GIÁC CHÚNG SANH HỮU TÌNH – NGỘ NHẬP PHẬT TRI KIẾN
Mục lục
TIN SÂU-NGUYỆN THIẾT-HẠNH CHUYÊN
Đôi điều về việc hành trì tụng niệm các bài Thần Chú :
Các hành giả hành trì thần chú phải có đủ 3 điều Tín-Nguyện-Hạnh, chúng ta CÓ CẢM thì MỚI CÓ ỨNG từ các vị Phật, Bồ tát, Chư Thiên, Kim Cương Long Thần hộ vệ. Cũng ví như chúng ta là các máy radio thu sóng “Từ Bi” của chư Phật Bồ tát hàng đêm, ai kiên trì tụng niệm thần chú NHẤT TÂM BẤT LOẠN, một lòng hướng về chư Phật, trong lòng chúng ta có Phật, thì mới có chứng, có linh ứng hiệu nghiệm, cho nên mới nói PHẬT PHÁP NHIỆM MÀU.
Dù ai nói ngã nói nghiêng, thì ta vẫn vững như kiềng 3 chân, dù cho nhiều Thầy có nhiều cách giảng xích míc khác nhau về giáo lý và về các bài thần chú, nhưng bản thân tất cả chúng ta là người quyết định hành động sau cuối, hãy tự thắp đuốc lên mà đi, hãy là hải đảo của tự thân và tự tìm lấy cho mình 1 lối đi riêng 1 pháp môn tu tập riêng, dù rằng có ai nói tụng niệm Thần chú không linh ứng hiệu nghiệm đi chăng nữa, do tại họ chưa từ bỏ được Con Ma Nghi Kỵ trong Tâm mình .
Có thể có 4 lí do sau đây khiến việc hành trì Thần Chú không được như ý muốn:
Bạn đang đọc: GIÁC CHÚNG SANH HỮU TÌNH – NGỘ NHẬP PHẬT TRI KIẾN
1. Do chưa đủ phước báu : là do tất cả chúng ta gieo nhân chưa đủ, chưa tạo đủ Phước cho cuộc sống, mà các đức Phật lại ban phước dựa trên quy luật Nhân-Quả, các Ngài ban phước cho 1 ai đó đều xét bản thân người đó đã làm được những điều tốt đẹp gì cho mọi người xung quanh chưa ? có nói lời hay, ý đẹp làm lợi lạc cho chúng sanh hay chưa ? Từ đó suy ra, tất cả chúng ta nên tích cực làm nhiều việc thiện hơn, để gieo Nhân lành cho việc mong cầu suôn sẻ .
2. Do Duyên lành chưa đến, nên Quả lành chưa thể trổ được : ví như trồng cây cà chua, tất cả chúng ta phải đợi 1 khoảng chừng thời hạn nhất định, chăm nom, tưới nước, bón phân thì quả cà chua mới lớn lên từ từ, mới đầu màu xanh, sau sẽ chín chuyển thành màu đỏ. Việc mong cầu chuyện gì đó trong cuộc sống của tất cả chúng ta cũng như vậy mà thôi, ví dụ việc mong cầu trúng số, có nhà lầu, xe hơi không hề 1 hay 2 ngày là có liền được, tất cả chúng ta nên kiên trì chờ đón và tích cực làm việc thiện nhiều hơn .
3. Mục đích của người mong cầu là gì ? có lợi hay có hại ? có lợi cho ai ? cho 1 người, 1 cá thể hay 1 hội đồng, tập thể, chúng sanh. Các vị Phật không khi nào ban phước lành cho 1 cá thể đơn lẻ ích kỉ, biết sống chỉ riêng cho mình, mong như mong muốn niềm hạnh phúc đến cho 1 mình mình thôi, nên cuối lời nguyện cầu, tất cả chúng ta nên hồi hướng công đức đến toàn bộ chúng sanh, biết mở tấm lòng Từ Bi đến mọi người xung quanh thì việc mong cầu sẽ được như ý muốn .
4. Do nghiệp chướng của tất cả chúng ta quá sâu dày tích góp từ vô lượng kiếp tái sanh, hãy dùng các thần chú sau đây nhờ sự gia hộ của chư Phật và Bồ tát chuyển hóa bớt từ từ, hãy kiên trì tinh tấn trên con đường tu sửa tâm từ bên trong, khi nghiệp chướng như bệnh tật, tai ách, oan gia trái chủ, nợ nần đến đòi thì tội nặng hóa thành tội nhẹ, tội nhẹ hóa thành không. Hãy dụng công phu tu hành nhờ Phật lực gia hộ chuyển hóa bớt đi từ từ thì một ngày nào đó tất cả chúng ta không đến nỗi lâm vào tình cảnh bi đát, than thân trách phận, đổ thừa vận xui rủi “ phước bất trùng lai, họa vô đơn chí ” hay “ Quả nhồi, Nghiệp khảo ” ( ^ _ ^ )
Là hành giả trì tụng thần chú, 1 lòng 1 dạ hướng về các đức Phật, thì nhất định các Ngài sẽ không từ bỏ tất cả chúng ta. Hàng ngày tất cả chúng ta niệm 1 câu thần chú hay 6 chữ Hồng Danh của Đức Phật A-Di-Dà như người mẹ hiền, ví như cả 2 bên, Mẹ hiền và tất cả chúng ta đều đi 1 điểm hẹn duy nhất, mặc dù rằng bao nhiêu năm xa xôi cách trở 20-30 năm nhưng nhất định, cả 2 sẽ gặp được nhau vì đều nghĩ, đều gọi tên và đều hướng về nhau. Thời gian không quan trọng, quan trọng là mỗi tất cả chúng ta đều giữ Chánh Niệm về 1 đức Phật duy nhất A-Di-Đà trong Tâm của tất cả chúng ta. Nếu mất tiền thì tất cả chúng ta hoàn toàn có thể đi làm kiếm lại được, nhưng để mất đi Niềm Tin và Hy Vọng tất cả chúng ta sẽ đánh mất đi hết Tất Cả .
Chúc các hành giả thân tâm an lạc tự tại, xóa bỏ dần các nghiệp chướng sâu dày và vọng tưởng tạp niệm từ vô lượng kiếp, giữ vững CHÁNH NIỆM VÀ CHÁNH ĐỊNH, NHƯ Ý CÁT TƯỜNG, biến ước mơ thành hiện thực, sở cầu được toại nguyện, biết sống vì mọi người hơn nữa, làm lợi lạc cho chúng sanh đang chìm ngập trong bể khổ của 6 nẻo luân hồi và cũng để đạt được sự Màu Nhiệm của Phật Pháp trong đời sống hiện tiền. Nam mô A-Di-Đà Phật.
__________________________Ai ăn người đó No – Ai Tu người đó Chứng________________
1. THẦN CHÚ LĂNG NGHIÊM
2. CHÚ ĐẠI BI
Nghe nhạc Chú Đại Bi Phạn Ngữ [ audio http://www.fileden.com/files/2011/11/15/3225755/Chu%20Dai%20Bi_Phan%20Ngu%20-%20Unknow.mp3 ]
Nghe Chú Đại Bi Việt Ngữ
[audio
3. TIÊU TAI KIẾT TƯỜNG
4. CÔNG ĐỨC BẢO SƠN
5. PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ
6. THÁNH VÔ LƯỢNG THỌ
7. DƯỢC SƯ QUÁN ĐẢNH
8. QUÁN ÂM LINH CẢM
9. THẤT PHẬT DIỆT TỘI
10. VÃNG SANH TỊNH ĐỘ
11. THIỆN THIÊN NỮ CHÚ
[ audio http://www.fileden.com/files/2011/11/15/3225755/Chu%20Dai%20Bi%20-%20Thich%20Tri%20Thoat%20-%20Thich%20Tri%20Thoat.mp3
12. NHƯ Ý BẢO LUÂN VƯƠNG ĐÀ LA NI
1. THẦN CHÚ LĂNG NGHIÊM
Nam-Mô-Lăng-Nghiêm Hội-Thượng Phật Bồ Tát ( 3 lần )
Diệu trạm tổng trì bất động tôn,
Thủ-Lăng-Nghiêm-Vương thế hi hữu,
Tiêu Ngã ức kiếp điên-đảo tưởng.
Bất lịch tăng-kỳ hoạch pháp thân,
Nguyện kim đắc quả thành bảo-vương,
Hườn độ như thị hằng sa chúng,
Tương thử thâm tâm phụng trần sát,
Thị tắc danh vị báo Phật ân:
Phục thỉnh Thế-Tôn vị chứng minh,
Ngũ-trược ác-thế thệ tiên nhập,
Như nhứt chúng sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ nê-hoàn.
Đại –hùng đại -lực đại -từ-bi,
Hi cánh thẩm trừ vi-tế hoặc,
Linh ngã tảo đăng vô -thượng giác,
Ư thập phương giới tọa đạo tràng ;
Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong,
Thước –ca –ra tâm vô động chuyển.
Nam-mô thường-trụ thập-phương Phật.
Nam-mô thường-trụ thập-phương Pháp.
Nam-mô thường-trụ thập-phương Tăng.
Nam-mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật.
Nam-mô Phật Đảnh Thủ-Lăng-Nghiêm.
Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Nam-mô Kim-Cang-Tạng Bồ-Tát.
Nhĩ thời Thế-Tôn,
Tùng nhục-kế trung,
Dõng bá bảo-quang,
Quang trung dõng xuất ,
Thiên diệp bảo liên,
Hữu hóa Như-Lai,
Tọa bảo hoa trung,
Đảnh phóng thập đạo,
Bá bảo quang-minh,
Nhứt nhứt quang-minh,
Giai biến thị hiện,
Thập hằng hà sa,
Kim-Cang mật tích,
Kình sơn trì sử,
Biến hư-không giới,
Đại chúng ngưỡng quan,
Ủy ái kiêm bảo,
Cầu Phật ai hựu,
Nhứt tâm thính Phật,
Vô-kiến đảnh tướng ,
Phóng quang như La-Lai,
Tuyên thuyết thần chú:
Đệ Nhất
01. Nam-mô tát đát tha
02. Tô già đa da
03. A ra ha đế
04. Tam-miệu tam bồ đà tỏa
05. Nam mô tát đát tha
06. Phật đà cu tri sắc ni sam
07. Nam-mô tát bà
08. Bột đà bột địa
09. Tát đa bệ tệ
10. Nam-mô tát đa nẩm
11. Tam-miệu tam bồ đà
12. Cu tri nẩm
13. Ta xá ra bà ca
14. Tăng già nẩm
15. Nam-mô lô kê A-La-Hán đa nẩm.
16. Nam-mô tô lô đa ba na nẩm.
17. Nam-mô ta yết rị đà dà di nẩm.
18. Nam-mô lô kê tam-miệu dà đa nẩm.
19. Tam-miệu dà ba ra
20. Ðể ba đa na nẩm.
21. Nam-mô đề bà ly sắc nỏa.
22. Nam-mô tất đà da
23. Tỳ địa da
24. Ðà ra ly sắc nỏa.
25. Xá ba noa
26. Yết ra ha
27. Ta ha ta ra ma tha nẩm
28. Nam-mô bạt ra ha ma ni
29. Nam-mô nhơn dà ra da
30. Nam-mô bà dà bà đế
31. Lô đà ra da.
32. Ô ma bát đế
33. Ta hê dạ da.
34. Nam-mô bà dà bà đế
35. Na ra dả
36. Noa da
37. Bàn dá ma ha tam mộ đà da
38. Nam-mô tất yết rị đa da
39. Nam-mô bà dà bà đế
40. Ma ha ca ra da
41. Ðịa rị bác lặc na
42. Dà ra tỳ đà ra
43. Ba noa ca ra da.
44. A địa mục đế
45. Thi ma xá na nê
46. Bà tất nê
47. Ma đát rị dà noa
48. Nam-mô tất yết rị đa da
49. Nam-mô bà dà bà đế
50. Ða tha dà đa câu ra da
51. Nam-mô bát đầu ma câu ra da.
52. Nam-mô bạc xà ra câu ra da.
53. Nam-mô ma ni câu ra da
54. Nam-mô dà xà câu ra da
55. Nam-mô bà dà bà đế
56. Ðế rị trà
57. Du ra tây na.
58. Ba ra ha ra noa ra xà da
59. Ða tha dà đa da
60. Nam-mô bà dà bà đế
61. Nam-mô A di đa bà da
62. Ða tha dà đa da
63. A ra ha đế.
64. Tam-miệu tam bồ đà da
65. Nam-mô bà dà bà đế
66. A sô bệ da
67. Ða tha dà đa da
68. A ra ha đế
69. Tam-miệu tam bồ đà da
70. Nam-mô bà dà bà đế
71. Bệ xa xà da
72. Câu lô phệ trụ rị da
73. Bác ra bà ra xà da
74. Ða tha dà đa da.
75. Nam-mô bà dà bà đế
76. Tam bổ sư bí đa
77. Tát lân nại ra lặc xà da
78. Ða tha dà đa da
79. A ra ha đế
80. Tam-miệu tam bồ đà da
81. Nam-mô bà dà bà đế
82. Xá kê dã mẫu na duệ
83. Ða tha dà đa da
84. A ra ha đế
85. Tam-miệu tam bồ đà da
86. Nam-mô bà dà bà đế
87. Lặc đát na kê đô ra xà da
88. Ða tha dà đa da
89. A ra ha đế
90. Tam-miệu tam bồ đà da
91. Ðế biều
92. Nam-mô tát yết rị đa
93. ế đàm bà dà bà đa
94. Tát đác tha dà đô sắc ni sam
95. Tát đác đa bát đác lam
96. Nam-mô a bà ra thị đam
97. Bác ra đế
98. Dương kỳ ra
99. Tát ra bà
100. Bộ đa yết ra ha
101. Ni yết ra ha
102. Yết ca ra ha ni
103. Bạt ra bí địa da
104. Sất đà nể
105. A ca ra
106. Mật rị trụ
107. Bát rị đác ra da
108. Nảnh yết rị
109. Tát ra bà
110. Bàn đà na
111. Mục xoa ni
112. Tát ra bà
113. Ðột sắc tra
114. Ðột tất phạp
115. Bát na nể
116. Phạt ra ni
117. Giả đô ra
118. Thất đế nẩm
119. Yết ra ha
120. Ta ha tát ra nhã xà
121. Tỳ đa băng ta na yết rị
122. A sắc tra băng xá đế nẩm
123. Na xoa sát đác ra nhã xà
124. Ba ra tát đà na yết rị
125. A sắc tra nẩm
126. Ma ha yết ra ha nhã xà
127. Tỳ đa băng tát na yết rị
128. Tát bà xá đô lô
129. Nể bà ra nhã xà
130. Hô lam đột tất phạp
131. Nan giá na xá ni
132. Bí sa xá
133. Tất đác ra
134. A kiết ni
135. Ô đà ca ra nhã xà
136. A bát ra thị đa câu ra
137. Ma ha bác ra chiến trì
138. Ma ha điệp đa
139. Ma ha đế xà
140 Ma ha thuế đa xà bà ra
141. Ma ha bạt ra bàn đà ra
142. Bà tất nể
143. A rị da đa ra
144. Tỳ rị câu tri
145. Thệ bà tỳ xà da
146. Bạt xà ra ma lễ để
147. Tỳ xá lô đa
148. Bột đằng dõng ca
149. Bạt xà ra chế hắt na a giá
150. Ma ra chế bà
151. Bát ra chất đa
152. Bạt xà ra thiện trì
153. Tỳ xá ra giá
154. Phiến đa xá
155. Bệ để bà
156. Bổ thị đa
157. Tô ma lô ba
158. Ma ha thuế đa
159. A rị da đa ra
160. Ma ha bà ra a bác ra
161. Bạt xà ra thương yết ra chế bà
162. Bạt xà ra câu ma rị
163. Câu lam đà rị
164. Bạt xà ra hắt tát đa giá
165. Tỳ địa da
166. Kiền dá na
167. Ma rị ca
168. Khuất tô mẫu
169. Bà yết ra đá na
170. Bệ lô giá na
171. Câu rị da
172. Dạ ra thố
173. Sắc ni sam
174. Tỳ chiếc lam bà ma ni giá.
175. Bạt xà ra ca na ca ba ra bà.
176. Lồ xà na
177. Bạt xà ra đốn trỉ giá
178. Thuế đa giá
179. Ca ma ra
180. Sát sa thi
181. Ba ra bà.
182. ế đế di đế
183. Mẫu đà ra
184. Yết noa.
185. Ta bệ ra sám
186. Quật phạm đô
187. ấn thố na mạ mạ tỏa.
Ðệ Nhị
188. Ô Hồng
189. Rị sắc yết noa
190. Bác lặc xá tất đa
191. Tát đác tha
192. Già đô sắc ni sam
193. Hổ hồng đô lô ung
194. Chiêm bà na
195. Hổ hồng đô lô ung
196. Tất đam bà na
197. Hổ hồng đô lô ung
198. Ba ra sắc địa da
199. Tam bác xoa
200. Noa yết ra
201. Hổ hồng đô lô ung
202. Tát bà dược xoa
203. Hắt ra sát ta
204. Yết ra ha nhã xà
205. Tỳ đằng băng tát na yết ra
206. Hổ hồng đô lô ung
207. Giả đô ra
208. Thi để nẩm
209. Yết ra ha
210. Ta ha tát ra nẩm
211. Tỳ đằng băng tát na ra
212. Hổ hồng đô lô ung
213. Ra xoa
214. Bà già phạm
215. Tát đác tha
216. Già đô sắc ni sam
217. Ba ra điểm
218. Xà kiết rị
219. Ma ha ta ha tát ra
220. Bột thọ ta ha tát ra
221. Thất rị sa
222. Câu tri ta ha tát nê
223. Ðế lệ a tệ đề thị bà rị đa
224. Tra tra anh ca
225. Ma ha bạt xà lô đà ra
226. Ðế rị bồ bà na
227. Man trà ra
228. Ô hồng
229. Ta tất đế
230. Bạt bà đô
231. Mạ mạ
232. ấn thố na mạ mạ tỏa.
Ðệ Tam
233. Ra xà bà dạ
234. Chủ ra bạt dạ
235. A kỳ ni bà dạ
236. Ô đà ca bà dạ
237. Tỳ xa bà dạ
238. Xá tát đa ra bà dạ
239. Bà ra chước yết ra bà dạ
240. Ðột sắc xoa bà dạ
241. A xá nể bà dạ
242. A ca ra
243. Mật rị trụ bà dạ
244. Ðà ra nị bộ di kiếm
245. Ba già ba đà bà dạ
246. Ô ra ca bà đa bà dạ
247. Lặc xà đàn trà bà dạ
248. Na dà bà dạ
249. Tỳ điều đát bà dạ
250. Tô ba ra noa bà dạ
251. Dược xoa yết ra ha
252. Ra xoa tư yết ra ha
253. Tất rị đa yết ra ha
254. Tỳ xá giá yết ra ha
255. Bô đa yết ra ha
256. Cưu bàn trà yết ra ha
257. Bổ đơn na yết ra ha
258. Ca tra bổ đơn na yết ra ha
259. Tất kiền độ yết ra ha
260. A bá tất ma ra yết ra ha
261. Ô đàn ma đà yết ra ha
262. Xa dạ yết ra ha
263. Hê rị bà đế yết ra ha
264. Xả đa ha rị nẩm
265. Yết bà ha rị nẩm
266. Lô địa ra ha rị nẩm
267. Mang ta ha rị nẩm
268. Mê đà ha rị nẩm
269. Ma xà ha rị nẩm
270. Xà đa ha rị nữ
271. Thị tỷ đa ha rị nẩm
272. Tỳ đa ha rị nẩm
273. Bà đa ha rị nẩm
274. A du giá ha rị nữ
275. Chất đa ha rị nữ
276. Ðế sam tát bệ sam
277. Tát bà yết ra ha nẩm
278. Tỳ đà dạ xà
279. Sân đà dạ di
280. Kê ra dạ di
281. Ba rị bạt ra giả ca
282. Hất rị đởm
283. Tỳ đà dạ xà
284. Sân đà dạ di
285. Kê ra dạ di
286. Trà diễn ni
287. Hất rị đởm
288. Tỳ đà dạ xà
289. Sân đà dạ di
290. Kê ra dạ di
291. Ma ha bát du bát đác dạ
292. Lô đà ra
293. Hất rị đởm
294. Tỳ đà dạ xà
295. Sân đà dạ di
296. Kê ra dạ di
297. Na ra dạ noa
298. Hất rị đởm
299. Tỳ đà dạ xà
300. Sân đà dạ di
301. Kê ra dạ di
302. Ðát đỏa dà lô trà tây
303. Hất rị đởm
304. Tỳ đà dạ xà
305. Sân đà dạ di
306. Kê ra dạ di
307. Ma ha ca ra
308. Ma đác rị già noa
309. Hất rị đởm
310. Tỳ đà dạ xà
311. Sân đà dạ di
312. Kê ra dạ di
313. Ca ba rị ca
314. Hất rị đởm
315. Tỳ đà dạ xà
316. Sân đà dạ di.
317. Kê ra dạ di
318. Xà dạ yết ra
319. Ma độ yết ra
320. Tát bà ra tha ta đạt na
321. Hất rị đởm
322. Tỳ đà dạ xà
323. Sân dà dạ di
324. Kê ra dạ di
325. Giả đốt ra
326. Bà kỳ nể
327. Hất rị đởm
328. Tỳ đà dạ xà
329. Sân đà dạ di
330. Kê ra dạ di
331. Tỳ rị dương hất rị tri
332. Nan đà kê sa ra
333. Dà noa bác đế
334. Sách hê dạ
335. Hất rị đởm
336. Tỳ đà dạ xà
337. Sân đà dạ di
338. Kê ra dạ di
339. Na yết na xá ra bà noa
340. Hất rị đởm
341. Tỳ đà dạ xà
342. Sân đà dạ di
343. Kê ra dạ di
344. A-la-hán
345. Hất rị đởm
346. Tỳ đà dạ xà
347. Sân đà dạ di
348. Kê ra dạ di
349. Tỳ đa ra dà
350. Hất rị đởm
351. Tỳ đà dạ xà
352. Sân đà dạ di
353. Kê ra dạ di
354. Bạt xà ra ba nể
355. Câu hê dạ câu hê dạ
356. Ca địa bát đế
357. Hất rị đởm
358. Tỳ đà dạ xà
359. Sân đà dạ di
360. Kê ra dạ di
361. Ra xoa vỏng
362. Bà dà phạm
363. ấn thố na mạ mạ tỏa
Ðệ Tứ
364. Bà dà phạm
365. Tát đác đa bát đác ra
366. Nam-mô tý đô đế
367. A tất đa na ra lặc ca
368. Ba ra bà
369. Tất phổ tra
370. Tỳ ca tát đác đa bát đế rị
371. Thập Phật ra thập Phật ra
372. Ðà ra đà ra
373. Tần đà ra tần đà ra
374. Sân đà sân đà
375. Hổ hồng hổ hồng.
376. Phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra.
377. Ta ha
378. Hê hê phấn
379. A mâu ca da phấn
380. A ba ra đề ha da phấn
381. Ba ra bà ra đà phấn
382. A tố ra
383. Tỳ đà ra
384. Ba ca phấn
385. Tát bà đề bệ tệ phấn
386. Tát bà na dà tệ phấn
387. Tát bà dược xoa tệ phấn
388. Tát bà kiền thát bà tệ phấn
389. Tát bà bổ đơn na tệ phấn
390. Ca tra bổ đơn na tệ phấn
391. Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn.
392. Tát bà đột sáp tỷ lê
393. Hất sắc đế tệ phấn
394. Tát bà thập bà lê tệ phấn
395. Tát bà a bá tất ma lê tệ phấn
396. Tát bà xá ra bà noa tệ phấn.
397. Tát bà địa đế kê tệ phấn
398. Tát bà đát ma đà kê tệ phấn
399. Tát bà tệ đà da
400. Ra thệ giá lê tệ phấn
401. Xà dạ yết ra
402. Ma độ yết ra
403. Tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn.
404. Tỳ địa dạ
405. Giá lê tệ phấn
406. Giả đô ra
407. Phược kỳ nể tệ phấn
408. Bạt xà ra
409. Câu ma rị;
410. Tỳ đà dạ
411. La thệ tệ phấn
412. Ma ha ba ra đinh dương
413. Xoa kỳ rị tệ phấn
414. Bạt xà ra thương yết ra dạ
415. Ba ra trượng kỳ ra xà da phấn
416. Ma ha ca ra dạ
417. Ma ha mạt đát rị ca noa
418. Nam-mô ta yết rị đa da phấn.
419. Tỷ sắc noa tỳ duệ phấn
420. Bột ra ha mâu ni duệ phấn
421. A kỳ ni duệ phấn
422. Ma ha yết rị duệ phấn
423. yết ra đàn tri duệ phấn
424. Miệc đát rị duệ phấn
425. Lao đát rị duệ phấn
426. Giá văn trà duệ phấn
427. Yết la ra đác rị duệ phấn.
428. Ca bát rị duệ phấn
429. A địa mục chất đa
430. Ca thi ma xá na
431. Bà tư nể duệ phấn
432. Diễn kiết chất
433. Tát đỏa bà tỏa
434. Mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
Ðệ Ngũ 435. Ðột sắc tra chất đa 436. A mạt đác rị chất đa 437. Ô xà ha ra 438. Dà ba ha ra 439. Lô địa ra ha ra 440. Ta bà ha ra 441. Ma xà ha ra 442. Xà đa ha ra 443. Thị tỉ đa ha ra 444. Bạt lược dạ ha ra 445. Kiền đà ha ra 446. Bố sữ ba ha ra 447. Phả ra ha ra 448. Bà tả ha ra 449. Bát ba chất đa 450. Ðột sắc tra chất đa. 451. Lao đà ra chất đa 452. Dược xoa yết ra ha 453. Ra sát ta yết ra ha 454. Bế lệ đa yết ra ha 455. Tỳ xá giá yết ra ha 456. Bộ đa yết ra ha 457. Cưu bàn trà yết ra ha 458. Tất kiền đà yết ra ha 459. Ô đát ma đà yết ra ha 460. Xa dạ yết ra ha 461. A bá tất ma ra yết ra ha. 462. Trạch khê cách 463. Trà kỳ ni yết ra ha 464. Rị Phật đế yết ra ha 465. Xà di ca yết ra ha 466. Xá câu ni yết ra ha 467. Lao đà ra 468. Nan địa ca yết ra ha 469. A lam bà yết ra ha 470. Kiền độ ba ni yết ra ha 471. Thập phạt ra 472. Yên ca hê ca 473. Trị đế dược ca 474. Ðát lệ đế dược ca 475. Giả đột thác ca 476. Ni đề thập phạt ra 477. Tỉ sam ma thập phạt ra 478. Bạt để ca 479. Tỷ để ca 480. Thất lệ sắc mật ca 481. Ta nể bát để ca 482. Tát bà thập phạt ra 483. Thất lô kiết đế 484. Mạt đà bệ đạt lô chế kiếm 485. A ỷ lô kiềm 486. Mục khê lô kiềm 487. Yết rị đột lô kiềm 488. Yết ra ha 489. Yết lam yết noa du lam 490. Ðản đa du lam 491. Hất rị dạ du lam 492. Mạt mạ du lam 493. Bạt rị thất bà du lam 494. Tỷ lật sắc tra du lam 495. Ô đà ra du lam 496. Yết tri du lam 497. Bạt tất đế du lam 498. Ô lô du lam 499. Thường dà du lam 500. Hắc tất đa du lam 501. Bạt đà du lam 502. Ta phòng án dà 503. Bát ra trượng dà du lam 504. Bộ đa tỷ đa trà 505. Trà kỳ ni 506. Thập bà ra 507. Ðà đột lô ca 508. Kiến đốt lô kiết tri 509. Bà lộ đa tỳ 510. Tát bát lô 511. Ha lăng già 512. Du sa đát ra 513. Ta na yết ra 514. Tỳ sa dụ ca 515. A kỳ ni 516. Ô đà ca 517. Mạt ra bệ ra 518. Kiến đa ra 519. A ca ra 520. Mật rị đốt 521. Ðát liểm bộ ca 522. Ðịa lật lặc tra 523. Tỷ rị sắc chất ca 524. Tát bà na câu ra 525. Tứ dẫn dà tệ 526. Yết ra rị dược xoa 527. Ðác ra sô 528. Mạt ra thị 529. Phệ đế sam 530. Ta bệ sam 531. Tất đát đa bát đác ra 532. Ma ha bạt xà lô 533. Sắc ni sam 534. Ma ha bát lặc trượng kỳ lam 535. Dạ ba đột đà 536. Xá dụ xà na 537. Biện đát lệ noa 538. Tỳ đà da 539. Bàn đàm ca lô di 540. Ðế thù 541. Bàn đàm ca lô di 542. Bát ra tỳ đà 543. Bàn đàm ca lô di 544. Ðát điệt tha Án A na lệ Tỳ xá đề bệ ra bạt xà ra đà rị Bàn đà bàn đà nể Bạt xà ra bán ni phấn Hổ Hồng đô lô ung phấn ta bà ha (3 lần) |
Nam Mô A Di đà Phật.
Nam-Mô-Lăng-Nghiêm Hội-Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)
Ý NGHĨA VÀ CÔNG DỤNG NHỮNG THẦN CHÚ:
( Sưu tập trong Nhị Khoá Hiệp Giải của Hoà Thượng Thích Khánh Anh và trong Bạch Y Thần Chú của Đường Sáng Ấn Quán số 712N. 9 th Strêt, San Jose, CA 95112 ấn hành ) .
Những người hành trì Kinh Đại Thừa Phật Giáo đều có tụng các Thần Chú trong các thời khoá nhằm mục đích mục tiêu tiêu trừ nghiệp chướng oan khiên, thêm được phước lành tăng trưởng. Ý nghĩa chữ Thần Chú như trước đã lý giải là lời nói bí hiểm của chư Phật ( Mật ngôn hay Phật ngôn ), lời nói đặc biệt quan trọng này chỉ có các đức Phật trong mười phương nghe biết mà nó không phải là thứ ngôn từ thường tình của các chúng sanh trong ba cõi sử dụng, cho nên vì thế những thứ ngôn từ này người phàm phu không thể nào hiểu rõ. Những ai muốn chư Phật, chư Bồ Tát trong mười phương gia hộ những khổ đau của cuộc sống chỉ cần hành trì Thần Chú được hướng dẫn sẽ được linh ứng theo sở cầu. Thần Chú của Mật Tông có nhiều loại và mỗi loại có hiệu quả riêng, nhưng các Thiền Gia trong các Thiền Môn chỉ chọn khoảng chừng 1 số ít Thần Chú để sử dụng tụng trong các buổi lễ như Cầu An, Cầu Siêu, Sám Hối, v.v … gồm có Thần Chú Lăng Nghiêm, Thần Chú Đại Bi và mười Thần Chú khác gọi là Thập Chú. Ý Nghĩa và hiệu quả các Thần Chú nói trên được lý giải như sau :
1)- Chú Lăng Nghiêm:
Công dụng của Thần Chú Lăng Nghiêm, theo Triết Lý Đạo Phật hay Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm trong Phật Học Phổ Thông Khoá VI và VII của Hoà Thượng Thích Thiện Hoa, trang 255 và 266 đức Phật nói : “ Nếu người nào nghiệp chướng nặng nề không hề trừ được, ông ( chỉ ông A Nan ) nên dạy họ chí tâm trì chú Lăng-nghiêm này thì các nghiệp chướng đều hủy hoại ” và đức Phật nói tiếp : “ Sau khi ta diệt độ các chúng sanh đời sau, nếu có người trì tụng chú này thì các tai nạn thương tâm : thủy tai, hoả hoạn, thuốc độc, độc trùng, ác thú, yêu tinh, quỉ quái, v.v … đều chẳng hại được ” .
Chúng ta muốn đạt thành những ý nguyện cho đời sống được an nhàn và thành quả trên con đường giác ngộ giải thoát thì phải chuyên cần hành trì xâm nhập Chú Lăng Nghiêm này để nhờ thần lực chuyển hoá hộ. Điều đó chính đức Phật đã nói trong Kinh Lăng Nghiêm : “ Ma Đăng Già là kẻ dâm nữ, không có tâm tu hành còn được thành quả Thánh, huống chi các ông là bậc Thanh văn, có chí cầu đạo vô thượng, lại trì tụng chú này, thì quyết định hành động thành Phật rất dễ, cũng như than gió tung bụi, chẳng có khó gì. ”
Công Ðức Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm
Anan, những câu nhiệm mầu, những bài kệ bí mật Phật đỉnh quang tụ Tát đát đa bát đát ra xuất sanh mười phương chư Phật. Mười phương Như Lai nhân chú tâm này, thành vô thượng chánh biến tri giác. Mười phương Như Lai nắm chú tâm này uốn dẹp các ma, chế phục ngoại đạo. Mười phương Như Lai vận chú tâm này ngồi hoa sen báu, ứng hiện vi trần cõi nước. Mười phương Như Lai ngậm chú tâm này nơi vi trần cõi chuyển đại pháp luân. Mười phương Như Lai giữ chú tâm này xoa đỉnh thọ ký cho các Bồ-tát. Tự mình quả vị chưa thành, nương chú tâm này sẽ được mười phương Phật thọ ký. Mười phương Như Lai nương chú tâm này cứu vớt các khổ địa ngục, ngã quỷ, bàng sanh, đui điếc ngọng câm, oán thù gặp gỡ, ân ái biệt ly, cầu bất đắc, năm ấm xí thịnh. Tai nạn lớn nhỏ đồng thời giải thoát. Nạn giặc, binh, vua, nước, gió, lửa, tù ngục cho đến đói khát bần cùng đều được tiêu tan. Mười phương Như Lai theo chú tâm này ở khắp mười phương phụng sự thiện tri thức, cúng dường như ý. Trong pháp hội hằng sa Như Lai, trì chú tâm này được suy tôn là đại Pháp-vương-tử. Mười phương Như Lai dùng chú tâm này nhiếp thọ thân nhân, khiến hàng tiểu thừa nghe tạng bí mật không sanh kinh sợ. Mười phương Như Lai truyền chú tâm này, sau khi diệt độ, phó chúc pháp sự được cứu cánh trụ trì, nghiêm tịnh giới luật ắt được thanh tịnh.
Nếu ta nói chú Phật đỉnh quang tụ Bát đát ra này từ sáng đến tối, âm thanh nối nhau, chữ câu không trùng điệp, trải qua kiếp số như cát sông Hằng cũng không cùng tận(29). Chú này cũng gọi là Như Lai Ðỉnh. Các ông còn hữu học cầu quả A-la-hán, không trì chú này quyết không tránh khỏi ma sự. Anan, viết chép chú này trên vỏ cây, lá bối, giấy trắng, lụa là, đựng trong túi thơm hoặc đeo trên mình, hoặc thờ trong nhà thì trọn đời tất cả các thứ độc không hại được, kiếp kiếp chẳng sanh vào những nơi bần cùng hạ tiện chẳng được vừa ý. Anan, ta tuyên lại chú này để cứu giúp thế gian thoát khổ sợ hãi, thành tựu trí tuệ xuất thế gian. Sau khi ta diệt độ, đời mạt pháp ai tụng hay dạy người tụng thì những thần chú ác của thiên long quỷ thần tinh kỳ ma mị đều vô can. Dù chưa được chánh thọ, tất cả trú trớ yểm cổ thuốc độc, kim độc, ngân độc và các độc khí vào miệng người ấy đều thành cam lồ. Tất cả ác tinh, ác quỷ thần, không thể khởi ác niệm. Dạ Ca và các ác độc quỷ vương, vì đã lãnh ơn sâu nên thường giữ gìn ủng hộ. Thần chú này có 84.000 na do tha hằng hà sa câu chi chủng tộc Kim Cương Tạng Vương Bồ-tát cùng quyến thuộc ngày đêm theo hầu. Trì chú này dù tâm tán loạn, các ngài vẫn không bỏ. Ðối với người Bồ-đề tâm quyết định thì các ngài chuyên thầm xúc tiến để khai sáng thần thức, khiến có thể nhớ lại 84.000 hằng hà sa kiếp. Ðời đời không sanh vào các loài ác độc.
Mười phương Như Lai có bao nhiêu công đức đều cho người trì chú. Hằng hà sa kiếp thường cùng chư Phật đồng sanh một chỗ. Vô lượng công đức nhóm lại như chùm ác-xoa. Vì đồng với Phật một chỗ huân tu, nên phá giới trở về thanh tịnh, chưa được giới khiến được giới, không trì trai giới tự thành trai giới, chưa tinh tấn khiến tinh tấn, không trí tuệ khiến có trí tuệ. Dù xưa kia đã phạm cấm giới, sau khi trì chú, bao tội nặng nhẹ nhất thời tiêu diệt. Uống rượu, ăn ngũ tân, các thứ không sạch, tất cả chư Phật, Bồ-tát, Kim Cương, thiên tiên, quỷ thần đều tha thứ. Tất cả hành vi cử động đều được coi như thanh tịnh. Y phục rách nát bẩn thỉu cũng không lỗi. Dù không lập đàn, không vào đạo tràng, không hành đạo mà trì chú này công đức vẫn viên mãn. Ngũ nghịch, vô gián, tứ khí, bát khí, một khi tụng chú này như gió mạnh thổi tan đống cát. Ðọc, tụng, chép thần chú, đeo trên thân, để nơi chỗ ở, tất cả tội chướng nặng nhẹ từ vô lượng kiếp đều tiêu tan như tuyết gặp nước sôi, chẳng bao lâu sẽ chứng vô sanh nhẫn.
Chí tâm nhớ niệm thần chú hoặc đeo trên mình thì cầu con liền được con trai, con gái phước đức trí tuệ. Cầu sống lâu được sống lâu, cầu quả báo mau viên mãn, mau được viên mãn. Về thân mệnh sắc lực cầu gì cũng được như ý. Mệnh chung tùy nguyện vãng sanh mười phương Tịnh-độ. Chắc chắn không lạc về biên địa hạ tiện, huống nữa là các tạp hình.
Này Anan, viết thần chú này để trên bốn cửa thành, các tháp hay trên nóc nhà ; khiến nhân dân kính rước chú này, lễ bái cung kính nhất tâm cúng dường ; khiến mỗi người đeo chú trong mình hoặc để nơi chỗ ở ; thì tất cả các nạn đói kém, bệnh dịch đao binh… tất cả các thứ tai ách thảy đều tiêu tan.
Này Anan, nơi nào có thần chú này, thiên long vui mừng, mưa gió thuận thời, ngũ cốc được mùa, dân chúng an vui, đêm ngày ngủ yên không ác mộng. Cõi Ta Bà có 84.000 ác tinh, 28 đại ác tinh làm thượng thủ, đứng chủ là 8 đại ác tinh, xuất hiện nhiều hình trạng, gây ra các tai nạn dị kỳ. Chỗ nào có thần chú này, nội trong 12 do tuần, không còn những tai biến hung dữ ấy.
Vậy nên Như Lai truyền dạy chú này để bảo vệ vị lai các hàng sơ học vào chánh định được thân tâm thư thái an ổn. Những oan khiên đời trước, nghiệp cũ nợ xưa không còn khuấy hại. Anan cùng hàng hữu học, những kẻ tu hành vị lai, y pháp lập đàn tràng, giới sư giới tử thanh tịnh, đối với chú tâm này không nghi hối, nếu chính nơi thân cha mẹ sanh ra không được tâm thông, thì mười phương Như Lai đều là vọng ngữ.
Kim Cương thiện thần phát nguyện bảo hộ :
Vô lượng trăm ngàn Kim Cương chắp tay đảnh lễ bạch rằng : Như lời Phật dạy, chúng con thành tâm bảo hộ những người tu đạo Bồ-đề.
Phạm Vương, Ðế Thích, Tứ Thiên Vương cũng đồng thời đảnh lễ bạch rằng : Chúng con hết lòng chí thành bảo hộ người tu học khiến một đời được như nguyện.
Vô lượng đại tướng Dược-xoa, các vua La-sát, Phú-đơn-na, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-già, quỷ vương, quỷ soái đồng chắp tay đảnh lễ bạch rằng : Chúng con thề nguyện hộ trì người tu khiến tâm Bồ-đề mau được viên mãn.
Vô lượng Nhật thiên tử, Nguyệt thiên tử, Thần gió, Thần mưa, Thần mây, Thần sấm sét, Thần điện chớp, cùng các Thần coi về năm tháng, các tinh sao và quyến thuộc v.v… đảnh lễ bạch rằng : Chúng con bảo hộ người tu hành ở trong đạo tràng được không sợ hãi.
Vô lượng Thần núi, Thần biển, tất cả linh kỳ đất đai muôn vật, thủy lục không hành, Phong thần vương và chư thiên vô-sắc giới đồng thời cúi đầu bạch rằng : Chúng con bảo hộ người tu hành không còn ma sự sớm thành Bồ-đề.
84.000 na do tha hằng hà sa câu chi Kim Cang Tạng Vương Bồ-tát đảnh lễ bạch rằng : Thế Tôn, chúng con thành đạo Bồ-đề đã lâu, không nhập Niết-bàn, thường theo chú này cứu giúp những bậc chân chánh tu Tam-ma-đề trong đời mạt pháp. Bạch Thế Tôn, những vị này dù ở trong đạo tràng kinh hành hay tán tâm đi trong làng xóm, quyến thuộc chúng con thường theo hộ vệ. Ma vương, Ðại Tự Tại Thiên, muốn dùng phương tiện khuấy phá, chúng con dùng chày báu đập nát đầu họ như vi trần. Các quỷ thần nhỏ phải ở xa bậc thiện lành ấy mười do tuần, trừ khi họ phát tâm ủng hộ.
2. CHÚ ĐẠI BI (đọc 5, 7 hay 21 lần)
Nam mô đại bi hội thượng Phật Bồ Tát. ( 3 lần )
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni :
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da .
Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nammô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nammô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá ( na ma bà tát đa * ) na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế lị dạ. Na ra cẩn trì. Địa lị sắt ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha .
Nammô hát ra đát na đá ra dạ da. Nammô a lị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, ta bà ha .
“ Án, tất điện đô. Mạn đa ra. Bạt đa da, ta bà ha. ”. ( 3 lần )
Nam mô Thập phương thường trú Tam bảo ( 3 lần )
Nam mô A-Di-Đà Phật ( tùy hỷ tụng niệm )
Chú Đại Bi:
Theo Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni lý giải : “ Hồi đời quá khứ vô lượng ức kiếp, có đức Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ sinh ra vì ngài Quán Thế Âm mà nói ra chú Đại Bi này. Lúc đó Ngài mới trụ bực Sơ Địa, sau khi nghe chú này rồi thì siêu chứng lên bậc Bát Địa liền, Ngài thấy hiệu nghiệm như vậy liền phát đại nguyện rằng : “ Nếu qua đời vị lai hoàn toàn có thể đem thần chú này ra làm quyền lợi cho chúng sanh thì cho thân Ngài sanh ra ngàn cái tai ngàn con mắt, ” v.v … Ngài nguyện vừa xong thì quả nhiên tay mắt đều vừa đủ tổng thể và lại được chư Phật Phóng quang soi đến thân Ngài, đồng thời soi khắp vô biên quốc tế. Khi ấy Ngài lại phát nguyện nữa rằng : “ Người nào nếu trì tụng chú này mỗi đêm 5 biến thì đặng tiêu hết những tội nặng sanh tử trong trăm ngàn vạn ức kiếp, đến lúc mạng chung thì có thập phương chư Phật hiện thân tiếp dẫn về cõi Tịnh Độ. Bằng như người nào trì tụng chú này mà sau còn đọa vào ba đường ác và chẳng đặng sanh về cõi Phật hay chẳng đặng những pháp Tam Muội, chẳng biện tài, sở cầu không toại chí, nếu có mấy sự ấy, thì chú này không được xưng là Đại Bi Tâm Đà La Ni ”. Chỉ trừ những người tâm không thiện, chí không thành và lòng hay nghi thì không thấy hiệu nghiệm được liền mà thôi .
Theo Nhị Khoá Hiệp Giải của Hoà Thượng Thích Khánh Anh, trang 74 lý giải : “ Thuở ấy, đức Quán Thế Âm rất kín nhiệm Phóng ra hào quang lớn chiếu cả mười phương các cõi nước đều rực rỡ tỏa nắng thành màu vàng ròng ; rồi chấp tay bạch Phật rằng : Tôi có thần chú …. Đại Bi tâm Đà La Ni, nay tôi muốn nói ra để cho các chúng sanh đều đặng an nhàn, vì nó có hiệu lực hiện hành : tiêu trừ bệnh hoạn, tuổi sống vĩnh viễn, giàu sang, thêm điều lành, dứt hết các tội, được toại tâm với sự mong cầu, nên được Phật hứa cho thuyết chú. ”
Đây là những sự linh ứng và diệu dụng của Thần Chú Đại Bi .
Lược Giải Chú Đại Bi
1. – Dẫn nhập :
Chú Đại Bi được phát xuất từ sự xác quyết do kim khẩu của Bồ tát Quán Thế Âm. Thường được gọi là Thần chú, Linh chú. Bởi vì ai tin và thành tâm hành trì thần chú nầy thì bản thân người ấy đã có đủ Đại bi tâm. Thần chú nầy do Bồ tát Quán Thế Âm nói ra và được chư Phật ấn chứng mà gần nhất là đức Thích Ca Như Lai Từ Phụ của tất cả chúng ta nghe và đức Thích Ca cũng ấn chứng .
Thần chú nầy có rất nhiều tên khác nhau như :
Quảng đại Viên mãn, Vô ngại Đại bi, Cứu khổ Đà la ni, Diên thọ Đà la ni, Mãn nguyện Đà la ni, Diệt ác thú Đà la ni, Phá ác nghiệp chướng Đà la ni, Tối siêu thượng Đà la ni, ..
Những thương hiệu trên đây, đức Phật đã trực tiếp hướng dẫn cho ngài A Nan và Đại chúng biết. Nguyên Thần chú nầy tên rất dài : “ Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ tát Quảng đại Viên mãn Vô ngại Đại bi tâm Đà la ni thần chú ”. Bài chú gồm có 84 câu .
Đức Phật đã từng nói với Bồ tát Quán Thế Âm :
– “ Hởi thiện nam tử, ngươi nên bền lòng trì tụng Thần chú nầy, sẽ có tính năng lớn trong việc tế độ chúng sanh trong những ác nghiệp của các kiếp sau …. ”
Căn cứ vào sự ghi chép trong tầm cỡ, lúc ấy Bồ tát Quán Thế Âm sau khi nghe đức Phật hướng dẫn, Ngài liền phát nguyện trì tụng liên tục từ cảnh giới Sơ địa đến Bát địa và thẳng lên Bất động địa. Cũng từ đó, ngài phát đại nguyện : Cầu cho kiếp sau của ngài phổ độ cho hết thảy chúng sanh đều được vui thích và mong cho ngài được ngàn cánh tay, ngàn con mắt .
Sau khi phát nguyện xong, phút chốc, body toàn thân ngài đã rất đầy đủ cả ngàn tay, ngàn mắt ; tổng thể mười phương đều chấn động và mưa hoa cúng dường. Chư Phật cũng phóng hào quang rực rỡ tỏa nắng, soi khắp đó đây. Từ đó, Thần chú nầy mới có nhiều thương hiệu như vậy .
Đức Phật bảo ngài An Nan rằng :
Kết quả có được của Bồ tát Quán Thế Âm là do sự phát đại thệ nguyện vì chúng sanh .
Những ai phát nguyện nhất tâm trì tụng thì sẽ được tiêu trừ tội chướng trong đời nầy và kiếp vị lai. Trong tích tắc lâm chung, nếu mình tự niệm hoặc được thiện tín thành tâm hộ niệm thì sẽ được vãng sanh hoặc đến quốc độ mà mình muốn đến. Có đức Phật A Di Đà và chư vị Bồ tát thùy từ tiếp dẫn .
Những ai trong đời nầy, nhất tâm trì tụng Đại bi tâm chú thì sẽ được toại nguyện về 15 loại thiện sanh và trừ được 15 loại ác tử .
a. Mười lăm loại thiện sanh :
1. Nơi được sanh ra thường gặp năm điều lành .
2. Thường được sanh ở nước lành ( thiện quốc ) .
3. Thường gặp thời hay, vận tốt .
4. Thường gặp được thầy sáng, bạn lành .
5. Thân các căn đều toàn vẹn, vừa đủ ( lục căn hoàn cụ )
6. Đạo tâm luôn được thuần hậu, chơn chánh .
7. Không phạm cấm giới .
8. Tình anh em cốt nhục đều được thuận hòa, an nhàn .
9. Trọn đời cơm áo không thiếu, nhàn nhã .
10. Luôn luôn được mọi người kính mến, thương giúp .
11. Tài sản, của cải không khi nào bị cướp đoạt .
12. Cầu gì đều được toại ý. ( Sở cầu như mong muốn )
13. Luôn được thiện thần, hộ pháp bảo vệ .
14. Nơi được sinh ra thường được nghe Phật thuyết pháp .
15. Khi nghe được Chánh pháp là hiểu ngay được thâm ý mà trực ngộ lời Phật dạy .
b. Mười lăm loại về ác tử :
1. Không bị chết khốn khổ về đói khát, loạn lạc .
2. Không bị chết vì giam giữ, đánh đập .
3. Không bị chết vì thù oán .
4. Không bị chết nơi trận địa .
5. Không bị chết vì thú dữ cắn xé .
6. Không bị chết vì rắn, rết cắn .
7. Không bị chết cháy hay chết đuối .
8. Không bị trúng độc khi ẩm thực ăn uống mà chết .
9. Không bị các loại trùng độc sát hại .
10. Không bị điên cuồng hay tuyệt vọng mà chết .
11. Không bị cây cối rơi trúng hoặc sa xuống hoành tráng mà chết .
12. Không bị người khác trấn ếm, trù ẻo mà chết .
13. Không bị tà thần, hung quỷ làm hại để chết .
14. Không bị chết vì ác bệnh .
15. Không bị chết oan ( tự tử, bất đắc kỳ tử, … ) .
Vì những điều nêu trên, Chú Đại Bi hoàn toàn có thể trừ được tổng thể những tai nạn thương tâm, những khổ nạn và thành tựu được những toại nguyện. Những ai chí thành trì niệm thì được những điều quyền lợi như trên và sẽ được xa lánh mọi ưu bi, khổ não cho chính mình và hoàn toàn có thể tương hỗ được tha nhân như Đại bi tâm của Bồ tát Quán Thế Âm .
2. – Giải thích :
Nammô : tức là Quy y, nương về, nương theo ,
Hát ra đát na đá ra dạ da : tức là Tam bảo ( Phật, Pháp Tăng ) ,
Nammô : tức là Quy mạng, cũng có nghĩa là Quy y ,
A lị da : tức là Thánh ,
Bà lô yết đế : tức là Quán ,
Thước bát ra da : tức Tự tại ,
Bồ đề tát đỏa bà da : tức là Giác hữu tình ,
Ma ha tát đỏa bà da : tức là Đại giác hữu tình ,
Ma ha ca lô ni ca da : tức là người có lòng đại bi. ( Đại bi tâm giả ) ,
Án : tức là Quy mạng ,
Tát bàn ra phạt duệ : tức là Nhất thế tôn ,
Số đát na đát tả : tức là Vị cứu hết thảy sự khủng bố ,
Nammô : tức là Quy mạng ,
Nammô tất cát ( hay kiết ) : tức là kẻ ở bên kia ( Ư bỉ ) ,
Y mông a lị da : tức là Thánh của tất cả chúng ta ( Ngã thánh ) ,
Bà lô cát đế, thất Phật ra lăng đà bà : tức là Quán tự tại Hương sơn ,
Nammô : tức là Quy mạng ,
Na ra cẩn trì : tức là Uy lực của Thánh Quán tự tại, tên là Thanh cảnh chí tâm chơn ngôn ,
Hê rị ma ha bàn đá sa mế : tức là Ta nay tuyên thuyết ,
Tát bà a tha đậu du bằng : tức là Vị có hết thảy mọi sự kỳ vọng viên mãn và có ánh sáng tỏa nắng rực rỡ ,
A thệ dựng : tức là Không gì hoàn toàn có thể so sánh được ,
Tát bà tát đá : tức là Hết thảy mọi quỷ thần không hề đánh thắng được .
( * ma bà tát đá ) na ma bà dà : tức là Đồng chơn ,
Ma phạt đặc đậu : tức là Người có đạo tâm đang ở trong cõi mê khiến sớm cho được thanh tịnh ,
Đát điệt tha : tức là Có nghĩa là ,
Án : tức là Quy mạng ,
A bà lô hê : tức là Bậc có trí tuệ sáng suốt ,
Lô ca đế : tức là Quán tự tại ,
Ca ra đế : tức là Đấng siêu việt trần gian ,
Di hê lị : tức là Vị sư tử vương ,
Ma ha bồ đề tát đỏa : tức là Đại Bồ tát ,
Tát bà tát bà : tức là Hết thảy hết thảy ,
Ma ra ma ra : tức là Ghi nhớ, ghi nhớ ,
Ma hê ma hê rị đà dựng : tức là Tâm chơn ngôn ,
Câu lô câu lô yết mông : tức là Làm sự nghiệp ,
Độ lô độ lô : tức là Bảo trì, bảo dưỡng ,
Phạt xà da đế : tức là Người đi dạo ở trên không ( Du không giả ) ,
Ma ha phạt xà da đế : tức là Người oai đức lớn ( Ma ha ) đi dạo ở trên không ( Đại du không giả ) ,
Đà ra đà ra : tức là Bảo trì, bảo dưỡng ,
Địa rị ni : tức là Kẻ trì tụng ,
Thất Phật ra da : tức là Vua Tự tại ( Đế vương tự tại ) ,
Dá ra dá ra : tức là hành vi ,
Mạ mạ phạt ma ra : tức là Không bị bụi bám vào ( Vô cấu nhiễm ) ,
Mục đế lệ : tức là Thể không nhơ nhớp ( Vô cấu thể ) ,
Y hê y hê : tức là Lời giáo dục, dạy dỗ ( Giáo ngữ ) ,
Thất na thất na : tức là Lời thề to lớn ( Đại thệ nguyện ) ,
A ra sâm : tức là vua ( Vương ) ,
Phật ra xá lị : tức là sự Giác ngộ vững chắc ( Giác bền vững và kiên cố tử ) ,
Phạt sa phạt sâm : tức là Hoan hỷ, vui tươi ,
Phật ra xá da : tức là Trừ mọi ô nhiễm do tham sân si gây nên ,
Hô lô hô lô ma ra : tức là Làm phép không bị nhiễm ô ( tác pháp vô cấu
nhiễm ) ,
Hô lô hô lô hê rị : tức là mau chóng, mau chóng, tóc đã bạc rồi .
Ta ra ta ra : tức là Kiên cố vậy (kiên cố giả),
Tất rị tất rị : tức là Hoa sen ,
Tô rô tô rô : tức là Cọng hoa sen ,
Bồ đề dạ bồ đề dạ : tức là tỉnh ngộ, tỉnh ngộ ,
Bồ đà dạ bồ đà dạ : tức là Dạy cho được Giác ngộ ,
Di đế rị dạ : tức là Người có lòng từ bi ,
Na ra cẩn trì : tức là Thanh cảnh, xinh đẹp ,
Địa lị săt ni na : tức là Bền chắc và mưu trí ,
Ba dạ ma na : tức là Nghe tên ( danh văn ) ,
Ta bà ha : tức là Lòng mong mỏi được gặp thì sẽ được hiển hiện, sanh lòng hoan hỷ, viên mãn tới niết bàn ,
Tất đà dạ : tức là Nghĩa ,
Ta bà ha : tức là Bậc đã được thành tựu ,
Ma ha tất đà dạ : tức là Bậc đại nghĩa ,
Ta bà ha : tức là bậc đã được thành tựu lớn lao, đại thành tựu ,
Tất đà du nghệ : tức là Vô vi ,
Thất bàn ra dạ : tức là Bậc Đại tự tại ,
Ta bà ha : Bậc Tự tại bởi Tất địa và Du già ,
Na ra cẩn trì : tức là Hiền ái ,
Ta bà ha : tức là Vì thanh cảnh viên mãn nên được thành tựu ,
Ma ra na ra : tức là Như ý tối tôn ,
Ta bà ha : tức là được Thành tựu ,
Tất ra tăng a mục khư da : tức là Nghĩa thứ nhất của tiếng yêu thương ( ái ngữ đệ nhất nghĩa ) ,
Ta bà ha : tức làTaycầm hoa sen ,
Ta bà ma ha : tức là Đại thành tựu ,
A tất đà dạ : tức là Không có gì so sánh được ( Vô tỷ ) ,
Ta bà ha : tức là Thành tựu ,
Giả cát ra a tất đà dạ : tức là Không có gì để so sánh được ,
Ta bà ha : tức là Thành tựu ,
Ba đà ma yết tất đà dạ : tức là Đại nghĩa ,
Ta bà ha : Đấng được khai ngộ vì nghe được tiếng pháp loa ,
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ : tức là Bậc hiền thủ thánh tôn ,
Ta bà ha : tức là Thành tựu ,
Ma bà lợi thắng yết ra dạ : tức là Anh hùng uy đức sanh tánh ,
Ta bà ha : tức là Thành tựu, đại thành tựu ( sự chinh phục toàn bộ ma chướng ) .
Nammô hát ra đát na đá ra dạ da : tức là Quy mạng Tam bảo ( Phật Pháp Tăng ) ,
Nammô : tức là Quy mạng, quy y ,
A lị da : tức là Thánh ,
Bà lô cát đế : tức là Quán ,
Thước bàn ra dạ : tức là Tự tại ,
Ta bà ha : tức là Thành tựu ,
Án : tức là Quy mạng, quy y ,
Tất điện đô : tức là Khiến cho tôi sớm được thành tựu ,
Mạn đà ra : tức là Chơn ngôn ,
Bạt đà da : tức là Đều ( Câu hay cu ) ,
Ta bà ha : Thành tựu, sớm thành tựu .
3. – Đại ý của bài Thần chú :
Con kính cẩn cúi đầu trước ngôi Tam bảo Phật Pháp Tăng. Nguyện xin quy y theo đức Thánh Quan Tự Tại. Con nguyện đem thân mạng mà quy y với đức đại Bồ tát có lòng đại từ đại bi, mà cầu xin sớm được thành tựu sự giác ngộ để cứu độ cho hết thảy chúng sanh do mê muội đang bị khủng bố trên trần gian nầy. Do đó, con đem cả thân mạng mà quy y với đức Đại Bồ Tát có lòng đại từ bi. Một lòng thề nguyện truyền bá thoáng rộng lòng từ bi của đức Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát ; lắng nghe tâm chơn ngôn ( tổng trì pháp môn tâm chơn ngôn và Phật nội chứng ), vâng theo mệnh của bổn tôn là Đại bi tâm đà la ni nầy mà hết lòng xưng tụng công đức Quán Tự Tại Bồ Tát, tổng thể mọi kỳ vọng đều được viên mãn, làm sáng tỏ đặc thù đồng thể đại bi thanh tịnh viên minh và làm cho tổng thể quỷ thần đều không hề đánh thắng được uy lực to lớn của Ngài. Với những kẻ có đạo tâm, không khi nào bị vô minh phiền não mê hoặc, không khi nào bị đắm chìm trong cảnh mê muội, u tối và được dẫn dắt tới quốc tế quang minh của đức Đại Bồ Tát. Trí tuệ quang minh được biểu lộ siêu tuyệt nhất trần gian là đức Bồ Tát có công đức vô cùng vĩ đại. Có đấng quy mạng giống như đức Tự Tại Sư Tử Vương Đại Bồ Tát. Ức niệm nói chung của bản thể tâm chơn ngôn của Bồ tát cũng giống như đi ở trên không trung để thuyết giảng chánh pháp một cách lớn lao và tự tại, hoặc là làm việc làm tư duy về một việc làm to rộng. Cũng như các bậc vua chúa, bất kể việc gì, đều được đức Bồ tát làm một cách tự do, tự tại. Được hành vi bởi một thân thể thanh tịnh, không mảy may dơ bẩn, hoặc để trừ mọi hành vi dơ bẩn của ba cái ô nhiễm là tham, sân và si ; cũng như diệt trừ mọi ác ma ô nhiễm ở trên trần gian nầy. Như thế sẽ nhanh gọn có mái tóc đẹp như hoa sen thanh tịnh và cầm lấy được hoa sen của đức Bồ tát. Giáo hóa được nghiệp ngu si của ta và chứng ngộ được lòng yêu thương vô bờ bến. Khiến được sanh lòng hoan hỷ của Bồ tát Quán Tự tại .
Muốn được tới cõi niết bàn ( thành tựu viên mãn ) sẽ được thấy cõi niết bàn, và cũng tới được cảnh giới Tất địa ( nơi ngộ đạo ) với Du già ( tương ứng hiệp nhập ) thì được tự do, vô ngại. Trong đó, cũng có kẻ không phải là loài người ( mặt heo cổ xanh, có kẻ mặt sư tử ), con nào từ bi thì bộc lộ tay cầm hoa sen, để thâu nhiếp chánh pháp trừ ma quỷ phiền não. Nghe tiếng pháp loa vi diệu được chuyển mê khai ngộ, hết thảy đều quy y Tam bảo .
Nammô Thánh Quan Tự Tại Bồ Tát, khiến cho được tới cõi niết bàn, để trì tụng lời chơn ngôn này ở nơi niết bàn thanh tịnh, trang nghiêm .
Trên đây là đại ý toàn bài Chú đại bi, mong quý vị đọc nhiều lần và thành tâm hành trì thì sẽ được như nguyện ; đồng thời, một khi đã được thâm hiểu, xin quý vị hướng dẫn bè bạn cùng tu tập theo, để gieo duyên với cảnh giới Thường Tịch Quang Tịnh Độ .
NGHE BÀI Ý NGHĨA CHUẨN ĐỀ OAI LINH CÂU THẦN CHÚ – THẦY THÍCH TRÍ HUỆ
[audio [ audio http://www.fileden.com/files/2011/11/15/3225755/Y%20Nghi%20Chuan%20De%20-%20Oai%20Linh%20Cau%20Than%20Chu_Thich%20Tri%20Hue.mp3
3. Chú Như Ý Bảo Luân Vương Đà La Ni:
Theo Như Ý Tâm Đà La Ni : Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại vì muốn cho chúng sanh tùy ý sở cầu cái gì cũng được như nguyện nên Ngài bạch với Phật xin để Ngài thuyết chú này. Những người trì tụng mà rõ được nghĩa thâm mật của chú này thì cái thắng lợi ấy cũng thí như cây như mong muốn sanh ra những ngọc bảo châu suôn sẻ, tuỳ nguyện muốn cầu việc gì cũng được .
Lúc Bồ Tát thuyết chú này rồi, sáu chưởng chấn động, hoàng cung của Ma Vương đều nổi lửa cháy sợ hãi không cùng, các loài gian ác chúng sanh đều lăn nhào té ngã, còn những kẻ thọ khổ trong âm ti và ngạ quỷ thì đều đặng sanh về cõi Trời .
Người nào nhứt tâm trì tụng chú này thì các thứ tai nạn thương tâm đều được tiêu trừ mà đến lúc lâm chung lại được thấy đức Phật A Di Đà và Ngài Quán Thế Âm tiếp dẫn về cõi Tịnh Độ .
Như Ý Bảo Luân Vương Ðà La Ni
Nam Mô Phật Ðà Da. Nam Mô Ðạt Ma Da. Nam Mô Tăng Dà Da.
Nam Mô Quán Tự Tại Bồ Tát ma ha tát, cụ đại bi tâm giả. Ðát diệt tha.
Án chước yết ra phạt để, chấn đa mạc ni, ma ha bát đẳng mế, rô rô rô rô, để sắc tra thước ra a yết rị, sa dạ hồng phấn ta ha.
Án, bát đạp ma chấn đa mạt ni, thước ra hồng. Án bát lặc; đà bát đẳng mế hồng.
Sự Linh Ứng Của Chú Như Ý Bảo Luân Vương Đại
Chú này trích trong kinh “Như ý tâm đà la ni”. Vì Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát muốn làm cho chúng sanh tùy ý sở cầu cái gì cũng được như nguyện, nên Ngài bạch với Phật xin để Ngài thuyết chú này. Những người trì tụng mà rõ được nghĩa thâm mật của chú này thì cái thắng lợi ấy cũng thí như cây như ý mà sanh ra những ngọc bảo châu như ý, tùy nguyện muốn cầu việc gì cũng được .
Lúc Bồ Tát thuyết chú này rồi, sáu chưởng chấn động, cung điện Ma vương đều nổi lửa cháy, sợ hãi khôn cùng, các loài độc ác chúng sanh đều lăn nhào té ngã, còn những kẻ thọ khổ trong đường địa ngục và ngạ quỷ thì đều đặng sanh về cõi trời.
Người nào nhất tâm trì tụng chú này, thì các thứ tai nạn đều được tiêu diệt mà đến lúc lâm chung lại được thấy đức Phật A Di Ðà và ngài Quán Thế Âm tiếp dẫn về cõi Tịnh Ðộ
4)- Thần Chú Tiêu Tai Cát Tường:
Tiêu Tai Cát Tường Thần Chú
Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. A bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Ðát diệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ ha .
= ==> Theo Kinh Tiêu tai Cát Tường : Khi Phật ở tại từng trời Tịnh Cư nói với các thiên chúng cùng các vị quản trị 28 ngôi sao 5 cánh và 12 cung thần rằng : “ Có chú Xí Thạnh Quảng Đại Oai Đức Đà La Ni ” của Phật Ta La Vương đã nói hồi trước. Ta nay thuyết ra đây là pháp để trừ những tai nạn thương tâm. Nếu trong Đế đô quốc giới có các vị đặc trách sao yêu tinh đến làm những điều chướng nạn, hay những vị đặc trách sao quan hệ bổn mạng của trái đất có gì bất tường phải lập đạo tràng, rồi khắc ký mà niệm chú này 108 biến thì tai chướng tức thời trừ diệt hết. ”
5)- Thần Chú Công Đức Bảo Sơn:
“ Nam Mô Phật Ðà Da
Nam Mô Ðạt Ma Da.
Nam Mô Tăng Dà Da.
Án, tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha ” .
= ==> Theo Viên Nhơn Vãng Sanh có dẫn chứng Kinh Đại Tập nói rằng : “ Nếu người tụng chú này một biến thì công đức cũng như lễ Kinh Đại Phật Danh bốn vạn năm ngàn bốn trăm biến ( 45.400 ), còn như phạm tội nặng đang đọa vào âm ti A Tì mà nhứt tâm trì tụng chú này thì trong lúc mạng chung chắc đặng sanh về bậc Thượng Phẩm Thượng Sanh bên cõi Tịnh Độ mà đặng thấy Phật A Di Đà. ”
Sự Linh Ứng Của Công Đức Sơn Vương Thần Chú
Tập Viên Nhơn vãng sanh” có dẫn trong kinh Ðại Tập nói rằng: “Nếu người tụng chú này một biến, thì cái công đức cũng như lễ kinh Ðại Phật Danh bốn vạn năm ngàn bốn trăm biến (45.400), còn như phạm tội nặng đáng đọa vào địa ngục A tì, mà nhất tâm trì tụng chú này, thì trong lúc mạng chung chắc đặng sanh về bực thượng phẩm thượng sanh bên cõi Tịnh độ mà đặng thấy Phật A Di Ðà .
Câu nói trên đây, đã được ở các bộ Ðại Tập trong đại tạng mà chưa thấy, hoặc giả có kinh Ðại Tập nào khác nữa mà chưa nhập tạng chăng.
6)- Thần Chú Phật Mẫu Chuẩn Đề:
” Khể Thủ quy y Tô tất đế, đầu diện đảnh lễ thất cu chi. Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề, duy nguyện từ bi thùy gia hộ.
Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đề, cu chi nẩm đát điệt tha. Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề, ta bà ha”.
= ==> Câu chú này trích trong Kinh Chuẩn Đề. Bốn câu kệ đầu là : “ Khể thủ quy y Tô tất Đế, ” v.v … cho đến “ Duy nguyện từ bi thùy gia hộ ” là của Ngài Long Thọ Bồ Tát. Trong bốn câu kệ :
* Câu đầu là nói về Pháp Bảo ; câu hai là nói về Phật Bảo ; câu thứ ba là nói về Tăng Bảo ; câu thứ tư là nói mình xin nhờ ơn sự gia hộ của Tam Bảo .
* ) Khể thủ quy y Tô Tất Đế : nghĩa là cúi đầu quy kính Pháp Viên Thành ( pháp nhiệm mầu ). Chữ Tô Tất Đế : nguyên tiếng Phạn là Susidhi, Tàu dịch là Diệu Thành Tựu, nghĩa là một pháp có năng lượng thành tựu được hết thảy sự lý và thành tựu đặng hết thảy tâm nguyện của chúng sanh rất mầu nhiệm .
* ) Đầu diện đảnh lễ Thất Cu Chi ( cu đê ) : nghĩa là thành tâm đảnh lễ bảy trăm ức Phật. Chữ “ Cu Chi ” hay là “ Cu Đê ”, nguyên tiếng Phạn là “ Koti ”, Tàu dịch là bách ức, nghĩa là trăm ức ; cho nên vì thế trên đây nói ” thất cu chi ” tức là số bảy trăm ức vậy .
* ) Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề : nghĩa là tôi nay xưng tán đức Đại Chuẩn Đề. Chữ “ Chuẩn Đề ”, nguyên tiếng Phạn là “ Candi ”, Tàu dịch có hai nghĩa : 1 ) Thi Vi, 2 ) Thành Tựu .
Thi Vi : nghĩa là lời nguyện to lớn đúng nơi lý và dùng đại trí để dứt vọng hoặc, vì đủ các nhơn hạnh để ra thao tác lợi tha cho chúng sanh, nên gọi là Thi Vi .
Thành Tựu : nghĩa là từ nơi pháp không mà hiện ra pháp giả rồi thành tựu đặng pháp tịch diệt .
Sở dĩ Chú này xưng là “ Phật Mẫu Chuẩn Đề ” là nói : Pháp là thầy và thiệt trí, là mẹ của chư Phật, do đó bảy trăm ức Phật đều dùng pháp “ Chuẩn Đề Tam Muội ” mà chứng đạo Bồ Đề .
Trong kinh Chuẩn Đề nói rằng : Khi Phật ở vườn Kỳ Đà vì có tứ chúng bát bộ đông đủ, Ngài nghĩ thương những chúng sanh đời mạt pháp sau này, tội dày phước mỏng dính, nên mới nhập “ Chuẩn Đề Định ” mà thuyết thần chú như vầy :
Nam Mô Tát Đa Nẩm, Tam Miệu Tam Bồ Đề, Cu Chi Nẩm, Đát Điệt Tha, Án, Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, Ta bà Ha.
Phật nói : Nếu trì chú này mãn chín mươi vạn ( 900.000 ) biến thì diệt trừ được các tội thập ác, ngũ nghịch và tứ trọng ; cho đến nhà thế tục chẳng luận tịnh hay uế, chỉ cần chí tâm trì tụng, liền được tiêu trừ tai nạn đáng tiếc bệnh hoạn, tăng trưởng phước thọ. Khi tụng mãn 49 ngày, Bồ Tát Chuẩn Đề khiến hai vị Thánh thường theo người ấy hộ trì .
Nếu có người hoặc cầu mở trí tuệ, hoặc cầu chống tai nạn thương tâm, hoặc cầu pháp thần thông, hoặc cầu đạo Chánh Giác, chỉ y theo pháp thiết lập đàn tràng, tụng đủ một trăm vạn ( một triệu ) biến thì đặng đi khắp mười phương Tịnh Độ, phụng thờ chư Phật, nghe cả diệu pháp mà được chứng quả Bồ Đề .
7)- Thần Chú Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Đà La Ni:
“ Án, nại ma ba cát ngỏa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nể, thiệt chấp đạp, điệp tá ra tể dã, đát tháp cả đạt dã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt dã, đát nể dã tháp .
Án, tát rị ba, tang tu cát rị, bót rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại, tang mã ngột cả đế, ta ba ngỏa, tỷ thuật đế, mã hắt nại dã, bát rị ngỏa rị tá hắt”.
= ==> Chú này trích trong Kinh Đại Thừa Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Như Lai Đà La Ni. Kinh ấy nói : “ Đức Thích Ca Thế Tôn nghĩ thương chúng sanh đoản mạng trong đời vị lai, muốn cho thêm được thọ số, hưởng được niềm hạnh phúc, nên Phật nói với Đại Trí Huệ Diệu Cát Tường Bồ Tát rằng : những nhơn loại ở trong cõi Diêm Phù Đề này thọ mạng chỉ đặng trăm tuổi, mà ở trong số đó lại có phần đông người tạo lắm điều ác nghiệp nên bị tổn đức giảm kỷ thác yểu chết non. Nếu như nhơn loại thấy đặng chú này, hoặc biên chép, hoặc ấn tống, hoặc thọ trì đọc tụng thì lại tăng thọ mạng sống ngoài trăm tuổi và qua đời sau mau chứng quả Bồ Đề. ”
8)- Thần Chú Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn:
DƯỢC SƯ QUÁN ĐẲNG CHƠN NGÔN (7, 21 hoặc 108 biến)
” Nam mô Bạc già phạt đế, bệ sát xã ,
lũ lô thích lưu ly, bác lặc bà, hắc ra xà dã .
Đát tha yết đa tha, a ra hắc đế .
Tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha .
Án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế toá ha .
Nam-mô Dược Sư hội thượng Phật Bồ-tát ” .
= ==> Thần chú này được trích ra từ nơi Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức. Theo như trong kinh, đức Thích Ca Như Lai nói nếu có chứng bệnh gì mà cứ nhứt tâm trì chú này trong nước tịnh thủy đủ 108 biến rồi uống vào thì các bệnh đều lành liền .
Còn như những người mà trọn đời thọ trì chú này thì đặng khỏi bệnh tật và được sống lâu, đến lúc mạng chung lại được sanh về cõi Tịnh Lưu Ly. Nhưng phải biết rằng : chú này được gọi là “ Quán Đảnh ” là nói chú này do nơi đảnh quang của Phật mà thuyết ra. Người nào nếu thọ trì đọc tụng chú này mà đặng thanh tịnh ba nghiệp ( thân, miệng, ý ) thì hào quang Phật chiếu ngay đến nơi đảnh môn của người trì tụng ấy một cách thoáng mát như rưới nước cam lồ vậy .
Nên biết ánh quang của Phật khác hơn ánh quang của ma, nguyên vì ánh quang của ma thì chói loà khiến cho người ta sợ hãi, còn ánh quang của Phật thì thoáng mát và làm cho ta vui mừng. Vậy ai là người thọ trì chú này hoặc niệm Phật cần phải phân biệt rõ hai cái ánh quang nói trên. Chớ đừng thấy ánh quang của ma lậo lòe trước mắt như ngoại đạo nhìn nến, như kẻ nhìn nhang kia mà nhận lầm cho là thấy tánh .
9)- Thần Chú Quán Âm Linh Cảm Chơn Ngôn:
Án, ma ni bát di hồng, ma hắt nghê nha nạp, tích đô đặt ba đạt, tích đặt ta nạp, vi đạt rị cát, tát nhi cáng nhi tháp, bốc rị tất tháp cát nạp, bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu thất ban nạp, nại ma lô kiết, thuyết ra da, tá ha .
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát.
= ==> Đức Quán Thế Âm có lòng Đại Bi rất tha thiết, bi nguyện của Bồ Tát rất thâm sâu, công đức độ sanh của Bồ Tát lan rộng khắp mười phương. Người nào thành tâm trì tụng chú này thì liền được lòng Đại Bi của Bồ Tát chắc như đinh ủng hộ .
10)- Thần Chú Thất Phật Diệt Tội Chơn Ngôn:
“ Ly bà lỳ bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nể đế, ma ha dà đế, chơn lăng càng đế, ta bà ha. Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Thế Nhứt Thiết Phật ” .
= ==> Chú này được trích ra từ trong kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni. Kinh này nói : “ Ngài Văn Thù Sư Lợi nghĩ thương về sau đến đời mạt pháp các chúng Tỳ Kheo có phạm tội Tứ Trọng và các chúng Tỳ Kheo Ni có phạm tội Bát Trọng thì làm thế nào mà sám hối đặng, nên mới cầu Phật chỉ rõ giải pháp. Lúc ấy Đức Thích Ca Như Lai mới thuyết ra chú này ; vì chú này là chú của bảy vị Phật đời trước thường nói, rất có oai lực làm diệt hết các tội Tứ Trọng, Ngũ Nghịch mà đặng phước vô lượng .
Tứ Trọng, Ngũ Nghịch là tội rất nặng, nếu không phải cách sám hối vô sanh thì tưởng không thể nào hủy hoại cho đặng. Nhưng vì thần chú này là bảy vị Phật đời trước xứng tánh thuyết ra, do đó những người trì tụng niệm niệm cũng phải xứng tánh để đặng lý vô sanh thì tổng thể tội chướng thảy đều hủy hoại, cũng như nước sôi đổ vào tuyết thì tuyết liền bị tan biến ngay lập tức .
11)- Thần Chú Vãng Sanh Tịnh Độ: (21 lần)
Vãng sanh quyết định chơn ngôn
Bạt nhứt thiết nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ Đà ra ni
Nam mô A Di Đa bà đạ
Đa tha dà đa dạ
Đa điệt dạ tha
A Di rị đô bà tỳ
A Di rị đa tất đam bà tỳ
A Di rịa đa tỳ ca lan đế
A Di rị đa tỳ ca lan đa
Dà di nị, dà dà na
Chỉ đa ca lệ ta bà ha
Câu cuối có niệm:
Nam mô A Di đà Phật
= ==> Thần chú này được trích từ trong kinh Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni. Thần chú này có hiệu quả diệt được các trọng tội như : tội Tứ Trọng, Ngũ Nghịch, Thập Ác, Hủy Bán Chánh Pháp. Người nào nếu y pháp mà chí tâm trì tụng chú này thì Đức Phật A Di Đà thường trụ ở nơi đảnh đầu người ấy luôn cả ngày đêm mà ủng hộ, không cho oan gia thừa tiện nhiễu hại, trong lúc hiện thế đặng an ổn và đến khi mạng chung được vãng sanh Tịnh Độ .
Cách thức hành trì, Trước khi trì tụng chú này, hành giả phải rửa mình, súc miệng cho thật sạch, ngày đêm sáu thời, thắp hương lễ Phật, quì gối trước bàn thờ cúng, chấp tay cung kính trì tụng mỗi thời tối thiểu 21 biến thì được linh ứng và hoặc trì tụng đươc ba vạn ( 300.000 ) biến thì được thấy đặng Phật A Di Đà thọ ký .
12)- Thần Chú Thiện Nữ Thiên:
Thiên Nữ Thần Chú
“Nam Mô Phật Đà
Nam Mô Đạt Ma
Nam Mô Tăng Dà
Nam Mô thất lỵ, ma ha để tỷ da, đát nể dã tha, ba lỵ phú lầu na giá lỵ, tam mạn đà, đạt xá ni, ma ha tỳ ha ra dà đế, tam mạn đà, tỳ ni dà đế, ma ha ca rị dã, ba nể ba ra, ba nể tát rị phạ lặt tha, tam mạn đà, tu bác lê đế, phú lệ na, a rị na, đạt mạ đế, ma ha tỳ cổ tất đế, ma ha Di Lặc đế, lâu phã tăng kỳ đế, hê đế tỷ, tăng kỳ hê đế, tam mạn đà, a tha nậu đà la ni”.
= ==> Thần chú này được trích từ trong kinh Kim Quang Minh. Trong kinh Kim Quang Minh nói rằng : “ Nếu chúng sanh nghe nói chú này mà một lòng thọ trì đọc tụng hương hoa cúng dường thì nhứt thiết những thứ thọ dụng như vàng, bạc, châu báu, trâu dê, lúa thóc đều đặng khá đầy đủ hết thảy ” .
TỔNG KẾT:
Nên chú ý các Kinh Chú của Phật để lại trong Đại Tạng thì rất nhiều, phong phú theo mỗi vị Phật trình diễn mỗi cách qua kinh nghiệm tay nghề tu tập của mình. Các Thiền gia thời xưa qua kinh nghiệm tay nghề của họ rút ra trong Đại tạng một số ít Kinh Chú theo nhu yếu đại trà phổ thông chẳng những cho quần chúng mà cho cả người xuất gia trong thời mạt pháp nghiệp trọng phước khinh ma cường pháp nhược này. Những Kinh Chú mà các Thiền gia chọn ra để trì tụng là của những vị Phật, những vị Bồ Tát rất quan hệ với các chúng sanh nơi cõi Ta bà ngũ trược ác thế này. Còn các Kinh Chú khác của các vị Phật hay của các vị Bồ Tát khác chỉ quan hệ nhiều với các chúng sanh trong các cõi khác không có ngũ trược ác thế như cõi Ta Bà này. Những Kinh Chú mà các Thiền gia chọn ra để hành trì có những mục tiêu như sau :
1 ) – Những Kinh Tụng nêu trên ngoài sự Tu Huệ của hành giả và còn nhờ sự gia hộ của chư Phật, chư Bồ Tát quan hệ giúp hành giả sớm hoàn thành xong hạnh nguyện đạt đạo .
2 ) – Còn các Kinh khác nhằm mục đích tu tập gồm có Văn Huệ, Tư Huệ và Tu Huệ trong lãnh vực tự độ và tự giác mà không cần sự gia hộ của chư Phật, chư Bồ Tát quan hệ, được gọi là tự lực cánh sinh .
3 ) – Các Thần Chú nêu trên mà các Thiền gia lựa chọn được rút ra trong các Kinh Tạng của chư Phật chỉ dạy để các hành giả hành trì ngõ hầu đạt được ý nguyện mà không bị phân tâm, không bị loạn tưởng, không bị tẩu hoả nhập ma .
4 ) – Còn các Thần Chú khác 1 số ít không thấy trong các Kinh Phật mà chỉ thấy trong Mật Tông nếu như hành trì mà thiếu sự hướng dẫn chơn truyền qua sự kinh nghiệm tay nghề của những người đi trước thì sẽ bị nguy hại phân tâm, loạn tưởng, tẩu hoả nhập ma .
Các Thiền gia Nước Ta cũng chọn những Kinh những Chú đã được liệt kê ở trước ngoài những mục tiêu và ý nghĩa vừa trình diễn còn có mục tiêu khác là bộc lộ văn hoá Phật Giáo Nước Ta mà các Thiền gia Nước Ta đem sự đạt đạo kiến thiết xây dựng vương quốc. Nhìn theo Văn Hoá Phật Giáo Nước Ta, Nhị Thời Khoá Tụng mà các Thiền gia Nước Ta thường sử dụng trong khoá lễ hằng ngày dành cho các Thiền sinh hành trì, ngoài sự tu tập để chứng đắc và còn tiêu biểu vượt trội cho ba hệ phái Thiền đã từng góp phần thiết kế xây dựng vương quốc Nước Ta trên lãnh vực văn hoá trải dài hơn 2000 năm lịch sử vẻ vang. Điều đó được thấy như :
a ) – Thiền phái Vô Ngôn Thông, Thiền phái Trúc Lâm Tam Tổ đã từng góp phần kiến thiết xây dựng cho vương quốc Nước Ta trên lãnh vực thuần tuý thiền tập .
b ) – Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã từng góp phần thiết kế xây dựng cho vương quốc ViệtNamtrên lãnh vực Thiền Mật Tổng Hợp .
c ) – Thiền Phái Thảo Đường đã từng góp phần kiến thiết xây dựng vương quốc ViệtNamtrên lãnh vực Thi Ca và Nghệ Thuật .
d ) – Thiền phái Liễu Quán đã từng góp phần kiến thiết xây dựng vương quốc ViệtNamtrên lãnh vực Thiền Tịnh Song Tu .
Từ những ý nghĩa và giá trị này, tất cả chúng ta là người Nước Ta không nên xem thường Nhị Thời Khoá Tụng mà Thiền gia Nước Ta đã chọn và cũng chứng tỏ rằng các Thiền gia Nước Ta nhờ Nhị Thời Khoá Tụng này được chứng đắc, do đó mới để lại cho hậu thế hành trì .
LỜI NGUYỆN HỒI HƯỚNG
Nam mô A Di Đà Phật ( 10 lần )
Con tên … .. sinh năm …. ngụ tại … .. con xin đọc lời nguyện này hằng đêm, con cầu xin 10 phương chư Phật và chư vị Bồ Tát gia hộ cho con .
Con nguyện mãi mãi niệm câu “ A Di Đà Phật ” đến suốt đời cho đến ngày nhắm mắt .
Con nguyện mãi mãi tin thâm thúy vào Thế Giới Tây Phương Cực Lạc là có thật, không thối chuyển .
Xin Phật từ bi cho con biết ngày giờ ra đi vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Sau khi lâm chung cho con dứt hết mọi phiền não, tận mắt được thấy Phật A Di Đà và Thánh chúng đến tiếp dẫn liền được vãng sanh về quốc tế của Ngài .
Xin 10 phương chư Phật và Tam Bảo dẫn chứng và phù hộ cho con giữ vững niềm tin của mình mãi mãi .
Con nguyện cho toàn bộ chúng sanh đồng sanh Tây Phương, đồng thành Phật Đạo .
Con nguyện đem hết công đức niệm Phật ( và những việc làm phước cho mọi người thời điểm ngày hôm nay ) tổng thể đều hồi hướng trang nghiêm Phật tịnh độ .
Trên đền 4 ơn nặng, dưới cứu khổ 3 đường .
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát lòng Bồ Đề
Hết 1 báo thân này
Sinh qua cõi Cực Lạc
Con nguyện vãng sanh về miền Cực Lạc
Dứt hết liền ác nghiệp trần lao
Liên hoa 9 phẩm đặng vào
Trường xuân tự tại tiêu dao hưởng nhàn
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp toàn bộ
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
Nam mô A Di Đà Phật ( 10 lần )
Chia sẻ:
Thích bài này:
Thích
Đang tải …
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp