Acid propionic – Wikipedia tiếng Việt

Axit propionic (danh pháp khoa học axit propanoic) là một axit cacboxylic có nguồn gốc tự nhiên với công thức hóa học CH3CH2COOH. Ở trạng thái tinh khiết và trong điều kiện thông thường, nó là một chất lỏng không màu có tính ăn mòn và mùi hăng.

Axit propionic lần đầu tiên được Johann Gottlieb miêu tả năm 1844. Ông là người đã tìm thấy nó trong số các sản phẩm phân hủy của đường. Trong khoảng thời gian vài năm sau đó, các nhà hóa học khác cũng tạo ra axit propionic theo các cách khác nhau, nhưng không có ai trong số họ nhận ra rằng họ đã tạo ra cùng một hợp chất. Năm 1847, nhà hóa học người Pháp là Jean-Baptiste Dumas đã chứng minh được tất cả các axit trên đây chỉ là một hợp chất và ông gọi nó là axit propionic, lấy theo tiếng Hy Lạp protos = “đầu tiên” và pion = “béo”, do nó là axit với công thức tổng quát H(CH2)nCOOH nhỏ nhất có các tính chất của một axit béo, chẳng hạn như sự tạo ra một lớp váng mỡ khi bị kết tủa bởi muối và có muối với kali có tính chất giống xà phòng.

Axit propionic có những đặc thù vật lý trung gian giữa những đặc thù của những axit cacboxylic nhỏ hơn như axit fomic và axit axetic, với những axit béo lớn hơn. Nó hòa tan trong nước nhưng hoàn toàn có thể bị loại ra khỏi nước bằng cách cho thêm muối. Giống như axit axetic và axit fomic, dạng khí của nó vi phạm nghiêm trọng định luật khí lý tưởng do nó không chứa những phân tử axit propionic riêng rẽ và lại có những cặp link hydro giữa những phân tử. Nó cũng có sự bắt cặp này khi ở trạng thái lỏng .

Về mặt hóa học, axit propionic thể hiện các tính chất chung của axit cacboxylic, và tương tự như phần lớn các axit cacboxylic khác, nó tạo ra các hợp chất amit, este, anhydride và chloride. Nó cũng có thể tham gia phản ứng halogen hóa pha alpha với brom khi có mặt PBr3 làm chất xúc tác (phản ứng HVZ) để tạo ra CH3CHBrCOOH.

Trong công nghiệp, axit propionic thường thì được sản xuất từ phản ứng oxy hóa của propionaldehit bằng không khí. Khi xuất hiện những xúc tác như coban, mangan sắt, phản ứng này diễn ra nhanh gọn thậm chí còn ở nhiệt độ vừa phải. Thông thường sản xuất công nghiệp được triển khai ở 40-50 °C, được viết dưới phương trình hóa học sau :

CH3CH2CHO + ½ O2 → CH3CH2COOH

Một lượng lớn axit propionic đã từng được sản xuất như thể phụ phẩm của việc sản xuất axit axêtic, nhưng thời nay thì nó chỉ là một nguồn rất nhỏ trong sản xuất axit propionic. Nhà sản xuất nay là BASF, với hiệu suất khoảng chừng 80 ktpa .

Axit propionic cũng được tạo ra theo phương pháp sinh học từ sự phân hủy do trao đổi chất của các axit béo chứa số lẻ các nguyên tử cacbon, cũng như từ sự phân hủy của một số amino acid. Các vi khuẩn thuộc chi Propionibacterium cũng tạo ra axit propionic như là sản phẩm cuối cùng trong hoạt động trao đổi chất kỵ khí của chúng. Các vi khuẩn này ađược tìm thấy rất phổ biến trong dạ dày của các động vật nhai lại, và hoạt động của chúng là một phần nguyên nhân tạo ra mùi vị của cả phó mát Thụy Sĩ và mồ hôi.

Axit propionic ngăn cản sự tăng trưởng của mốc và 1 số ít vi trùng. Do vậy, phần nhiều axit propionic được sản xuất để sử dụng làm chất dữ gìn và bảo vệ cho cả thực phẩm dành cho con người cũng như thức ăn dành cho gia súc. Đối với thức ăn cho gia súc, nó được sử dụng hoặc là trực tiếp hoặc dưới dạng muối amoni. Đối với thực phẩm dành cho con người, đặc biệt quan trọng là bánh mì và những mẫu sản phẩm nướng khác, nó được dùng dưới dạng những muối natri hay calci. Việc sử dụng tương tự như cũng diễn ra so với một số ít bột chống nấm chân loại cũ .

Axit propionic cũng là một hóa chất trung gian có ích. Nó có thể sử dụng để thay đổi các sợi cellulose tổng hợp. Nó cũng được dùng để sản xuất một số thuốc trừ sâu và dược phẩm. Các este của axit propionic đôi khi được dùng làm dung môi hay các chất tạo mùi nhân tạo.

Nguy hiểm chính từ axit propionic là bỏng hóa chất hoàn toàn có thể sinh ra do tiếp xúc với axit đậm đặc. Trong những nghiên cứu và điều tra trên động vật hoang dã trong phòng thí nghiệm, hiệu ứng nguy hại nghiêm trọng duy nhất gắn liền với phơi nhiễm kinh niên so với một lượng nhỏ axit propionic là những vết loét thực quản và dạ dày do tiêu thụ chất có tính ăn mòn này. Người ta chưa quan sát thấy những hiệu ứng ô nhiễm, dị biến gen, ung thư hay sinh sản nào. Trong khung hình, axit propionic bị oxy hóa nhanh gọn và bị thải ra khỏi khung hình trong dạng cacbon dioxide theo quy trình Krebs và nó không tạo ra sự tích lũy sinh học .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://thevesta.vn
Category: Bản Tin