Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói về Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Có lẽ với phần đông người đọc, Thiền sư Thích Nhất Hạnh không còn lạ lẫm. Ông là một trong những đại Thiền sư nổi tiếng nhất quốc tế, người được những Phật tử xem như thể một vị Phật sống tái thế .Những cuốn sách của ông, những bài thuyết pháp của ông được lưu truyền trên khắp hành tinh. Từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước, ông đã là ứng viên của Giải Nobel hòa bình. Tôi biết ông có phần muộn hơn, nhưng cũng trước Hoàng Anh Sướng đến cả hàng chục năm.

Dịp ấy đang độ xuân. Như mọi người dân Việt, tôi đưa vợ con đi lễ chùa Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội). Ngôi chùa này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng đoàn Làng Mai đã từng đến thuyết pháp. Thế rồi, trong lúc chờ vợ hóa vàng, tôi dắt con gái đi dạo chơi vãn cảnh chùa. Tôi thực sự ngạc nhiên khi nhìn thấy trong cửa hàng bán Kinh Phật cùng sách Tử vi bói toán, có rất nhiều đĩa CD thuyết pháp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, cả đĩa hình, đĩa tiếng, nhưng đều bán đồng loạt một giá như nhau, và bán rất rẻ, chỉ có hai ngàn đồng một đĩa. Số tiền ấy không đủ mua một gói kẹo lạc hay một mớ rau muống. Nhưng nhờ với giá rẻ như thế mà một em bé đánh giầy lang thang cơ nhỡ hay một bà hành khất cũng dễ dàng có được cả một buổi thuyết pháp của một vị Thiền sư lừng danh thế giới.

Tôi mua một vài đĩa về nhà nghe thử. Nghe cũng vì tò mò. Nhưng nghe rồi, tôi bắt đầu mê các bài thuyết pháp của ông. Tôi rất kinh ngạc khi trong các bài pháp thoại của vị Thiền sư nổi tiếng thế giới mà lại không thấy chùa, không thấy Kinh, không thấy cả Phật nữa, chỉ toàn những chuyện đời thường của mình, của gia đình mình, của những người thân. Nó vô cùng giản dị như muôn mặt của đời sống. Thiền sư hướng dẫn giúp ta làm sao có được sự an lạc, thảnh thơi giữa đời sống bộn bề những lo toan, hờn trách. Làm thế nào để có thể đứng vững trước bao nhiêu bão táp, mưa giông, bon chen, đố kỵ. Rồi cách ứng xử để lập truyền thông với bố mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè, để có tình yêu thương đích thực, để được hiểu và được thương. Đặc biệt, ta cần phải làm gì khi người thân mất?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh : Nụ cười của mỗi người trong đời sống là rất quan trọng Đến với Phật không phải trông chờ vào phép mầu nhiệm của Phật trong cõi huyền bí nào đó. Điều quan trọng là chúng ta phải vững tin.

Đến với Phật không phải trông chờ vào phép mầu nhiệm của Phật trong cõi huyền bí nào đó. Điều quan trọng là chúng ta phải vững tin.

Người mất thì họ đi về đâu? Tôi rất thích lối diễn giải của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ông bắt đầu câu chuyện từ một giọt mưa. Giọt mưa rơi xuống phiến đá. Ta nhìn thấy rõ giọt nước ấy. Nó long lanh sáng. Rồi nó thẫm dần như một chấm nâu. Ta nhắp đi, ngoảnh lại, không còn thấy nó nữa. Lại nghĩ, giọt mưa đã chết. Nó đã biến khỏi mặt đất. Nhưng không! Giọt mưa không chết. Nó cũng không biến đi. Nó vẫn đang tồn tại. Nhưng tồn tại trong một hình dạng khác. Nó đã thành một đám mây che mát trên đầu ta. Rồi từ mây, nó hóa tiếp cơn mưa, tưới mát lành cả mặt đất.

Cũng tựa như như thế, khi cha mẹ ta chết, cha mẹ cũng có mất đâu. Bố mẹ vẫn sống sót, nhưng sống sót ở một dạng khác. Bố mẹ vẫn luôn ở trong ta, trong từng tế bào khung hình ta. Không cần phải xét nghiệm ADN, ta chỉ đứng trước gương. Thấp thoáng sau khuôn mặt ta là khuôn mặt cha mẹ, khuôn mặt của ông bà, và xa hơn nữa là những cụ kỵ, tổ tiên ta. Tổ tiên vẫn luôn hiện hữu ở ngay trong ta. Vậy thì ta phải sống thế nào, tu thế nào để khuôn mặt ta luôn sáng đẹp. Gương mặt ta sáng đẹp, tâm hồn ta sáng đẹp, thì khuôn mặt cha mẹ, ông bà, tổ tiên cũng sáng đẹp. Bàn được đến thế là thâm thúy lắm !

Tôi cũng rất ám ảnh bởi câu chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về một người lính Mỹ. Anh tham trận ở Việt Nam. Trong một trận càn, anh đã giết một đứa trẻ con. Đứa trẻ hoàn toàn vô tội. Vì thế, anh ân hận, dằn vặt và đau khổ. Nhiều người lính khác cũng thế. Đó là những người tốt. Chỉ những người tốt mới biết ân hận. Trở về Mỹ, họ mắc một căn bệnh – bệnh hội chứng chiến tranh Việt Nam. Có người bị tâm thần, không còn sống được bình thường, cũng không có bệnh viện nào chữa khỏi. Họ tìm đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh, học một khóa tu của Ngài.

Thiền sư bảo, dẫu sao anh cũng đã giết người. Bây giờ, anh có dằn vặt, ân hận hay đổi cả mạng sống của mình thì đứa trẻ ấy cũng không hề sống lại được nữa. Tội của anh rất nặng. Nhưng anh vẫn hoàn toàn có thể thoát được nghiệp chướng. Đứa trẻ không sống lại được, nhưng vẫn còn rất nhiều những đứa trẻ khác đang nguy kịch. Chúng đang đói khát và tật bệnh. Chúng sẽ chết nếu như không được cứu. Vậy thì anh hãy cứu chúng đi. Anh cứu được một đứa trẻ thoát khỏi cái chết là anh đã giải được nghiệp rồi. Anh cứu được đứa thứ hai, thứ ba, thứ tư …, anh sẽ thành vị Bồ Tát. Và như vậy, ngay cả những kẻ tội đồ cũng hoàn toàn có thể thành được Bồ Tát, nếu biết tu tập. Người lính ấy bỗng như được giải thoát. Anh đã khỏi hẳn bệnh. Đã khỏe mạnh trở về được với đời sống thường ngày. Rồi anh đi làm việc thiện. Không phải anh cứu được một đứa trẻ thoát khỏi cái chết mà anh cứu được hàng trăm đứa trẻ xấu số ở Nước Ta và ở khắp nơi trên quốc tế. Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, không thể có hạnh phúc từ những cuộc tranh giành.

Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, không thể có hạnh phúc từ những cuộc tranh giành.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh : Kiếp người trong hơi thở Tôi tìm mua những cuốn sách về Phật, những bài Kinh, rồi những bài giảng của những Đại đức, Hòa thượng khác. Nhưng phải nói thật, khi đã nghe Thiền sư Thích Nhất Hạnh thuyết pháp rồi thì rất khó nghe những vị sư khác. Nhiều khi, tôi còn thấy dị ứng. Có vị sư giảng Phật pháp mà mắt cứ long lên sòng sọc, giọng vỏng vót, gắt gỏng, đầy sân hận. Có vị vừa giảng vừa trêu ghẹo mấy nữ Phật tử ngồi dưới. Có vị lại còn tạo sự mê hoặc bằng cách kể những câu truyện tiếu lâm rất tục tĩu, bợm trợn, kể cả chuyện Đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa. Giảng Phật pháp, hướng người ta đến với đạo Phật, lại mang chùa mang sư ra diễu thì ai còn tin Phật, tin sư nữa đây ? Tôi lại phải quay trở lại với Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Lại sưu tầm những đĩa ghi hình những bài pháp thoại của ông. Rồi tôi lọ mọ chuyển những đĩa CD, VCD bài giảng của ông ra MP4, MP3. Tôi đưa vào những Ipod, Ipad rồi Tặng Kèm bạn hữu và người thân trong gia đình của mình. Nhà báo Hoàng Anh Sướng là người tiên phong tôi khuyến mãi ngay món quà quý đó. Tôi biết anh là nhà báo có tài. Anh cũng rất giỏi thuyết giảng. Nhiều bài viết, bài nói của Hoàng Anh Sướng về Trà đạo, về tâm linh, ngoại cảm rất hay, rất mê hoặc. Bản thân tôi cũng đã viết bài trình làng tập sách “ Bùa ngải xứ Mường ” của anh. Tôi bảo Sướng : “ Chú nghe đi. Trong này có hàng ngàn bài hát. Hàng chục cuốn tiểu thuyết rực rỡ của quốc tế phát trong chương trình Đọc chuyện đêm khuya của Đài Tiếng nói Nước Ta. Nhưng trước hết, chú hãy nghe phần của Thầy Nhất Hạnh. Nhiều lắm. Nghe những bài thuyết pháp trước rồi nghe những truyện dài của thầy sau ”. Lúc bấy giờ, Hoàng Anh Sướng đang mê hồn nghiên cứu và điều tra những nhà ngoại cảm. Anh lầm lụi vượt rừng, vượt núi cùng họ đi tìm mộ liệt sĩ, rồi nghiên cứu và điều tra những cuộc gọi hồn. Trông anh lúc nào cũng tất tả, bận rộn. Người lúc nóng, lúc lạnh, lúc vui, lúc buồn. Có lúc cũng đau khổ vì sự hục hặc của những nhà ngoại cảm với nhau. Tôi hỏi : “ Chú đã nghe chưa ? Nghe Thầy Nhất Hạnh thuyết pháp chưa ? ”. “ Em nghe rồi. Nhưng cứ nửa chừng lại bỏ. Ông cụ ề à quá. Cứ tháng Năm một câu, tháng Mười một câu. Oải vô cùng ! ”.

Tôi biết mình thật vô duyên. Muốn hướng người thân đến với Phật pháp. Nhưng mặt mình trông cứ gian gian. Làm sao người đời tin được. Người nhẹ dạ còn chả tin thì làm sao thuyết phục được một cây bút sắc lẹm như Hoàng Anh Sướng!

Câu chuyện bỏ lửng đó. Tôi và Hoàng Anh Sướng vẫn gặp nhau tiếp tục nhưng không bàn đến chuyện ấy nữa. Anh cũng quẳng cái Ipod 160 GB tôi khuyến mãi ở xó xỉnh nào mất rồi. Tôi không hỏi mà anh cũng chẳng chăm sóc. Thế rồi mùa hè năm 2013, bất thần anh khoe với tôi : “ Thiền sư Thích Nhất Hạnh mời em sang Mỹ ba tháng tham gia những khóa tu và buổi thuyết pháp của thầy dọc nước Mỹ ”. “ Thế thì chú đi ngay ” – Tôi bảo Sướng. “ Tuyệt lắm đấy. Bận gì cũng hãy bỏ hết. Đây là thời cơ ngàn năm có một. Chú phải đi ngay ! ”. Quả như sự tiên đoán của tôi. Chuyến đi ấy vô cùng mê hoặc. Cuộc gặp gỡ giữa nhà báo Hoàng Anh Sướng với Thiền sư Thích Nhất Hạnh như có sự dẫn dắt, sắp xếp của Trời, Phật. Anh có rất nhiều tư liệu quý về Thiền sư Thích Nhất Hạnh do tôi cung ứng trước đó, nhưng vì không chịu nghe nên đến khi tiếp xúc với Thiền sư tại Mỹ, anh vẫn là kẻ tay không. Anh trọn vẹn tinh khiết như một trang giấy trắng. Và rồi, suốt ba tháng theo chân Thiền sư Thích Nhất Hạnh dọc nước Mỹ, anh đã tự mày mò tầm vóc lồng lộng của Thiền sư. Anh kinh ngạc khi thấy người dân khắp nơi trên hành tinh đổ về nước Mỹ nghe Thiền sư thuyết giảng Phật pháp. Trong số hàng ngàn người nghe đó có những nhà chính trị nổi tiếng, những nhà khoa học lỗi lạc từng được trao giải Nobel. Trình độ, vị thế xã hội và số phận của mỗi người cũng rất khác nhau nhưng họ đều sùng kính Thiền sư, coi Thiền sư như một vị Phật sống. Anh cũng kinh ngạc khi biết mỗi giờ thuyết giảng của Thiền sư được trả rất nhiều tiền. Nhưng Thiền sư sống vô cùng đạm bạc. Tài sản và đồ vật của Thiền sư chẳng có gì đáng giá. Số tiền khổng lồ ấy, Thiền sư dùng để nuôi hàng ngàn đệ tử trong Tăng đoàn, rồi làm từ thiện cho những người xấu số ở khắp nơi trên quốc tế. Ở Nước Ta, những năm bao cấp, rất nhiều nghệ sĩ nghèo nàn đã nhận được sự trợ giúp của ngài. Một trong số họ là thi sĩ Hoàng Cầm. Sau này, qua cuốn hồi ký của sư cô Chân Không, tôi mới biết được bí hiểm ấy. Hoàng Cầm nhận được tiền qua sư cô Chân Không gửi. Và ông cứ tưởng Chân Không là một nhà doanh nghiệp hay một tiểu thư khuê các, một mệnh phụ phu nhân giàu sang và lãng mạn, rất yêu những bài thơ tình của ông. Ông trọn vẹn không biết đó là một Ni sư. Và tiền ông nhận là tiền của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Hạnh phúc là an lạc, không có an thì không có lạc, an trong thân và trong tâm. Nếu con người chứa chất quá nhiều sự căng thẳng, thân không an thì tâm làm sao mà an được?

Hạnh phúc là an lạc, không có an thì không có lạc, an trong thân và trong tâm. Nếu con người chứa chất quá nhiều sự căng thẳng, thân không an thì tâm làm sao mà an được?

Thiền sư Thích Nhất Hạnh : Kiếp người trong hơi thở Cái tài đặc biệt quan trọng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là ông đã hiện đại hóa đạo Phật, đưa đạo Phật vào đời sống của mọi những tầng lớp người, trong đó, có những người Tây phương đã từng theo nhiều tôn giáo khác nhau. Cũng nhờ có ông mà đạo Phật ở phương Tây tăng trưởng rất nhanh và mạnh, đặc biệt quan trọng được giới trẻ và tri thức hâm mộ. Ông mở nhiều khóa tu tập riêng cho giới người kinh doanh, giới bảo lãnh môi trường tự nhiên, giới giáo chức, cựu chiến binh, văn nghệ sĩ. Ông cũng mở cả khóa tu cho giới diễn viên Hollywood, những nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ, rồi những khóa tu cho cả công an, bảo mật an ninh, và người coi tù. Người dự khóa tu không cần phải quy y nhưng hoàn toàn có thể thừa kế kho tàng tuệ giác của đạo Phật để tháo gỡ khó khăn vất vả trong đời sống nội tâm, tái lập lại tiếp thị quảng cáo với những người khác, trong đó có mái ấm gia đình, đồng nghiệp, đem lại niềm hạnh phúc trong đời sống hàng ngày. Điều đáng kinh ngạc là những người tham gia khóa tu của Thiền sư, có người từng là linh mục, là mục sư, như mục sư Robert Schaibly ở Houston, Texas. Vị mục sư này đã xin thụ trì 5 giới, quy y Tam bảo mà không thấy có sự xích míc nào giữa đức tin Cơ đốc giáo của bản thân với tuệ giác đạo Phật. Sau đó, ông còn đến Làng Mai của Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở Pháp để liên tục tu học cho đến khi thành một vị giáo thọ của làng Mai, tức là người có năng lực mở những khóa tu theo giáo lý đạo Phật. Vị mục sư này cũng đã viết thư cho bề trên, đề xuất kiến nghị nguyện vọng muốn được vừa làm mục sư, vừa làm giáo thọ đạo Phật. Sáng chủ nhật ông giảng bài cho con chiên, chiều hướng dẫn thiền tập cho mọi người, trong đó có cả những con chiên ở trong nhà thời thánh … Ai sinh ra cũng mong mình được niềm hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên, trong Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, quản trị Hồ Chí Minh đã bàn đến niềm hạnh phúc. Người dẫn cả tuyên ngôn của nước Mỹ, trong đó chứng minh và khẳng định, con người ai sinh ra cũng có quyền bình đẳng. Đó là quyền bất khả xâm phạm. Trong số những quyền ấy, có quyền tự do, quyền mưu cầu niềm hạnh phúc. Trong tiêu chuẩn của một Quốc gia mà tất cả chúng ta luôn vươn tới, cũng là “ Độc lập ” – “ Tự do ” và “ Hạnh phúc ”. Nhưng nói như một nhà thơ : “ Hạnh phúc là gì ? Bao lần ta lúng túng – Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi vẫn không ra ? ”. Chúng ta đi tìm niềm hạnh phúc, nhưng sao chỉ gặp những khổ đau. Có lẽ vì ý niệm “ Hạnh phúc là đấu tranh ” thì làm thế nào mà hết khổ đau được. Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, không hề có niềm hạnh phúc từ những cuộc tranh giành. Sự thành công xuất sắc của mình không hề lại phải trả giá bằng sự thất bại của người khác. Tại sao người kia phải thất bại thì mình mới thành công xuất sắc ? Tại sao người khác cứ phải đau khổ thì mình mới niềm hạnh phúc ? Đó là thắc mắc quan trọng. Làm thế nào để tôi thành công xuất sắc và anh cũng thành công xuất sắc, thì niềm hạnh phúc của ta sẽ lớn hơn, toàn vẹn hơn vì không ai phải đau khổ vì sự thành công xuất sắc của tất cả chúng ta hết. Hạnh phúc của tất cả chúng ta đâu phải chỉ là quyền lực tối cao, danh vọng, tài lộc. Hạnh phúc là khi tất cả chúng ta có tình yêu thương và sự hiểu biết.

Với đạo Phật, phần lớn chúng ta mới thực tập tín mộ, tín ngưỡng, chứ ít người sử dụng được tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ những khó khăn. Cầu nguyện cũng phần nào đem lại sự an lạc, vì giúp lắng dịu những khổ đau, lo lắng. Nhưng muốn giải quyết tận gốc vấn đề thì phải có tuệ giác, mà tuệ giác phải do tu tập mới có được. Hạnh phúc là an lạc, không có an thì không có lạc, an trong thân và trong tâm. Nếu con người chứa chất quá nhiều sự căng thẳng, thân không an thì tâm làm sao mà an được? Trong khi đó tâm có những cảm giác, cảm xúc như giận hờn, tuyệt vọng, bạo động, nếu không có phương pháp cụ thể thì làm sao nhận diện và chuyển hóa được những bất an của tâm? Trong Kinh Niệm xứ hay Kinh Quán niệm hơi thở, Đức Thế Tôn đã dạy những phương pháp cụ thể để làm lắng dịu những căng thẳng trong thân, trong tâm, rồi nhìn sâu để xem tận gốc rễ của những khổ đau phiền não đó do đâu, từ đó mới bắt đầu chuyển hóa được đau khổ, mới có được hạnh phúc.

Cũng theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, đạo Phật thời xưa giúp quốc gia nhiều lắm. Học giả Hoàng Xuân Hãn cho rằng, đạo Phật giúp đời Lý là triều đại thuần từ nhất trong lịch sử dân tộc, khi từ vua quan tới thường dân đều thực tập đạo Phật. Đời Trần cũng vậy. Sau khi thắng lợi Nguyên Mông, quan quân có đệ trình lên một hòm tài liệu của một số ít viên chức chính quyền sở tại liên lạc với giặc. Nhưng Vua Trần Thánh Tông đã đem hòm tài liệu đó đốt trước mặt bá quan để yên tâm trăm họ, bởi tất cả chúng ta đã giành được độc lập, đẩy lui được quân địch thì cần nhất giờ đây là đoàn kết vương quốc. Đó là hành vi phát sinh từ tuệ giác của đạo Phật. Hiện nay, ta hoàn toàn có thể học theo những hành vi như vậy. Cố nhiên là trong cuộc chiến tranh tất cả chúng ta bị chia rẽ, có những ý thức hệ đối chọi nhau, có những nhận thức khác nhau về chính trị, có phương pháp yêu nước khác nhau. Giờ phải làm thế nào để buông bỏ thái độ đã trở nên không còn tương thích với thực tiễn. Đừng cho rằng chỉ có triết lý của mình là duy nhất đúng, còn mọi kim chỉ nan khác đều sai lầm đáng tiếc. Thái độ bám vào một chủ thuyết, không bao dung đó sẽ liên tục làm cho dân ta khổ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những đại Thiền sư nổi tiếng nhất thế giới, người được các Phật tử xem như là một vị Phật sống tái thế.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những đại Thiền sư nổi tiếng nhất thế giới, người được các Phật tử xem như là một vị Phật sống tái thế.

“ Trong giới luật Tiếp hiện của chúng tôi có đưa ra tinh thần đạo Phật là không thờ phụng bất kể một chủ nghĩa nào, một triết lý nào, kể cả đó là triết lý Phật giáo. Đạo Phật đưa ra những phương tiện đi lại để tu tập, để học hỏi, để chuyển hóa bản thân chứ không phải là những triết lý để thờ phụng, để phải phát động những đại chiến đẫm máu. Tôi nghĩ thái độ đó rất thiết yếu. Vua A Dục ca rất lâu rồi sau khi thống nhất quốc gia đã đi tu, yểm trợ cho những tôn giáo để những tôn giáo thống nhất nhân tâm. Vì thế, vua A Dục ca thống nhất được nhân tâm sau khi thống nhất chủ quyền lãnh thổ. Chúng ta nên học bài học kinh nghiệm đó. Chúng ta thống nhất Nam Bắc nhưng chưa thống nhất được lòng người, vẫn có sự tị hiềm, hận thù, đau khổ trong lòng mỗi tất cả chúng ta. Áp dụng đạo Phật là để buông bỏ những hận thù trong quá khứ. Đó là một trong những thực tập mà ta hoàn toàn có thể triển khai ngay, để thống nhất lòng người, ôm lấy nhau mà sống … ”

Cái tài của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là thế. Ông giảng Phật pháp mà không thấy chùa, cũng không thấy Kinh, không thấy Phật, chỉ thấy đời sống, thấy những chuyện nóng hổi của đất nước, của xã hội, của gia đình mình và của chính mình. Đến với Phật không phải trông chờ vào phép mầu nhiệm của Phật trong cõi huyền bí nào đó. Điều quan trọng là chúng ta phải vững tin. Tin vào chính mình. Nghĩa là ta phải tự biến ta thành Phật, để tự giải thoát cho mình. Nhiều khi chỉ thay một quan niệm, chúng ta đã thoát được khổ đau, đã tìm thấy hạnh phúc đích thực. Bởi nhiều khi chính ý niệm về hạnh phúc lại là chướng ngại của hạnh phúc. Ta bị mắc kẹt, bị cầm tù bởi chính ý niệm của mình. Không phá được cái nhà tù tự mình dựng lên để giam hãm mình thì làm sao có được hạnh phúc.

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp