Chính sách, pháp luật Việt Nam về cai nghiện ma túy

Gửi lúc 09 : 07 | 01/06/2017Trong những năm qua, Nước Ta đã từng bước kiến thiết xây dựng và triển khai xong mạng lưới hệ thống pháp lý, chính sách về công tác làm việc cai nghiện và tương hỗ hồi sinh sau cai nghiện ma túy, bộc lộ qua những văn bản chính như sau :

Luật Phòng chống ma túy được Quốc hội ban hành ngày 19/12/2000 và sửa đổi bổ sung năm 2008 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về cai nghiện. Điều 25 Luật Phòng chống ma túy nêu rõ: “áp dụng chế độ cai nghiện đối với người nghiện, khuyến khích người nghiện ma túy tự nguyện cai nghiện; tổ chức các cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc; khuyến khích cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức thực hiện việc cai nghiện tự nguyện cho người nghiện ma túy, hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện và phòng chống tái nghiện ma túy; nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng thuốc và phương pháp cai nghiện ma túy”. Người nghiện ma túy có thể đăng ký tự nguyện cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hay tại các cơ sở cai nghiện (Điều 27).

Bên cạnh việc khuyến khích người nghiện ma túy đăng ký cai nghiện tự nguyện, Luật Phòng chống ma túy đã quy định biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng hoặc tại cơ sở cai nghiện đối với người nghiện ma túy không tự nguyện cai nghiện. Việc cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng được thực hiện theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi tắt là UBND cấp xã) với người mới nghiện nhưng không tự nguyện cai nghiện (Điều 27).

Biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện được vận dụng so với ” Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã được cai nghiện ma tuý tại mái ấm gia đình, hội đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị xã mà vẫn còn nghiện hoặc người nghiện không có nơi cư trú nhất định phải được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc … Thời hạn cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc từ một năm đến hai năm ” ( Điều 28 ). Đối với người nghiện ma tuý từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi đã được cai nghiện tại mái ấm gia đình hội đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị xã mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định thì được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ và điều này không coi là việc giải quyết và xử lý vi phạm hành chính ( Điều 29 ) .

Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hành vi sử dụng ma tuý trái phép không phải là tội phạm mà là hành vi vi phạm pháp luật về mặt hành chính và được xử lý theo quy định của pháp luật hành chính. Việc áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở chữa bệnh, đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội (gọi tắt là cơ sở cai nghiện) đối với người nghiện ma túy được tiến hành bằng các thủ tục hành chính được quy định trong Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 1995, sửa đổi bổ sung năm 2002, 2007, 2008 và các văn bản hướng dẫn thực hiện.

Thẩm quyền ra quyết định hành động đưa người nghiện đi cai bắt buộc tại Trung tâm thuộc quản trị Ủy ban nhân dân huyện, Q., thị xã, thành phố thuộc tỉnh ( gọi tắt là Ủy Ban Nhân Dân cấp huyện ). Quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc của quản trị Ủy Ban Nhân Dân cấp huyện mang tính khách quan, đúng chuẩn và được thực thi bằng một thủ tục hành chính khắt khe, được giám sát ngặt nghèo .

Các Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về công tác cai nghiện như Nghị định số 94/2009/NĐ-CP ngày 26/10/2009 quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy về quản lý sau cai nghiện ma túy tại nơi cư trú và trung tâm quản lý sau cai; Nghị định số 94/2010/NĐ- CP ngày 9/9/2010 quy định về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng; Nghị định số 61/2011/NĐ-CP ngày 26 tháng 7 năm 2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh.

Các văn bản hướng dẫn, thi hành: Triển khai thực hiện các văn bản Luật, Pháp lệnh, Nghị định trên, các Bộ, ngành chức năng liên quan đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác cai nhiện ma túy theo thẩm quyền như: Quyết định số 5075/QĐ-BYT ngày 12/12/2007 của Bộ Y tế hướng dẫn tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện ma tuý gốc opiat. Theo đó, việc tiếp nhận người vào cai nghiện phải có đủ tiêu chuẩn chẩn đoán trạng thái nghiện và hội chứng cai nhằm xác định tình trạng nghiện và sự lệ thuộc vào các chất gây nghiện dạng thuốc phiện; Các văn bản hướng dẫn thi hành (Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 135/2004/NĐ-CP, Nghị định số 61/2011/NĐ-CP), Thông tư liên tịch số 22/2004/TTLT/BLĐTBXH-BCA quy định các thủ tục pháp lý trong tiến hành việc áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở chữa bệnh; Thông tư liên tịch số 41/2010/TTLT-BLĐTBXH-BYT của liên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế về hướng dẫn quy trình cai nghiện, cho người nghiện ma túy tại các Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội và cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện…

Đặc biệt, nhằm triển khai thực hiện Chiến lược Quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1001/2011/QĐ-TTg ngày 27/6/2011, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã có Quyết định số 19/QĐ-LĐTBXH ngày 09/01/2012 Phê duyệt “Kế hoạch thực hiện Chiến lược Quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 trong lĩnh vực cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện giai đoạn 2012-2015” và Thông tư liên tịch số 27/2012/TTLT/BTC-BLĐTBXH ngày 24/02/2012 của Bộ Tài chính – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, chế độ đóng góp và miễn, giảm, hỗ trợ đối với đối tượng trong cơ sở chữa bệnh và tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng.

Với từng mô hình hoạt động giải trí chăm nom, điều trị và tương hỗ cho người nghiện ma túy trong Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục đào tạo – Lao động xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối với những Bộ, ngành tương quan đã có những văn bản hướng dẫn đơn cử như : Thông tư liên tịch số 30/1999 / TTLT / BLĐTBXH – BYT ngày 20/12/1999 của liên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế hướng dẫn quản trị những hoạt động giải trí y tế ở những cơ sở chữa bệnh thuộc Ngành Lao động – Thương binh và Xã hội ; Thông tư số 12/2004 / TT-BLĐTBXH ngày 02/11/2004 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn tổ chức triển khai công tác làm việc dạy nghề tại những Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục đào tạo – Lao động xã hội ; Thông tư liên tịch số 56/2005 / TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 5/7/2005 của liên Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn chính sách trợ cấp cho người không có nơi cư trú nhất định vào lưu trú trong thời điểm tạm thời tại cơ sở chữa bệnh ; Thông tư liên tịch số 32/2005 / TTLT-BLĐTBXH-BYT ngày 09/11/2005 của liên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế hướng dẫn phòng chống lao, HIV / AIDS và những bệnh lây truyền quan đường tình dục tại Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục đào tạo – Lao động xã hội ; Thông tư liên tịch số 01/2006 / TTLT-BLĐTBXH-BGD và ĐT-BYT ngày 18/01/2006 của liên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế hướng dẫn công tác làm việc dạy văn hóa truyền thống, giáo dục phục sinh hành vi nhân cách cho người nghiện ma túy, người bán dâm và người sau cai nghiện ma túy ; Thông tư liên tịch số 117 / 2007 / TTLT / BTC-BLĐTBXH ngày 01/10/2007 của liên Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn chính sách trợ cấp so với người nghiện ma túy, người bán dâm ; Thông tư liên tịch số 121 / 2010 / TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 12/8/2010 của Bộ Tài chính, Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn tương hỗ so với người sau cai nghiện ma túy …
Có thể thấy trong suốt những năm qua và ngay trong hiện tại, công tác làm việc cai nghiện ma túy được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan trọng chăm sóc, tạo mọi điều kiện kèm theo tương hỗ tốt nhất cho người nghiện giúp họ hoàn toàn có thể từ bỏ mối đe dọa ma túy, trở lại hòa nhập với đời sống hội đồng vì sự bình yên của xã hội, mái ấm gia đình và trên hết là giành lại sự sống của chính bản thân người nghiện .

Truyền thông PSD