm tạm thời mà thôi, bởi vì thiện chí là một sức mạnh cứu rỗi và là sự biểu lộ niềm tin hành thiện của Nhóm NGƯỜI MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN .
Tôi muốn nhấn mạnh vấn đề rằng việc quy tụ Nhóm NGƯỜI MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN và việc tổ chức triển khai thi hành công tác làm việc thiện chí không có liên hệ gì đến Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO, trừ ra việc những Đạo sinh của trường được đáp ứng thời cơ để trợ giúp trong trào lưu. Họ được trọn vẹn tự do tham gia vào việc ấy hay không, tùy ý muốn, 1 số ít rất lớn không tham gia vào công tác làm việc này, điều đó chứng tỏ sự tự do quyết định hành động của họ .
Khi cuộc chiến tranh bộc phát và toàn thể quốc tế bị đắm chìm trong thảm họa, nhiều người có khuynh hướng tâm linh, muốn tránh xa không can thiệp vào đại chiến. Họ không phải là đa phần nhưng là thiểu số rất mạnh và rất ầm ỉ. Họ coi mọi thái độ can thiệp như thể sự vi phạm tình huynh đệ đại đồng, và tình thương toàn bộ mọi người khiến cho họ có một thái độ vô vi bất động, không làm gì cũng như không quyết định hành động gì cả. Khi tôi viết tập văn thư nhan đề “ CUỘC KHỦNG HOẢNG THẾ GIỚI HIỆN NAY ” và những tập tiếp nối về tình hình quốc tế, tôi nói rằng Thánh Đoàn thừa nhận thái độ và mục tiêu của cơ quan LIÊN HIỆP QUỐC chiến đấu cho tự do của toàn thể quả đât và cứu trợ cho những dân tộc bản địa bị đau khổ. Điều này đương nhiên đặt Thánh Đoàn vào tư thế không thừa nhận lập trường của TRỤC ( Phát xít ) về bất kỳ phương diện nào. Nhiều người trong công tác làm việc thiện chí và vài Đạo sinh trong trường diễn đạt điều ấy như thể có tính cách chính trị. Có lẽ họ tin rằng trong cuộc cuộc chiến tranh này những người có khuynh hướng tâm linh nên giữ thái độ trung lập, không nghiêng hẳn về phe nào, thiện cũng như ác. Những người ấy không suy gẫm sáng suốt và lầm lẫn thái độ trung lập với tình thương đồng loại, họ quên mất những lời Đấng Christ nói rằng “ Kẻ nào không theo ta tức là chống lại ta ”. Tôi lập lại những gì tôi thường nói trước đây. Thiên Đoàn và toàn bộ thành viên trong đó, gồm cả tôi đều yêu quý trái đất, nhưng không đồng ý những hành vi hung tàn, xâm lăng, tàn ác khủng bố linh hồn con người. Các vị chủ trương tự do, mỗi người đều có thời cơ tân tiến trên con đường ánh sáng, quyền lợi nhân sinh, không tẩy chay hay thiên lệch và quyền Tự do Ngôn luận tư tưởng và hành vi của mọi người. Lẽ đương nhiên những vị không hề gật đầu những vương quốc hay dân tộc bản địa nào hành vi chống lại tự do và niềm hạnh phúc con người .
Trong tình thương và thông cảm, những Ngài biết rằng trong một hay nhiều kiếp tương lai, đa phần những kẻ xâm phạm tự do của quả đât lúc bấy giờ sẽ được giải phóng và bước lên đường đạo. Trong thời kỳ trung gian, Thánh Đoàn đặt toàn lực của những Ngài về phía những vương quốc đang chiến đấu để giải phóng quả đât và trợ giúp dân tộc bản địa của vương quốc nào hành vi theo đường lối đó. Nếu việc đứng về phía tốt đẹp và tự do bị coi như việc làm tổn hại đến góc nhìn tâm linh, thì lúc đó Thánh Đoàn sẽ tìm cách làm cho người đời đổi khác thái độ và hiểu thế nào là yếu tố tâm linh .
Bởi vậy, tôi đã chú trọng đến 3 tiến trình của việc làm Đạo Sư là phát hành sách vở giáo lý huyền môn, xây Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO và quy tụ nhóm NGƯỜI MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN, ba loại công tác làm việc này đã gây một tác động ảnh hưởng tốt đẹp và rõ ràng trên trần gian. Những hiệu quả gặt hái được một cách hữu dụng thật sự mới là điều đáng kể, chứ không phải những sự chỉ trích và hiểu nhầm của những người còn giữ những ý niệm cũ kỹ của thế hệ SONG NGƯ. Bởi vậy, họ không hề nhìn thấy sự Open của những trào lưu hoạt động và sinh hoạt mới và những chiêu thức mới để đạt tới chân lý .
Trong việc làm này, tôi vẫn luôn ẩn danh phía sau hậu trường. Các sách vở, văn tập là do nghĩa vụ và trách nhiệm của tôi và mang uy tín của chân lý ( nếu có chân lý ở đó ) chứ không dựa vào uy tín của tên tôi hay bất kể một quả vị nào do tôi tự xưng, hoặc do người khác gán cho tôi, nhất là những kẻ tò mò và đệ tử sùng tín. Tôi không áp đặt một chủ trương, đường lối nào cho trường hay can thiệp vào chương trình giảng dạy mà nghĩa vụ và trách nhiệm trọn vẹn là của bà A. Bailey. Những sách vở văn tập của tôi được đáp ứng cho những Đạo sinh của trường cũng như cho công chúng ở ngoài đời dùng học hỏi .
Tôi đã cố gắng nỗ lực trợ giúp trong công tác làm việc thiện chí ( do ông F. Bailey đảm trách ) bằng những sự gợi ý và hướng dẫn việc gì N.N.M.P.S.T.G. nên làm chứ không nhân danh uy tín cá thể tôi để nhu yếu bất kể việc gì cả, trong hiện tại cũng như trong tương lai. Tựu trung, tổng thể mọi hoạt động giải trí này đều có mang lại hiệu quả tốt. Những sự hiểu nhầm ít khi xảy ra và những sự chỉ trích cũng lành mạnh và kiến thiết xây dựng .
Song song với những hoạt động giải trí quan trọng này, từ năm 1931 tôi đã huấn luyện và đào tạo một nhóm đệ tử nam và nữ, rải rác khắp nơi trên quốc tế về những kỹ thuật của con người đệ tử chính thức. Chọn lọc trong 1 số ít nhiều Đạo sinh sơ cơ, tôi đã chỉ định một nhóm đệ tử 45 người, trong đó có vài người quen thuộc với A.Bailey va vài người trọn vẹn lạ lẫm. Họ đã tỏ ra mong ước được huấn luyện và đào tạo và chịu thử thách có đủ tư cách tham gia vào công tác làm việc tập thể của con đường Đệ tử Mới. Những người này đảm nhiệm những huấn thị cá thể trực tiếp của tôi đưa ra vài huấn thị về phương pháp mới để tiếp xúc với Thánh Đoàn và bước vào đời sống tâm linh, lẽ tất yếu là địa thế căn cứ trên những quy luật xưa. Vài huấn thị trong số đó được cung hiến cho công chúng trong quyển sách này nhưng không đưa ra chi tiết cụ thể về những người được giảng dạy, tên họ, ngày tháng và khu vực đều đổi khác, tuy rằng những huấn thị vẫn giữ nguyên .
Những người ấy, qua sự tiếp xúc với tôi, đương nhiên là đã nhận ra tung tích của tôi. Trong nhiều năm qua, họ đã biết tôi là ai. Tuy nhiên, họ đã cẩn mật giữ kín tên tuổi của tôi trong những thực trạng rất khó khăn vất vả, vì sự kiện rằng có hàng trăm người trong hầu hết những xứ trên quốc tế đã phiếm luận về tên tuổi của tôi và nhiều người đã đoán trúng. Bởi vậy, ngày này, mặc dầu toàn bộ những giải pháp bảo mật thông tin tối đa của A.Bailey và những đệ tử khác, dư luận chung đã cho rằng tôi là một Chân Sư và một thương hiệu đã được đặt cho tôi. Đối với nhóm Đạo sinh đặc biệt quan trọng tinh lọc của tôi, tôi đã nhìn nhận danh tánh sau khi chính họ đã mày mò ra điều đó tự trong thâm tâm của họ. Thật là một điều sai lầm và dại khờ nếu tôi làm khác hơn. Khi tiếp xúc với họ hoặc viết huấn thị về con đường đệ tử mới, đương nhiên là tôi nhân danh tên tuổi và quả vị thật của tôi, vài huấn thị trong số đó được tôi coi như hữu dụng và thích nghi để thông dụng thoáng đãng hơn và đã Open trong một loạt bài vở nói về “ NHỮNG GIAI ĐOẠN TRÊN ĐƯỜNG ĐẠO ” đăng trong tạp chí BEACON dưới thương hiệu của tôi. Những bài vở này được duyệt xét lại cẩn trọng trước khi in ra, trừ ra một bài mà vì việc làm quá bộn bề mà bà Bailey đã quên xóa bỏ một đoạn trong đó tôi viết với tư cách một Chân Sư. Kế đó, bà rất kinh ngạc mà thấy đoạn đó Open trên tạp chí BEACON số tháng 7/1943. Sau nhiều năm bảo mật thông tin rất kỹ về tên tuổi của tôi, sự sơ hở của bà đã công khai minh bạch bật mý rằng tôi là Chân Sư .
Về yếu tố này có 3 điểm mà tôi muốn chư môn đệ chú ý quan tâm : Nhiều năm trước đây, trong quyển “ LUẬN VỀ CHÁNH ĐẠO ” tôi có nói rằng tôi là một Đạo Đồ ở cấp đẳng nào đó, nhưng cần phải ẩn danh. Nhưng giờ đây, vì có sự sơ xuất nói trên, tôi có vẻ như như xích míc hoặc nói ngược lại với chính mình và như thế là tôi đã đổi khác lập trường. Thật sự không phải như vậy. Sự truyền bá giáo lý làm biến hóa thực trạng và nhu yếu của trái đất nhiều lúc yên cầu một sự đổi khác thái độ. Trong tiến trình phổ cập chân lý, không có gì đứng yên một chỗ. Từ lâu tôi đã có dự tính làm toàn bộ những gì thiết yếu để đưa ra trước công chúng sự kiện về Thánh Đoàn và những Chân Sư một cách rõ ràng công khai minh bạch hơn trước .
Trước đây, tôi có nói với A. Bailey ( cũng như Sư phụ bà đã nói ) rằng bổn phận chính của bà là phổ cập cho công chúng biết đặc thù thật sự của những Chân Sư minh triết, để chỉnh đốn ý niệm sai lầm đáng tiếc mà họ đã tích lũy được. Điều này, Bà đã làm đến một mức độ nào đó, nhưng chưa được trọn vẹn đúng như mức đã dự tính. Bà đã tránh mặt việc làm này vì đó là một yếu tố làm tổn thương danh dự do bởi những sự trình diễn sai lầm của những Đạo Sư và những nhóm huyền môn nọ kia, kể cả những lời công bố lố bịch mà kẻ dốt nát đã nói về chúng tôi. Bậc tiền bối của bà là bà H.P.BLAVATSKY, trong những thông tư gởi cho trường BÍ GIÁO của HỘI THÔNG THIÊN HỌC có nói rằng bà rất hối hận mà đã nói về những Chân Sư cùng tên tuổi và chức vụ của những Ngài. A. Bailey cũng đồng một quan điểm như vậy. Các Chân Sư như Hội TTH đã miêu tả, không đúng như thực sự. Việc chứng tỏ sự hiện hữu của những Ngài đã đành là gây nhiều ảnh hưởng tác động tốt nhưng có những chi tiết cụ thể sai lầm cũng gây tác động ảnh hưởng tai hại, những Ngài không phải như miêu tả, những Ngài không ra lệnh cho đệ tử phải thao tác này hay việc kia, phải xây dựng tổ chức triển khai này hay cơ quan nọ. Các Ngài cũng không chỉ định người nào tối quan trọng và có quả vị hay đẳng cấp và sang trọng nọ kia. Các Ngài biết quá rõ ràng chỉ có việc làm công nghiệp và thành quả phụng sự mới chứng tỏ được những vị đệ tử, Đạo Đồ và Chân Sư, những vị này phải chứng tỏ quả vị của mình bằng hành vi mà thôi .
Sư Phụ thao tác xuyên qua những vị đệ tử trong nhiều tổ chức triển khai hay Cơ quan. Các Ngài không yên cầu, bắt buộc xuyên qua những đệ tử này một sự vâng lời tuyệt đối của những nhân viên cấp dưới trong tổ chức triển khai, hoặc loại ra ngoài lề giáo lý những người nào không gật đầu đường lối của Cơ quan hay diễn đạt của những nhà chỉ huy. Các Ngài cũng không chia rẽ hay chống đối những nhóm thao tác dưới sự điều khiển và tinh chỉnh của những vị đệ tử hay Chân Sư khác .
Biết rõ như thế và nhìn thấy hậu quả của giáo lý, thường thì nói về những sư phụ, bà Bailey đã tích cực hoạt động giải trí để cố gắng nỗ lực trình diễn cho đại chúng biết đặc thù thật sự cùng những mục tiêu và thành phần của Thánh Đoàn. Bà đã cố gắng nỗ lực đặt nặng yếu tố quả đât và phụng sự trần gian chứ không đặt trọng tâm vào một nhóm Chân Sư, vì dầu rằng những Ngài đã vượt qua yếu tố phàm ngã thường thì và trải qua mọi kinh nghiệm tay nghề trong tam giới, những Ngài cũng vẫn còn đang dọn mình và sẵn sàng chuẩn bị đi trên con đường tiến hóa Siêu đẳng .
Điều thứ hai là nếu một nhân vật bị nhận diện rằng mình là một Chân Sư thì có hại gì, miễn là vị ấy có thành tích chứng tỏ và có tác động ảnh hưởng sâu rộng khắp quốc tế ? Nếu vì sơ hở, bà A. Bailey đã bật mý rằng tôi là một sư phụ thì có gì bất lợi không ? Những sách đạo lý mà tôi viết ra và bộc lộ ảnh hưởng tác động của tôi đã lan tràn khắp quốc tế để đem sự trợ giúp tâm linh cho mọi người. Công tác thiện chí do tôi ý kiến đề nghị, mà ông F. Bailey đã tình nguyện đảm trách đã thấu đạt tới hàng triệu người bằng văn thư, máy truyền thanh và bằng những phương tiện đi lại tâm linh khác, cũng như bằng lời nói và gương mẫu của những người có thiện chí .
Điểm thứ ba là trong chu kỳ luân hồi mới sẽ đến khi cuộc chiến tranh dứt, công chúng phải được biết thực sự về Thánh Đoàn và việc làm của sư phụ xuyên qua đệ tử của những Ngài. Những đệ tử ở khắp nơi sẽ tuần tự trình diễn kế hoạch của Thiên Cơ về sự thực hiện tình huynh đệ đại đồng, hoạt động và sinh hoạt tâm linh và hợp nhất quốc tế. Điều này sẽ được thực thi không phải bằng sự khoa trương lố bịch của những kẻ mạo xưng là Chân Sư đã chọn tôi để thao tác này “ hay là ” Sư phụ ủng hộ sự cố gắng của tôi, hay “ Tôi là đại diện thay mặt của Thánh Đoàn ” … mà bằng cuộc sống hiến dâng cho việc làm phụng sự. Các đệ tử sẽ nói về sự xuất hiện của những ĐỨC THẦY lúc bấy giờ trên trần gian và có nhiều người đã biết những Ngài. Họ cũng sẽ chỉ cho giáo lý đời biết về nhiều yếu tố tâm linh trọng điểm, ví dụ điển hình Thiên Cơ là một kế hoạch tiến hóa vĩ đại đưa đến mục tiêu tâm linh sáng suốt, trái đất không cô lập mà được sự giúp sức của Thánh Đoàn và Đức Chưởng Giáo vẫn ở gần bên họ. Trên quốc tế lúc bấy giờ có rất nhiều đệ tử đang phụng sự bí mật không ai biết. Nhóm NGƯỜI MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN đã Open và những người có thiện chí đã xuất hiện khắp nơi để giúp trào lưu này, ĐỨC THẦY không chú trọng đến phàm ngã cá thể, mà sẽ dùng những người cộng tác thuộc mọi thành phần tín ngưỡng, vương quốc, miễn là họ có vài điều kiện kèm theo tất yếu như tình thương, trí mưu trí đã được tinh luyện, ảnh hưởng tác động từ điển mê hoặc quần chúng hướng thiện quay về chân lý chứ không hướng về sự tôn thờ cá thể dù họ là Chân Sư hay đệ tử. Các Ngài không cần sự trung thành với chủ cá thể, chỉ chuyên tâm đến việc cứu khổ và sự tiến hóa của quả đât bằng cách hướng dẫn họ đến mục tiêu tâm linh. Các Ngài không cần sự biết ơn, khen Tặng của người đời, chỉ lo dắt dẫn trần gian tìm đến ánh sáng và tăng trưởng tâm linh .

 

CHÂN SƯ TÂY TẠNG

Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh