Xe tăng – Wikipedia tiếng Việt
Xe tăng (Tiếng Anh: Tank) thường được gọi tắt là tăng, là loại xe chiến đấu bọc thép, được trang bị pháo lớn, di chuyển bằng bánh xích được thiết kế cho tấn công và phòng thủ độc lập hoặc cùng các đơn vị chiến đấu khác. Hỏa lực này thường được cung cấp bởi 1 pháo chính cỡ nòng lớn với súng máy trong 1 tháp pháo quay, có giáp hạng nặng và có khả năng di chuyển trên nhiều loại địa hình nhằm cung cấp sự bảo vệ cho xe tăng và tổ lái, cho phép thực hiện tất cả các nhiệm vụ chiến đấu trên chiến trường.[1]
1. Xích;
2. Nòng pháo;
3. Ốp xích nơi treo các tấm thép “váy” phía ngoài xích để chống trái phá chống tăng;
4. Các ống phóng lựu cho hệ thống bảo vệ tích cực và tạo màn khói bảo vệ;
5. Tháp pháo;
6. Khoang
7. Cửa nắp tháp pháo;
8. Khe súng máy;
9. Vỏ thân xe;
10. Súng máy mũi xeSơ đồ một loại xe tăng cơ bản : Xích ; Nòng pháo ; Ốp xích nơi treo những tấm thép ” váy ” phía ngoài xích để chống trái phá chống tăng ; Các ống phóng lựu chovà tạo màn khói bảo vệ ; Tháp pháo ; Khoang động cơ, hộp số ; Cửa nắp tháp pháo ; Khe súng máy ; Vỏ thân xe ; Súng máy mũi xe
Do đặc trưng chức năng chiến đấu nên xe tăng được đánh giá qua rất nhiều các thông số kỹ thuật – chiến thuật mà chúng nằm trong các nhóm tính năng chính như sau:
Bạn đang đọc: Xe tăng – Wikipedia tiếng Việt
- Hoả lực: là số lượng, chất lượng, cỡ nòng của vũ khí gắn trên xe. Bao gồm nhiều thông số như tốc độ bắn nhanh, độ chính xác, tầm bắn xa nhất, tầm bắn gần nhất, sức công phá của đạn… Các xe tăng hiện đại thường trang bị 1 pháo bắn thẳng nòng trơn hoặc có khương tuyến cỡ nòng từ 100 đến 125mm (Trong Thế chiến II cỡ nòng thông dụng từ 75–100mm) 1–2 khe súng máy đằng mũi 1 đại liên nằm trên tháp pháo. Đạn có nhiều loại đạn nổ, xuyên thép, đạn chống tăng, và tên lửa có điều khiển bắn qua nòng pháo
- Vỏ thép: đây là thông số về tính được bảo vệ của xe gồm các yếu tố về số lượng, chất lượng, độ dày, vật liệu, hình dáng và vị trí bố trí của các lớp vật liệu vỏ thép để bảo vệ xe… Các xe tăng hiện đại ngoài nhiều lớp vỏ thép và các vật liệu tổng hợp còn các lớp treo bảo vệ bằng thuốc nổ (còn gọi là giáp phản ứng nổ, viết tắt là ERA) và các lớp vật liệu chống phóng xạ cho trường hợp chiến tranh hạt nhân xảy ra và hệ thống tuần hoàn và lọc khí chống vũ khí hoá học, sinh học.
- Tính cơ động: Là tính năng rất quan trọng quyết định hiệu quả chiến đấu của xe tăng, bao gồm các thông số như tốc độ tối đa, tốc độ chiến đấu trên các địa hình, khả năng vượt vật cản, khả năng vượt dốc, khả năng vượt sông, tầm hoạt động xa nhất, tính việt dã…
Hiện nay, những loại xe tăng nổi tiếng được sản xuất tại 1 số ít nước là những cường quốc quân sự chiến lược và kinh tế tài chính trên quốc tế và cũng là những nước có truyền thống cuội nguồn sử dụng xe tăng trong cuộc chiến tranh như Nga ( Liên Xô ), Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Israel, và gần đây là Trung Quốc, Nước Hàn, Triều Tiên … Mỗi vương quốc tùy quan điểm, kinh nghiệm tay nghề và điều kiện kèm theo của mình sản xuất xe theo ưu tiên riêng cho những tính năng của xe tăng .
Mục lục
Các điểm mạnh, yếu và giải pháp sử dụng xe tăng[sửa|sửa mã nguồn]
Xe tăng có những điểm mạnh bộc lộ ở 3 tính năng giải pháp : công dụng tiến công thọc sâu, công dụng chống tăng và tính năng trợ chiến bộ binh .
- Chức năng tấn công thọc sâu: Xe tăng là xe vũ trang mạnh di chuyển bằng xích, thực tế là loại xe việt dã chạy mọi địa hình không cần đường sá, xe có thể vượt các chướng ngại vật và các địa hình, địa chất phức tạp với vận tốc khá cao, có hoả lực mạnh, độ bảo vệ tốt và tương đối độc lập trong hoạt động do đó xe tăng là loại vũ khí tấn công thọc sâu cơ động tiện dụng, phổ biến nhất của lục quân: bên tấn công tung các đơn vị xe tăng đánh vào khoảng không gian chiến thuật phía sau tuyến phòng thủ của đối phương, thọc sâu chia cắt các đơn vị của địch phá vỡ hậu tuyến phòng ngự và các cơ cấu liên lạc, hậu cần, chỉ huy của đối phương làm đối phương tan vỡ hoảng loạn hoặc bị rơi vào vòng vây, nhất là khi quân tấn công dùng nhiều mũi xe tăng kết hợp bộ binh cơ giới đánh chia cắt và hợp vây quân phòng thủ. Đây chính là các kịch bản của chiến tranh chớp nhoáng của quân đội Đức quốc xã trong chiến tranh thế giới lần thứ hai với các đơn vị xe tăng thiết giáp tập trung cấp sư đoàn, tập đoàn quân xe tăng đánh thọc sâu chia cắt đã tạo các chiến thắng vang dội nhanh chóng, hiệu quả rất lớn trong giai đoạn đầu của chiến tranh trên bộ tại chiến trường châu Âu.
- Chức năng chống tăng: Cũng chính vì khả năng thọc sâu cơ động cực kỳ nguy hiểm trong tấn công của xe tăng nên để đối phó lại, quân phòng ngự cũng phải duy trì một lực lượng xe tăng thiết giáp hùng hậu, tập trung tại hậu tuyến phòng ngự của quân mình làm lực lượng dự bị để cơ động phản công chống lại và hoá giải các mũi thọc sâu của xe tăng đối phương. Đây chính là kịch bản của trận Vòng cung Kursk nơi có trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Như vậy sức mạnh chủ yếu của xe tăng là sức mạnh tiến công cơ động và nhờ sức tiến công cơ động đó xe tăng cũng được dùng làm phương tiện chủ yếu để phòng thủ tích cực phản công chống lại sức tấn công cơ động của đối phương.
- Chức năng trợ chiến cho bộ binh: Xe tăng cũng có thể được sử dụng như các ụ pháo di động để trợ chiến cho bộ binh trong việc đánh quân địch phòng ngự trong công sự và trận địa kiên cố liên hoàn. Nhưng chỉ nên dùng chức năng này khi thật cần thiết không nên lạm dụng vì có thể gây tổn thất lớn cho lực lượng xe tăng vì không phát huy được các điểm mạnh mà còn dễ bị quân phòng ngự khai thác các điểm yếu của mình.
Điểm yếu rất quan trọng của xe tăng là tầm quan sát của kíp chiến đấu kém. Vũ khí đánh gần của xe tăng khá kém do xạ giới bị hạn chế bởi những vỏ bọc thép ở tháp pháo, sự cơ động bị chậm do nhờ vào vào vận tốc quay của tháp pháo. Những xe tăng kiểu cũ có lớp vỏ giáp trên đỉnh tháp pháo mỏng dính, không được trang bị vũ khí phòng không ( súng máy, tên lửa đất đối không tầm ngắn ) đều bất lực trước máy bay cường kích và trực thăng chống tăng của đối phương .
Chiến thuật sử dụng xe tăng[sửa|sửa mã nguồn]
Vì những điểm mạnh yếu nêu trên vì vậy cần phải sử dụng xe tăng hài hòa và hợp lý theo đúng giải pháp :
Một chiếc xe tăng M1A1 Abrams bắn một vòng tròn như một cuộc biểu tình trong Ngày tri ân vợ / chồng Jane Wayne của Tiểu đoàn xe tăng 1 trên Trung tâm Chiến đấu trên bộ của Lực lượng Thủy quân Lục chiến, Twentynine Palms, California, ngày 3 tháng 4 năm 2018.
Lịch sử tăng trưởng của xe tăng[sửa|sửa mã nguồn]
Ra đời trong thế chiến I[sửa|sửa mã nguồn]
Chiến tranh thế giới thứ nhất là một cuộc chiến tranh trận địa điển hình hay còn gọi là chiến tranh chiến hào là loại chiến tranh mà “dễ phòng thủ, khó tấn công”.
Quân đội hai bên cố thủ trong mạng lưới hệ thống chiến hào nhiều những tầng lớp, xum xê dây thép gai và bãi mìn. Lúc đó chưa có phương tiện đi lại cơ giới để yểm trợ bộ binh tiến công. Để đánh chiếm một đoạn tuyến phòng thủ của đối phương, quân tiến công phải chịu thương vong rất lớn và cũng không hề tăng trưởng tiến công nhanh gọn và hiệu suất cao. Ngược lại quân phòng ngự hoàn toàn có thể nhanh gọn tái lập phòng tuyến mới phía sau chiến tuyến của mình. Chiến tranh có hình thức giằng co hai bên ép dần chiến tuyến của nhau, chiến tuyến biến hóa chậm rãi, không thay đổi. Đánh nhau rất ác liệt, thương vong lớn nhưng ít có những trận đánh quyết định hành động thắng bại dứt khoát. Kết cục cuộc chiến tranh nhờ vào vào sự chịu đựng dẻo dai của xã hội những nước đối kháng so với gánh nặng của cuộc chiến tranh …Năm 1916, người Anh nghĩ ra loại xe tiến công tiên phong mà để giữ bí hiểm khi sản xuất và luân chuyển vũ khí mới họ gọi là ” tank ” ( cái thùng sắt ) đó là xe tăng Mark I, Mark II, Mark III, Mark IV mỗi loại xe được sản xuất theo 2 giải pháp : ” xe đực ” có pháo ( nòng pháo nhô ra nên gọi là ” đực ” ), và ” xe cái ” không có pháo chỉ có lỗ châu mai để bắn súng máy nên gọi là ” cái “. Xe tăng tiên phong lấy động cơ từ những động cơ xe hơi đương thời nhưng hoạt động bằng bánh xích, được cho phép xe đi được trên những địa hình phức tạp nhưng chậm hơn người đi bộ, vỏ thép thì dùng đinh tán. Các mẫu xe tiên phong có hình dạng cấu trúc rất khác xa so với xe tăng giờ đây : Xe đực Mark I đến Mark IV chưa có tháp pháo, pháo lắp 2 bên sườn xe với khung xích hình quả trám rất cao để bò qua những vật cản cao. Điều mê hoặc là tuy xe tăng là vũ khí lục quân nhưng việc nghiên cứu và điều tra tăng trưởng xe tăng tiên phong lại do Bộ Hải quân Hoàng gia Anh thực thi với sự chỉ huy của Bộ trưởng Winston Churchill .Lần tiên phong người Anh đem xe tăng ra mặt trận là tại trận sông Somme tại miền Bắc nước Pháp ngày 15 tháng 9 năm 1916. Do xe tăng tiên phong còn quá thiếu độ đáng tin cậy nên trong số 49 xe để chiến đấu 17 chiếc trục trặc không hề xuất phát, trong số còn lại 5 chiếc bị sa xuống bùn, 9 chiếc trục trặc kỹ thuật trước khi tiến công, tổng số chỉ còn 18 chiếc thực sự tiến công. Nhưng chúng đã thành công xuất sắc lớn, gây bồn chồn cho quân Đức phòng thủ, cuộc tiến công trong ngày hôm đó đã tiến lên chiếm được 5 km chiều sâu chiến tuyến với số thương vong cho binh sĩ thấp hơn mức trung bình tới 20 lần. Tuy Trận sông Somme năm 1916 vì nhiều nguyên do khác nhau mà cũng lại có kết cục không dứt khoát, nhưng xe tăng đã trở thành vũ khí tiến công rất có triển vọng .Ngay sau đó người Đức cũng học theo và sản xuất được loại xe tăng A7V. Người Pháp cũng sản xuất xe tăng và năm 1917 họ đã sản xuất ra xe tăng hạng nhẹ Renault FT-17, đây là xe tăng có cấu trúc hoàn hảo tiên phong, đến mức nó còn được quân đội Pháp và Ba Lan dùng cho đến đầu thế chiến thứ II. Xe Renault FT17 đã có sắp xếp cấu tạo về cơ bản rất giống với xe tăng ngày này với tháp pháo hoàn toàn có thể quay nhanh và pháo hoàn toàn có thể nâng hạ góc bắn, xe có vận tốc cao, tính cơ động tốt, năng lực việt dã tốt với những thông số kỹ thuật như sau : Hoả lực là súng máy Hotchkiss hoặc pháo 37 mm. Động cơ xăng Renault vận tốc 6 – 7 km / giờ leo dốc đến 35 độ, vượt hào rộng 1,8 m. Vỏ thép 6 – 22 mm. Kích thước xe : dài × rộng × cao : 5 × 1,74 × 2,14 m .
Trước và trong thế chiến II[sửa|sửa mã nguồn]
Trước và đặc biệt quan trọng trong thế chiến II, xe tăng có những bước tăng trưởng rất nhanh, mạnh trong cả kỹ thuật sản xuất xe và giải pháp sử dụng chúng. Trước cuộc chiến tranh những cường quốc quốc tế đã nhận thức được vai trò của xe tăng trong cuộc chiến tranh và ra sức kiến thiết xây dựng một lực lượng xe tăng mạnh .
Về kỹ thuật: Trong thời gian này nhà kỹ thuật người Mỹ George Christie đã ứng dụng hệ thống treo cho xe tăng đã nâng cao độ tin cậy tác chiến của xe tăng: tháp pháo nhờ hệ thống này vẫn giữ nguyên vị trí khi xe chuyển động cho phép xe tăng có thể ngắm bắn khi đang chuyển động. Các loại xe tăng của Liên Xô ngay trước thế chiến II lần đầu tiên trên thế giới được lắp động cơ Diesel. Các xe tăng được trang bị liên lạc radio, hỏa lực được nâng cao (cỡ nòng từ 30–40mm của thế chiến I nâng lên 70–80mm đầu thế chiến II và cuối thế chiến II có loại mang pháo 122mm). Vỏ thép được gia cường rất nhiều để chống lại các loại vũ khí chống tăng của đối thủ. Các loại xe tăng tốt nhất của thời kỳ này là của hai cường quốc lục quân Liên Xô và Đức Quốc xã, kết quả của các đối chọi của quân đội hai nước này trên chiến trường.
Nhưng trong thời kỳ này có sự nhìn nhận rất khác nhau ( ở những nước và trong một nước ) trong ý niệm về vai trò của xe tăng trong cuộc chiến tranh dẫn đến sự tăng trưởng xe tăng theo những hướng và phát sinh nhiều hạng xe tăng khác nhau cho những mục tiêu sử dụng khác nhau mà sau cuộc chiến tranh quốc tế thứ 2 đã vô hiệu tổng thể những loại xe không thích hợp, chỉ còn một vài loại được khẳng định chắc chắn qua cuộc chiến tranh. Do coi trọng tính năng trợ chiến cho bộ binh, 1 số ít loại xe của Pháp và Liên Xô được sản xuất với vỏ thép rất nặng, hỏa lực rất mạnh, cơ động rất kém, thậm chí còn có vài tháp pháo cho nhiều loại pháo, đây là loại xe thực sự là ” ụ pháo biết đi ” để yểm trợ hỏa lực cho bộ binh và chống xe tăng địch. Ví dụ, xe tăng T-35 của Liên Xô có số lượng rất rất ít ( năm 1933 – 1939 Liên Xô sản xuất 61 chiếc ), là một thử nghiệm của xe bọc thép tương hỗ bộ binh với 5 tháp pháo rất nặng nề ; hoặc loại xe tăng nặng đến 70 tấn Char 2C của Pháp. Các loại xe này trong thực tiễn chiến đấu tỏ ra khá vô dụng và nhanh gọn chết yểu .Thời gian này có sự chạy đua giữa hỏa lực và vỏ thép trong sản xuất xe tăng. Các cường quốc chạy đua bằng việc ngày càng tăng cỡ pháo, tăng độ dày của vỏ thép và tăng sức cơ động. Sự chạy đua của những tính năng xích míc lẫn nhau này làm cho Open rất nhiều phân hạng xe tăng :
- Xe tăng hạng nhẹ: xe nhẹ, vỏ thép yếu, thường dưới 40mm, cơ động tốt nhưng hỏa lực pháo khá yếu (dưới 50mm), rất điển hình là xe tăng BТ-7, T-26 của Liên Xô, Panzer II của Đức. Trong chiến tranh, loại xe này tỏ rõ tính không hiệu quả khi đấu tăng, nhưng lợi thế của chúng là tốc độ và độ cơ động cao, nên được dùng chủ yếu để trinh sát.
Xe tăng hạng nặng IS-2 Model 1944 của Liên Xô. Đây là loại xe tăng có hỏa lực mạnh nhất trong thế chiến thứ 2 với pháo 122 mm nòng dài
Về chiến thuật: Đây là thời kỳ của những tư tưởng táo bạo của chiến thuật sử dụng xe tăng mà các tướng lĩnh Đức Quốc Xã đã đi đầu và tạo nên cuộc cách mạng trong nghệ thuật chiến tranh. Các chiến thắng vũ bão của quân đội Đức Quốc xã trên chiến trường trên bộ đánh tan nhanh chóng quân đội các cường quốc địch thủ tại châu Âu trong chiến lược chiến tranh chớp nhoáng (Blitzkrieg) là nhờ các sáng tạo chiến thuật chứ không phải là nhờ chất lượng hơn hẳn của xe tăng Đức. Tuy trước chiến tranh tại nhiều nước đã có các trường phái lý luận quân sự đặt nền móng cho chiến thuật chiến tranh cơ động như Hobart tại Anh, Guderian tại Đức, tăng Chaffee tại Hoa Kỳ, De Gaulle tại Pháp, và Tukhachevsky tại Liên Xô, các nhà tư tưởng quân sự này đã cùng đi đến một kết luận như nhau về kịch bản của chiến tranh hiện đại, nhưng chỉ dừng lại ở ý tưởng lý thuyết. Chỉ có tại Đức các lý luận này được cấp lãnh đạo cao nhất của quốc gia là Adolf Hitler thực sự tin tưởng và ủng hộ và với quyết tâm cao đưa vào thực tế xây dựng quân đội. Quân đội Đức thay vì sử dụng xe tăng một cách xé lẻ biên chế vào các đơn vị bộ binh như các phương tiện hỗ trợ chiến đấu như ở các nước khác, đã tập trung lại thành các sư đoàn, tập đoàn quân xe tăng xung kích, phát triển một loại bộ binh mới là bộ binh cơ giới có chức năng đi kèm xe tăng cho các hành động chiến đấu cơ động tấn công, Phát triển các ngón đòn liên hoàn cho chiến thuật kết hợp mũi nhọn xe tăng cùng không quân. Tất cả đều lấy xe tăng làm vai trò trung tâm của chiến thuật tấn công theo sơ đồ các mũi nhọn thiết giáp thọc sâu, chia cắt, hợp vây và tiêu diệt các khối lớn các đạo quân phòng thủ của địch. Sau này chiến thuật tương tự được phía Liên Xô phát triển được gọi là chiến thuật chiến dịch tiến công chiều sâu. Các chiến thuật tiến công này đã đưa chức năng tấn công thọc sâu cơ động của xe tăng lên làm chức năng số một gây nên sự thay đổi lớn trong hình thức tác chiến của chiến tranh thế giới lần thứ hai và trong quan điểm chế tạo xe tăng trong các giai đoạn kế tiếp sau này.
Thời cuộc chiến tranh lạnh và tân tiến[sửa|sửa mã nguồn]
Sau thế chiến II hoàn toàn có thể phân ra 3 quá trình tăng trưởng xe tăng :
Xe tăng T-54 tại Nước Ta T-54 và T-55 là xe tăng được sử dụng thoáng rộng và là loại tăng được sản xuất nhiều nhất cho đến lúc bấy giờ .
Theo thời hạn cũng như sự tăng trưởng của kim chỉ nan quân sự chiến lược, của khoa học và công nghệ tiên tiến, sự hiện hóa của vũ khí và những phương tiện đi lại cuộc chiến tranh, sự phân loại xe tăng từng thời kỳ cũng có những đổi khác :
Trước năm 1920[sửa|sửa mã nguồn]
Có bốn loại xe tăng, được phân loại theo khối lượng :
Trước năm 1960[sửa|sửa mã nguồn]
Khối Warszawa
Có ba loại xe tăng, được phân loại theo khối lượng :
Khối NATO
Có ba loại xe tăng, được phân loại theo khối lượng và kích cỡ của pháo tăng :
- Xe tăng hạng nhẹ: Trọng lượng dưới 25 tấn, pháo tăng có cỡ nòng đến 85mm
- Xe tăng hạng trung: Trọng lượng từ 25 tấn đến 50 tấn, pháo tăng có cỡ nòng đến 105mm
- Xe tăng hạng nặng: Trọng lượng trên 50 tấn, pháo tăng có cỡ nòng lớn hơn 105mm
Từ năm 1960[sửa|sửa mã nguồn]
Xe tăng được phân loại không riêng gì theo khối lượng, kích cỡ pháo tăng mà còn được phân loại theo hiệu quả, tính năng. Theo cách phân loại này, xe tăng có những chủng loại sau :
Từ năm 1960, xe tăng tân tiến trang bị nhiều loại vũ khí như pháo, tên lửa chống tăng ( tên lửa ATGM ), tên lửa phòng không tầm ngắn và trung bình .Hiện nay. ở những nước có nền công nghiệp quốc phòng tân tiến, phần nhiều những loại xe tăng hạng nhẹ trước đây không được lan rộng ra sản xuất. Họ chuyển sang sản xuất xe thiết giáp chiến đấu của bộ binh dùng bánh xích có tính năng giống với xe tăng hạng nhẹ nhưng đa năng hơn, ( BMP, BMD, M2 Bradley ) ; xe thiết giáp trinh thám ( BRDM ), hay xe chiến đấu tương hỗ tăng dựa trên khung thân xe tăng, hoàn toàn có thể chiến đấu độc lập hoặc phối hợp với xe tăng trong thực thi trách nhiệm đột kích vận tốc cao của lục quân tân tiến. [ 3 ]
Các xu thế tăng trưởng trong cuộc chiến tranh văn minh[sửa|sửa mã nguồn]
Máy bay cường kích A-10 Thunderbolt II của Không lực Hoa Kỳ, máy bay cường kích được coi là trinh sát diệt tăng trong cuộc chiến tranh văn minh Máy bay cường kích Sukhoi Su-25 của NgaTrong thời đại ngày này nhất là sau khi rủi ro tiềm ẩn cuộc chiến tranh quốc tế tổng lực không còn và với sự lên ngôi vai trò của không quân thì tương lai sử dụng xe tăng vẫn chưa rõ ràng :
Do những yếu tố trên nên một mặt lục quân của những cường quốc quân sự chiến lược quốc tế không đặt ưu tiên số 1 cho lực lượng tiến công vào lực lượng xe tăng thiết giáp nữa mà chọn những loại khác như bộ binh trực thăng vận. Nhưng đồng thời những vương quốc đứng vị trí số 1 về sản xuất xe tăng vẫn tăng cường nghiên cứu và điều tra và sản xuất những loại xe tăng ngày càng tân tiến cho quân đội của mình và bán cho những nước khác. Trong điều kiện kèm theo lúc bấy giờ vẫn chưa thấy có xu thế rời bỏ xe tăng, ngay như quân đội Hoa Kỳ đứng đầu quốc tế về những loại máy bay chiến đấu và trực thăng vẫn duy trì lực lượng xe tăng mạnh cho lục quân của họ .
Xe tăng lúc bấy giờ thường gồm 1 thân xe được làm thấp đến nỗi người lái phải nằm gần như lái xe công thức 1 để giảm độ cao nhằm mục đích tránh phát hiện và trúng đạn. Thân xe thường được bọc thép hầu hết phía trước để cạnh tranh đối đầu trong những cuộc đấu tăng, những loại xe văn minh như T-90, Leopard 2 … có giáp trước tương tự 600 mm đến 900 mm thép chống đạn xuyên giáp động năng và hơn 1 m chống đầu đạn xuyên thuốc nổ. Tại gầm xe, hai bên hông thì giáp mỏng mảnh hơn rất nhiều .Thân xe đặt trên mạng lưới hệ thống bánh xích, với 6 hoặc 7 bánh chịu lực và bảo vệ độ không thay đổi, 1 bánh truyền động từ động cơ ra xích, 1 bánh khuynh hướng đặt cao hơn so với mặt đất để tạo moment lớn khi vượt chướng ngại vật. Áp suất xe xuống mặt đường thường xê dịch 1 kg / cm2 và nhỏ hơn áp suất của người đứng bằng chân trần, điều đó giúp xe chạy được trên nền đất yếu. Động cơ xe tăng thường từ 1000 hp đến 1500 hp ( sức ngựa ), rất khỏe để hoàn toàn có thể bảo vệ độ cơ động cho khối lượng xe từ 40 tấn đến 70 tấn, và vận tốc tối đa như M1 của Hoa Kỳ lên đến 70 km / h ( bị số lượng giới hạn bởi máy điều tốc ) .Hai bên thân xe, phía ngoài xích thường có gắn những tấm giáp thép hoặc lưới thép hầu hết để kích nổ những đầu đạn từ ngoài giáp chính hoặc cũng hoàn toàn có thể chỉ là tấm cao su đặc. Đối với nhu yếu tác chiến thành phố, những tấm giáp hai bên thường được đặc chế để chống lại đầu đạn CE dùng sức xuyên hóa học .Trên thân xe đặt tháp pháo, nhằm mục đích nâng và xoay một khẩu súng chính thường là nòng trơn ( không có rãnh, trừ Challenger II của Anh ) cỡ nòng chung khối Nato ( Mĩ, Tây Âu ) là 120 mm và phương Đông là 125 mm ( Nga, Trung Quốc ). Góc xoay quanh không bị hạn chế, góc nâng hạ nòng súng từ – 10 đến 20 độ ( phương Tây ). Trên tháp pháo có gắn rất nhiều thiết bị điện tử như kính hồng ngoại, những đơn vị chức năng tích lũy tín hiệu, lọc khí, .. và chứa hàng loạt thành viên tổ điều khiển và tinh chỉnh trừ lái xe .Đối với những xe tăng phương Tây, tháp pháo cũng chỉ được bọc giáp đa phần ở phía trước như một tấm khiên, độ bảo vệ tương tự phía trước thân xe, còn bên hông rất mỏng dính và thậm chí còn nóc tháp pháo chỉ tương tự 20 mm thép .Một tổ điều khiển và tinh chỉnh thường có ba người ( xe tăng Nga, Trung Quốc, Pháp ) với một tổ trưởng, lái xe và pháo thủ, với pháo được nạp đạn tự động hóa bằng máy. Trong khi đó những nước Mĩ, Anh, Đức, Nhật, Israel … sử dụng tổ lái 4 người với thêm một người nạp đạn, họ cho rằng một người nạp đạn được giảng dạy tốt sẽ nhanh hơn máy và giúp sắp xếp đạn thuận tiện hơn. Tuy nhiên cấu trúc 4 người khiến kích cỡ xe lớn hơn, nặng nề hơn, cần nhiều giáp hơn, và trong những khuynh hướng tăng trưởng thì việc nạp đạn thủ công bằng tay sớm muộn sẽ bị thay bởi máy vì những loại đạn tương lai ngày càng nặng và lớn ( dài tổng số 1,5 mét / viên và nặng hàng chục kg ) thì người nạp đạn không hề mang vác nhanh được. Khoang đạn thường được sắp xếp sau tháp pháo, khiến cho tháp pháo trở nên to nặng, rất dễ trúng đạn, làm cho size tổng thể và toàn diện của xe to nặng hơn, việc sản xuất sẽ trở nên tốn kém hơn .Xe tăng Nga thường gắn thêm giáp phản ứng nổ ERA. Vì phong cách thiết kế bắt đầu của xe tăng Nga chỉ có kíp lái 3 người, mạng lưới hệ thống nạp đạn tự động hóa, khoang đạn được đưa xuống gầm xe, nơi được bảo vệ tốt nhất, do đó thể tích trong xe nhỏ đi, hoàn toàn có thể làm giáp dày lên ngay cả bên hông xe. Do đó xe tăng Nga khá nhẹ, ngay cả khi đã mang ERA. Yêu cầu so với tổng thể những xe tăng trong quân đội Nga lúc bấy giờ phải được lắp ERA không thiếu .
Sau khi kết thúc cuộc chiến tranh lạnh, xe tăng vẫn có chỗ đứng quan trọng nhất trong những binh chủng đột kích của lục quân. Khác với cuộc chiến tranh quốc tế thứ hai và những cuộc cuộc chiến tranh 1956, 1967 và 1973 ở Trung Đông thường chuyên dùng xe tăng để thực thi những trận ” đấu tăng ” trên mặt trận, khuynh hướng sử dụng xe tăng phối hợp với những loại xe thiết giáp của bộ binh ( những biến thể của xe tăng hạng nhẹ trước kia ) được trang bị nhiều loại vũ khí mặt đất và phòng không văn minh, được tin học hoá, tự động hóa ở Lever cao và phối hợp với trực thăng chiến đấu trở tổ chức triển khai quân binh chủng hợp thành có sức cơ động cao, hiệu suất đột kích lớn .Điển hình cho việc sử dụng những đơn vị chức năng quân – binh chủng hợp thành này là quân đội Hoa Kỳ và liên quân trong hai cuộc cuộc chiến tranh vùng vịnh 1991 và 2003. Do sự phối hợp quân binh chủng đó, vai trò của xe tăng hoàn toàn có thể mờ nhạt nếu nhìn về hình thức. Các hình ảnh thường thấy trên tiếp thị quảng cáo là những loại tên lửa nhỏ từ bộ binh, trực thăng thuận tiện tàn phá xe tăng, hình ảnh cuộc chiến Iraq với sự áp đảo về không quân dẫn đến câu hỏi : phải chăng xe tăng đã lỗi thời ? Thế nhưng thực tiễn tăng trưởng xe tăng từ năm 1990 đến nay đã cho câu vấn đáp ngược lại. Bên cạnh việc tập trung chuyên sâu nghiên cứu và điều tra những xe thiết giáp nhẹ với hỏa lực mạnh nhằm mục đích luân chuyển bằng máy bay để sử dụng trong đại chiến nhỏ, những nước vẫn liên tục nghên cứu, sản xuất những mẫu xe tăng mới. Sau M1A1, Hoa Kỳ cho sinh ra loại M1A2 tiện lợi hơn. Nga tăng cấp xe tăng T-72 lên T-72B3 và T-90, đồng thời đang đưa vào sản xuất loại tăng mới T-14 với nhiều phong cách thiết kế mới dựa trên khung gầm Armata đã Open trong lễ duyệt binh thắng lợi phát xít vào ngày 9-5-2015. Trung Quốc tăng trưởng xe tăng nòng cốt Type-99, Nước Đức liên tục tăng cấp xe tăng nòng cốt Leopard 2, Anh vẫn liên tục sản xuất xe tăng nòng cốt Challenger, Pháp vẫn cho sinh ra xe tăng nòng cốt Leclerc ; toàn bộ đều là xe tăng hạng nặng. Nếu tính đến cuộc chiến tranh tổng lực giữa những vương quốc có tiềm lực quân sự chiến lược mạnh, trực thăng tiến công không hề cung ứng được vai trò so với một đội hình chiến đấu gồm xe tăng và những phương tiện đi lại phòng không đi cùng. Hơn nữa nhu yếu về những loại chiến xa để chịu đựng hỏa lực và đối phó với xe thiết giáp nhẹ của đối phương sẽ lại dẫn tới nhu yếu về xe tăng .
Một số đặc thù ưu tiên khi sản xuất xe tăng của những vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]
Các vương quốc đầu bảng trên quốc tế trong nghành sản xuất xe tăng là Hoa Kỳ, Liên Xô – Nga, Anh, Pháp, Đức, Israel. Mỗi vương quốc khi sản xuất xe tăng đều có hướng ưu tiên trong cách lựa chọn những giải pháp nhiều khi xích míc nhau. Điều đó tạo ra ” phe phái ” của những nước này .
Trường phái Liên Xô-Nga[sửa|sửa mã nguồn]
Quân đội Liên Xô cũ và Nga trước đây đi theo hướng nghĩa vụ và trách nhiệm quân sự chiến lược, sẵn sàng chuẩn bị cho cuộc chiến tranh tổng lực với quân số đông nhưng đã có sự Open của những binh sĩ chuyên nghiệp, theo mục tiêu bên trong giới quân sự chiến lược Nga là chất lượng phải song hành cùng số lượng. [ 4 ] Dòng tăng Liên Xô-Nga đi đầu trong nhiều cải tiến vượt bậc công nghệ tiên tiến như đạn liều rời, pháo nòng trơn, giáp bằng vật tư tổng hợp, máy nạp đạn tự động hóa, tên lửa bắn qua nòng pháo. Xe tăng T-14 sử dụng khung gầm Armata còn có tháp pháo không người lái tinh chỉnh và điều khiển trọn vẹn bằng điện tử .Xe tăng Xô-Nga đặc trưng với size nhỏ gọn, diện tích quy hoạnh mặt phẳng giảm thiểu, nên giảm năng lực bị bắn trúng, và vỏ giáp được làm rất dầy mà tổng khối lượng vẫn rất nhẹ ( trừ BM Oplot của Ukraina thì không có xe tăng Nga-Xô nào vượt quá 50 tấn ). Ngoài vỏ giáp dầy cứng, những phiên bản gần đây của xe tăng Xô-Nga cũng được trang bị giáp phản ứng nổ, mạng lưới hệ thống gây nhiễu quang-điện tử ( như Shtora ), mạng lưới hệ thống đánh chặn ( như Drozd, ARENA và Afghanit ) .Đạn dược của xe tăng T-64 trở về sau để trong băng nạp đạn đứng ( T-64, T-80 ) hay băng nằm ( T-72, T-90 ), đặt ở dưới tháp pháo, TT thân xe nơi được che chắn kỹ. Phần đạn còn lại đặt trong khoang của binh sĩ, cách đặt này bị phê phán là thiếu bảo đảm an toàn do kíp lái bị tác động ảnh hưởng bởi sức nổ của khối đạn dược ( nếu chẳng may bị kích nổ ) nên gần đây phần đạn dược ” thêm ” này được chuyển sang đặt trong khoang sau tháp pháo như T-90AM hay T-14 Armata .Trừ những phiên bản đầu của T-80 dùng động cơ tuabin khí, xe tăng Xô-Nga đều dùng động cơ diesel. T-72 dùng dòng động cơ V 4 thì sản xuất bởi xí nghiệp sản xuất ở Nga, trong khi T-64 và T-80 dùng động cơ 2 thì nhỏ gọn và hiệu suất cao hơn ( nhưng tốn nguyên vật liệu hơn ), sản xuất ở xí nghiệp sản xuất Malyshev tại Ukraina. Sau khi Liên Xô tan rã, xe tăng Nga liên tục dùng động cơ dòng V yếu hơn do mất nguồn cung từ Ukraina, nhưng Nga đã nỗ lực nâng cấp cải tiến để khắc phục và đã tăng hiệu suất động cơ dòng V lên 1.000 – 1.250 mã lực. Động cơ mới dùng trong khung gầm Armata có hiệu suất đến 1.500 mã lực .Các xe tăng Liên Xô-Nga lúc bấy giờ đều dùng pháo nòng trơn 125 mm khởi đầu từ T-64. Loại xe mới như T-90 và T-14 Armata đã được thử nghiệm để trang bị pháo nòng trơn 135 mm và 152 mm ( cỡ nòng pháo tăng lớn nhất quốc tế ), nhưng do sự cạnh tranh đối đầu thời Chiến tranh Lạnh đã qua nên chưa vận dụng thoáng rộng để tiết kiệm ngân sách và chi phí ngân sách .
- T-64A
- T-64AK
- T-64B
- T-64BV
- T-64B1
-
T-64BM Bulat
- T-64BM của Ukraina
- T-72 Ural
- T-72A
- T-72M
- T-72M1
- T-72B
- T-72B1
- T-72BA
- T-72B2
- T-72B3
- T-72B3M
- T-72AMT của Ukraine
- T-72S
- T-72M4 CZ
- T-72Sim1 của Gruzia
- T-72 Ajeya của Ấn Độ
-
T-72 Asad Babil Iraq
- T-80
- T-80B
- T-80BV
- T-80UM-1
- T-80U
- T-80UK
- T-80BVM
- T-84 của Ukraina
- BM-Oplot của Ukraina
- T-90
- T-90A trong lễ duyệt binh 9-5
- T-90SA
- T-90M
- T-90S
- Army2016-175. jpg
T-90SM - T-90 Bhisma của Ấn Độ
- T-14 Armata
Thời điểm hiện tại, xe tăng phe phái Âu-Mỹ lấy phong cách thiết kế của Leopard 2 của Đức ( sinh ra năm 1978 ) làm nền tảng. Xe tăng phe phái Âu-Mỹ thường to và rất nặng ( trừ Type-10 của Nhật Bản nặng 48 tấn, còn lại phần nhiều nặng trên 50-60 tấn ), tháp pháo hình chữ nhật to dài do khoang đạn đặt phía sau tháp pháo. Đạn liều liền, nạp bằng tay ( Leopard 2, M1 Abrams, Challenger II, … ) hay nạp máy bằng băng xích. Pháo 120 mm nòng trơn nền tảng do Đức phong cách thiết kế, trừ Challenger 2 của Anh vẫn dùng 120 mm nòng xoắn. Leopard 2 của Đức sử dụng những giáp hộp rất to và rất nghiêng, có tính năng kích nổ đạn xuyên nổ ngoài giáp chính hay đẩy nghiêng đạn xuyên động năng, giúp giảm đi nhiều lần sức xuyên của đạn ; động cơ cũng rất khỏe ( 1.500 mã lực ). M1 Abrams bớt xén những giáp hộp, thay bằng giáp chính cứng tăng cường bởi những lớp urani nghèo, thay động cơ diesel bằng động cơ tuabin khí khỏe nhưng rất tốn nguyên vật liệu khi chạy ở vận tốc thấp. Xe tăng Merkava của Israel đặt động cơ ra trước và sắp xếp cửa ở sau xe, xem động cơ như một lớp bảo vệ phụ che chắn cho binh sĩ, đồng ý việc xe dễ hỏng hơn để bảo vệ binh sĩ trong xe tốt hơn .
- Leopard 2A4
- Leopard 2A5 của Đức
- Leopard 2A6
- Leopard 2A6 HEL của quân đội Hy Lạp
- Leopard 2A7
- Leopard 2E
- Leopard 2SG
- Leopard 2PL
- Leopard 2 PSO
- Stridsvagn 122 của quân đội Thụy Điển
- M1A1 Abrams
- M1A1M Abrams của Iraq, 2011
- M1A2 Abrams
- AMX Leclerc của Pháp
- Challenger II của Anh
- K2 Black Panther của Nước Hàn
-
Merkava của Israel
- Type 90 và Type 10 của Nhật
- Иностранные армии: Вооружение и техника – Справочник (Воениздат) Mосква 1984 – Sổ tay tra cứu: Vũ khí, kỹ thuật các quân đội nước ngoài – Bản tiếng Nga Nhà xuất bản Quân sự Mосква 1984
- Военный энциклопедический словарь – (Воениздат) Mосква 1986 – Từ điển bách khoa quân sự Nhà xuất bản quân sự Mосква 1986.
- Các bài về xe tăng trong Wikipedia tiếng Anh và tiếng Nga.
- Scott Cunningham’s Armor in Action Lưu trữ 2009-02-11 tại Wayback Machine – trang Web chứa số lượng lớn các ảnh xe tăng thiết giáp và trang bị vũ khí kỹ thuật trên thực địa
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://thevesta.vn
Category: Bản Tin