Nguyễn Chí Thanh – Wikipedia tiếng Việt

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914 – 1967) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng công tác ở nhiều lĩnh vực chính trị khác nhau và đều có khả năng phát triển lĩnh vực đó nên còn được gọi là “vị tướng phong trào”.[1][2] Ông giữ chức vụ Chính ủy Quân khu cục Miền Nam trong chiến tranh Việt Nam, trực tiếp lãnh đạo chiến trường Miền Nam Việt Nam. Ông cũng là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phóng miền Nam với phương châm “Nắm thắt lưng địch mà đánh”.[2][3]

Thân thế và sự nghiệp cách mạng[sửa|sửa mã nguồn]

Hồ Chí Minh và Nguyễn Chí Thanh tại Đại hội Đảng bộ Quân đội năm 1960

Nguyễn Chí Thanh tên thật là Nguyễn Vịnh, sinh ngày 1 tháng 1 năm 1914, tại thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đại tướng có cha là ông Nguyễn Hán và mẹ là bà Trần Thị Thiển, ông là con thứ 6 trong gia đình có 11 người con (tính cả anh em cùng cha khác mẹ)[4]. Ông sinh trưởng trong một gia đình trung nông, thuở nhỏ cũng được học hành. Năm 14 tuổi, cha qua đời, gia đình nghèo, ông bỏ học, đi làm tá điền kiếm sống và nuôi gia đình.

Năm 1934, ông tham gia cách mạng trong trào lưu Mặt trận Bình dân. Năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, lần lượt giữ những chức vụ : Bí thư chi bộ, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên .

Từ năm 1938 đến năm 1943, ông nhiều lần bị Pháp bắt giam ở nhà lao Huế, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột. Đến khi Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) thì ông được ra tù. Sau khi ra tù và trở lại hoạt động, ông được bầu làm Bí thư Khu ủy khu IV và được cử đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào (tháng 8/1945). Trong Đại hội Đảng ở Tân Trào, ông được đặt bí danh là Nguyễn Chí Thanh, được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ[5] có nhiệm vụ theo dõi và tổ chức giành chính quyền tại Trung Kỳ trong Cách mạng tháng 8.

Từ năm 1946 đến 1948, ông làm Bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên, Bí thư Phân Khu uỷ Bình – Trị – Thiên .Từ năm 1948 đến 1950, ông làm Bí thư Liên khu ủy IV .Cuối năm 1950, chỉ định giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Nước Ta. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ( 1951 ), được cử vào Bộ Chính trị .Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tướng [ 6 ] .Tại Đại hội đại biểu toàn nước lần thứ III của Đảng ( 1960 ), Nguyễn Chí Thanh liên tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được cử vào Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Năm 1961, được giao trách nhiệm Phụ trách Ban Nông nghiệp của Đảng. Trong Chiến tranh Nước Ta, Ban Chấp hành Trung ương Đảng điều ông trở lại quân đội. Nguyễn Chí Thanh còn là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1961, ông liên tục phát động những trào lưu thi đua trong những hợp tác xã, giúp không thay đổi tình hình tăng trưởng trong hoạt động giải trí sản xuất nông nghiệp của miền Bắc .

Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam. Thời gian này ông lấy bí danh là Sáu Vi. Khi viết báo, ông thường lấy bút danh là Trường Sơn.

Tại chiến trường, ông là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phóng miền Nam với phương châm “Nắm thắt lưng địch mà đánh”, lối đánh này dùng phương châm cơ động áp sát nhằm hạn chế ưu thế hỏa lực của quân Mỹ.[2][3]

Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 1967 tại TP.HN do một cơn nhồi máu cơ tim khi ra TP.HN để báo cáo giải trình với quản trị Hồ Chí Minh về tình hình miền Nam. Trước khi qua đời, ông cũng đã được trao huy hiệu 30 năm tuổi đảng. Ngày nay tại Nước Ta đang có những con phố và ngôi trường mang tên ông .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]