CÁC LOẠI BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN – Tài liệu text
trên một lãnh thổ nhất định. Thu thập số liệu để thành lập bản đồ địa tầng gồm nhiều
cách: thu thập số liệu thực địa, sử dụng ảnh máy bay, vệ tinh, sử dụng bản đồ địa hình tỷ
lệ lớn để nghiên cứu thực tế. Ví dụ: khi đi nghiên cứu để xây dựng bản đồ địa chất tỷ lệ
1:500.000 người ta chỉ tìm hiểu kết cấu địa chất qua các vết lộ tự nhiên hoặc nhân tạo kết
hợp với suy luận thông qua địa hình, vỏ phong hoá, đặc tính thổ nhưỡng, thành phần thực
vật … Khi nghiên cứu thành lập bản đồ tỷ lệ lớn hơn, người ta kết hợp với đào hố, khoan
và kết hợp với phương pháp địa vật lý.
–
Thành lập bản chú giải cho bản đồ địa chất căn cứ vào kí hiệu quy ước thống nhất được
thông qua tại hội nghị địa chất học tại Italia năm 1881. Nội dung bản đồ địa chất được
biểu hiện bằng phương pháp nền chất lượng, kí hiệu và màu sắc được qui dịnh như sau
(H5):
H5: Bản chú giải bản đồ địa chất
–
–
Bên cạnh dùng màu để chỉ kỷ người ta dùng con số để thể hiện thống. Ví dụ: thống
Devon giữa là D2. Người ta dùng kí hiệu chữ thường để chỉ các tổ. Ví dụ tầng Devon
giữa tổ Efeli là D2e.
Các ranh giới địa tầng được biểu hiện bằng một đường mảnh dẻ màu đen. Khi có sự gián
đoạn địa tầng (tầng trẻ tuổi nằm không khớp đều lên tầng có tuổi già hơn) người ta phải
thêm một đường chấm ở trên đường mảnh dẻ màu đen.. ranh giới của các đường đứt gãy
kiến tạo được biểu diễn bằng đường màu đỏ.
Thế nằm của đá được biểu hiện bằng kí hiệu sau: Thế nằm ngang (+), thẳng đứng (?),
nghiêng (⊥).
Bản đồ địa chất thường kèm theo một hay nhiều cột địa tầng và lát cắt địa chất.
o Cột địa tầng minh hoạ cho bản đồ địa chất về tính liên tục, độ dày, tuổi và thành
phần của các lớp đá được biểu hiện trên bản đồ. Cột địa tầng bao gồm 4 cột dọc.
Cột thứ nhất ghi tuổi của đá, cột thứ 2 có kí hiệu gạch ghi thành phần của đá, cột
thứ 3 ghi độ dày của các lớp đá tính bằng mét, cột 4 mô tả đặc tính của đá. Cột
địa tầng có tỷ lệ lớn hơn tỷ lệ bản đồ, nhưng nếu độ dày của các lớp đất đá chênh
lệch nhau quá nhiều thì cũng không nhất thiết cứ phải lệ thuộc vào tỷ lệ.
o Lát cắt địa chất được xây dựng trên cơ sở lát cắt địa hình. Sau khi vẽ trắc diện địa
hình, người ta dựa vào bản đồ địa chất mà vạch ranh giới của các lớp đá trên bề
mặt địa hình đó. Người ta tô màu, dùng kí hiệu chữ để biểu hiện tuổi của các lớp
đá đó. Lát cắt địa chất vạch ra một cách cụ thể sự liên tục của các lớp đá ở dưới
sâu, độ dày thực và thế nằm của các lớp đá đó
Bản đồ chuyên đề
15
Tran Thi Phung Ha, MSc
H6: Bản đồ địa chất
1.2 Bản đồ khí hậu
–
a. Đặc điểm
Hầu hết các bản đồ khí hậu được thành lập bằng phương pháp đường đẳng trị. Số liệu thu
thập được từ quá trình quan trắc trực tiếp hoặc được tính toán bổ sung từ số liệu đã thu
Bản đồ chuyên đề
16
Tran Thi Phung Ha, MSc
–
thập được.
Việc chọn lựa mức độ chênh lệch về trị số giữa 2 đường đẳng trị kề nhau cần phải quan
tâm. Việc chọn lựa này phụ thuộc vào: mật độ các trạm quan trắc, tình hình số liệu quan
trắc, đặc điểm của các chỉ số đo, đặc tính phân bố theo lãnh thổ của các chỉ số đó
v.v…Mật độ đường đẳng trị càng dày, mức độ chính xác càng cao. Tuy nhiên mật độ
càng dày độ đọc bản đồ càng giảm. Để tăng tính thẩm mỹ và khả năng đọc bản đồ, người
ta tô màu khoảng giữa 2 đường đẳng trị kề nhau. Màu sắc tô phải được lựa chọn hài hoà
trong những tôn màu gần nhau.
b. Một số bản đồ khí hậu
Một số bản đồ mô tả các hiện tượng khí hậu như sau:
1. Bản đồ đường đẳng nhiệt
– Đường đẳng nhiệt là đường nối những điểm có cùng nhiệt độ trung bình hàng tháng
hoặc hàng năm. Có 2 loại đường đẳng nhiệt: Đường đẳng nhiệt thực tế là đường đẳng
nhiệt trên bề mặt mặt đất và đường đẳng nhiệt suy diễn là đường đẳng nhiệt ở mực nước
biển.
– Đường đẳng nhiệt thực tế chiếm vai trò quan trọng hơn vì do ý nghĩa của nó đối với đời
sống và hoạt động thực tế của con người (đặc biệt là đối với sản xuất nông nghiệp).
– Mặt khác, đường đẳng nhiệt suy diễn cho phép nghiên cứu những quy luật khí hậu
chung nhất không chịu ảnh hưởng địa hình bề mặt trái đất, nó chỉ ra sự phụ thuộc của chế
độ nhiệt vào độ vĩ, vào sự di chuyển của các khối khí và hoạt động của các dòng biển.
– Sự liên quan giữa 2 loại đường đẳng trị được tính bằng gradient theo chiều thẳng đứng
(0,50 C trên 100m). Việc tính toán gradient theo chiều thẳng đứng ngoài ra còn chịu ảnh
hưởng của vị trí địa lý, hướng, ánh nắng và độ dốc của sườn.
H 7: Bản đồ nhiệt độ
2. Bản đồ đường đẳng vũ
–
Đường đẳng vũ là đường nối những điểm có cùng lượng mưa từng mùa và từng năm.
Việc xây dựng đường đẳng vũ dựa vào số liệu quan trắc hoặc tính toán bổ sung bằng
phương pháp nội suy hoặc ngoại suy. Trong việc xây dựng bản đồ đường đẳng vũ, vấn đề
quan trọng phải tính đến là ảnh hưởng của địa hình, sự phân bố địa lí ảnh hưởng đến
Bản đồ chuyên đề
17
Tran Thi Phung Ha, MSc
lượng mưa không đều. Sự thay đổi lượng mưa ở các vùng núi cao không phải chỉ do ảnh
hưởng của độ cao tuyệt đối, mà còn do hướng phơi, đón gió của sườn tức là vai trò
“chướng ngại” của địa hình. Người ta phân ra các nguyên nhân sau đây của sự thay đổi
lượng mưa theo sườn: 1) hoàn lưu địa phương gây ra sự vận chuyển hơi nước từ thung
lũng lên núi (chủ yếu vào mùa nóng của năm), 2) sự vận chuyển của các khối khí và các
front qua núi gây ra sự khác nhau đột ngột về độ ẩm ở các sườn đón gió và khuất gió, 3)
sự vươn lên của các khối khí, do gặp trở ngại bị chặn lại gây ra mưa tối đa ở sườn đón
gió.
–
H 8: Bản đồ lượng mưa
3. Bản đồ đường đẳng áp
– Bản đồ nối những điểm có cùng chỉ số về áp suất không khí. Nếu như đường đẳng vũ
thường được xây dựng bằng số liệu thực tế trên bề mặt trái đất, bản đồ đường đẳng áp
được xây dựng theo số liệu suy diễn tới mực nước biển. Quy luật thay đổi khí áp theo độ
cao ít chịu ảnh hưởng của điều kiện địa lí tự nhiên địa phương cho nên có thể chỉnh tu số
liệu quan trắc theo một công thức thống nhất. Các đường đẳng áp trên bản đồ thường là
những đường cong thay đổi rất nhịp nhàng và thường được thành lập bản đồ tỷ lệ nhỏ.
4. Bản đồ gió
1
–
Mục đích của bản đồ là biểu hiện hướng gió, tốc độ gió thuộc các cấp khác nhau và tần
suất gió. Việc xác định hướng gió và tốc độ gió chỉ có thể thực hiện được ở ngoài biển
khơi, còn ở trên lục địa, do ảnh hưởng của địa hình, sự vận động của các dòng khí thường
rất phức tạp nên việc sử dụng số liệu của các trạm thường gặp nhiều khó khăn.
Dùng biểu đồ định vị để thể hiện gió. Cánh hoa biểu hiện hướng gió. Chiều dài cánh hoa
biểu hiện tần suất gió tính theo phần trăm của tổng số lần quan trắc. Tốc độ gió được biểu
thị bằng nét gạch sáng tối khác nhau trên mỗi cánh hoa, màu càng đậm, vạch càng dày thì
tốc độ gió càng lớn. Tâm của hoa gió được đặt đúng vào vị trí quan trắc. Vì vậy hoa gió
chỉ đặc tính gió tại từng điểm riêng biệt chứ không biểu thị tính liên tục cho toàn khu
vực.
Bản đồ chuyên đề
18
Tran Thi Phung Ha, MSc
Source: https://thevesta.vn
Category: Bản Đồ