Cát Lâm – Wikipedia tiếng Việt

Cát Lâm (tiếng Trung: 吉林; bính âm: Jílín, phát âm tiếng Trung: [tɕǐlǐn]  ( nghe)), là một tỉnh ở Đông Bắc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Cát Lâm là tỉnh đông thứ hai mươi mốt về số dân, đứng thứ hai mươi tư về kinh tế Trung Quốc với 27 triệu dân, tương đương với Mozambique[1] và GDP danh nghĩa đạt 1.507 tỉ NDT (227,8 tỉ USD) tương ứng với Peru.[2] Cát Lâm có chỉ số GDP đầu người đứng thứ mười bốn, đạt 55.611 NDT (tương ứng 8.404 USD).[3]

Tỉnh Cát Lâm có biên giới với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Liên bang Nga ở phía đông ; có ranh giới giáp với tỉnh Hắc Long Giang ở phía bắc, với tỉnh Liêu Ninh ở phía nam, và với khu tự trị Nội Mông Cổ ở phía tây .

Tên gọi “Cát Lâm” có lẽ bắt nguồn từ cụm từ Girin ula ᡤᡳᡵᡳᠨ ᡠᠯᠠ, một thuật ngữ tiếng Mãn có nghĩa là “ven sông”; từ này được chuyển âm thành Cát Lâm Ô Lạp (吉林乌拉 / 吉林烏拉, Jílín Wūlā) trong tiếng Hán, rồi sau đó rút ngắn thành Cát Lâm.[4] Nghĩa đen Hán tự của Cát Lâm nghĩa là “rừng tốt lành”.

Thời cổ đại[sửa|sửa mã nguồn]

Cách nay từ 50.000 đến 10.000 năm, trên địa bàn tỉnh Cát Lâm đã xuất hiện “người Du Thụ” (榆树人), “người An Đồ” (安图人), “người Thanh Sơn Đầu” (青山头人).[5] Theo sử sách Trung Quốc, một người họ hàng của Trụ Vương nhà Thương là Cơ Tử (箕子) đã di cư ra khỏi Trung Nguyên và lập ra Cơ Tử Triều Tiên (箕子朝鲜) ở Tây Bắc của bán đảo Triều Tiên.[6] Lãnh thổ của Cơ Tử Triều Tiên có khả năng bao gồm cả một bộ phận tỉnh Cát Lâm ngày nay. Ngoài ra, vào thời Tây Chu, trên địa bàn Cát Lâm còn có các chính quyền bản địa của người Túc Thận (肃慎), người Uế Mạch (濊貊), người Đông Hồ (东胡) và người Sơn Nhung (山戎). Tại lưu vực Tùng Hoa Giang tồn tại nhiều dân tộc, trong đó Túc Thận, Uế Mạch và Đông Hồ là ba dân tộc lớn thời cổ của vùng Đông Bắc Trung Quốc.

Các cổ tịch Trung Hoa gọi lãnh địa của bộ lạc ” Túc Thận ” là ” Túc Thận Quốc “. Nhiều nhà lịch sử dân tộc đánh giá và nhận định có năng lực người Túc Thận vào thời vua Thuấn đã sinh sống ở khu vực tỉnh Sơn Đông thời nay, họ từng triều cống vua Thuấn ; về sau, do chịu áp lực đè nén từ Tây Chu nên người Túc Thận đã di cư lên phía bắc. Đến thời Chiến Quốc, họ được gọi là ” Chân Phiên ” ( 真番 ), đến thời Tần Hán mới được gọi lại theo tên cũ. Chân Phiên Q. ( 真番郡 ) của Hán tứ Q. ( 漢四郡 ) hoàn toàn có thể có liên hệ đến tên gọi này .Uế Mạch là hợp xưng dùng để chỉ người Uế và người Mạch, họ có đặc thù sinh sống bằng nông nghiệp, không giống với dân tộc bản địa du mục. Vào thời nhà Hạ và nhà Thương, người Uế cư trú tại bán hòn đảo Sơn Đông, thuộc dân tộc bản địa Đông Di. Sau khi Chu diệt Thương, người Uế do bị triều Chu bức bách nên đại bộ phận đã sơ tán về phía đông bắc. Thời kỳ Xuân Thu, Tề Hoàn công từng phát động cuộc chiến tranh với Uế. Thời Chiến Quốc, người Uế sống dựa vào nông nghiệp và ngư nghiệp, kê trở thành lương thực hầu hết của người Uế. Người Mạch là một dân tộc bản địa du mục trên thảo nguyên Mông Cổ, ngôn từ thuộc ngữ hệ Altai .

Sử ký-Hung Nô liệt truyện viết rằng người Sơn Nhung và Đông Hồ ở phía bắc của nước Yên. Thời Chiến Quốc, vào lúc cường thịnh, người Đông Hồ được gọi là “Khống huyền chi sĩ nhị thập vạn” (控弦之士二十万, nghĩa đen là có 20 vạn binh sĩ cầm cung), nhiều lần tiến xuống phía nam xâm nhập Trung Nguyên. Về sau, bị Yên và Tần đánh bại.

Thời Tần Hán[sửa|sửa mã nguồn]

Thời Nhà Tần và Nhà Hán, người Túc Thận được gọi là ” Ấp Lâu ” ( 挹娄 ) và ” Vật Cát ” ( 勿吉 ). Trong thời kỳ này, đã Open một vương quốc là ” Uế vương quốc “, vào thời Hán có người đã phát hiện ra ” ” Uế vương chi ấn ” ( tức ấn của vua Uế ), chi phía bắc của người Uế Mạch là người Tác Ly ( 索離人 ), họ tự nuôi lợn, ngựa, bò, cũng khéo săn bắn. Người Tác Ly sinh sống tại khu vực đồng bằng Tùng Nộn ở phía đông của Nộn Giang và phía bắc của Tùng Hoa Giang. Tại huyện Triệu Nguyên ( của tỉnh Hắc Long Giang ) ở hạ du Nộn Giang có di chỉ Bạch Kim Bảo ( 白金宝 ), nơi đây có những tàn tích văn hóa truyền thống của người Tác Ly ( người Mạch ). Trong xã hội của người Tác Ly đã Open chính sách tư hữu và đối kháng giai cấp, đã tiến vào ngưỡng cửa của văn minh. Một người Tác Ly đã xưng vương tuy nhiên không dùng tộc danh Uế và Tác Ly mà lại dùng tộc danh Phù Du ( 鳧臾 ), triều Hán ở Tập Đoàn Cafe Trung Nguyên dịch thành Phu Dư ( 夫馀 ), sau lại đổi thành Phù Dư ( 扶馀 )Sau khi Tây Hán diệt Vệ Mãn Triều Tiên, đã thiết lập Huyền Thổ Q. quản trị những nước Cao Câu Ly ở Liêu Đông và Phù Dư ở Cát Lâm. Đến thời Đông Hán, triều đình đã xây dựng Liêu Đông thuộc quốc, quản trị những vương quốc dân tộc bản địa ở phía bắc Cafe Trung Nguyên như Phù Dư, Cao Câu Ly. Thời Hán, một bộ phận tỉnh Cát Lâm thuộc về Huyền Thổ Q., đến cuối thời Hán và đầu thời Tam Quốc thì chuyển sang chịu sự quản trị của chính quyền sở tại Liêu Đông của Công Tôn Độ. Thời nhà Tấn, đất này do hiệu úy người Đông Di quản trị. Triều đình Hán từng đặt Thương Hải Q. ( 蒼海郡 ) để quản lý khu vực của người Uế Mạch .Thời Tần Hán, người Đông Hồ dần suy yếu .

Thời Cao Câu Ly[sửa|sửa mã nguồn]

Lãnh thổ nước Cao Câu Ly ( Goguryeo ) vào năm 476Các cuộc tiến công của Cao Câu Ly vào một khoảng chừng thời hạn nào đó trước năm 347 đã khiến Phù Dư suy yếu. Đến khi để mất thành trì ở gần Cáp Nhĩ Tân thời nay, Phù Dư đã chuyển dời về phía tây nam đến Nông An ( nay thuộc tỉnh Cát Lâm ), nước này bị hủy hoại vào năm 346. Thành Quốc Nội đã trở thành kinh đô của Cao Câu Ly từ năm 3 cho đến năm 427, thành có chiều dài tường ngoài là 2.686 m [ 7 ] và nay thuộc địa phận của Tập An ( cực nam của tỉnh Cát Lâm ). Trong cuộc cuộc chiến tranh Cao Câu Ly-Ngụy 244 – 245, quân Tào Ngụy đã hủy hoại Hoàn Đô sơn thành ( 丸都山城 ) của Cao Câu Ly thuộc Tập An ngày này. [ 8 ] Trong thời hạn trị vì của Cố Quốc Nguyên vương, Cao Câu Ly đã bị người Tiên Ti tiến công ở phía bắc và bị Bách Tế tiến đánh ở phía nam. Năm 342, nước Tiền Yên của người Tiên Ti đã tiến công Cao Câu Ly, họ đã hủy hoại Hoàn Đô sơn thành và bắt 1 số ít thành viên vương tộc Cao Câu Ly đem về nước .Năm 395, trong đại chiến chống Bách Tế, Quảng Khai Thổ Thái vương của Cao Câu Ly đã thân chinh đánh một chi nhỏ của tộc người Khiết Đan ở miền Trung Mãn Châu, gần khu vực Tùng Hoa Giang. Quảng Khai Thổ Thái vương đã chinh phạt được 64 thành trì và 1400 làng mạc trong một cuộc viễn chinh chống lại Phù Dư Quốc, vượt mặt nhà Hậu Yên và sau đó lấn chiếm chủ quyền lãnh thổ của những bộ tộc Phù Dư và Mạt Hạt, khuất phục Bách Tế, góp thêm phần vào sự tan rã của liên minh Già Da và biến Tân La thành chư hầu sau cuộc cuộc chiến tranh Cao Câu Ly-Yamato. Trong thời kỳ trị vì của Quảng Khai Thổ Thái vương, Cao Câu Ly đã thống trị một vùng chủ quyền lãnh thổ nằm ở phía nam Mãn Châu cùng với khu vực phía bắc và miền Trung của bán đảo Triều Tiên. [ 9 ]Trường Thọ vương đã dời kinh đô của Cao Câu Ly về Bình Nhưỡng năm 427. Về phía bắc ông lan rộng ra cương vực của Cao Câu Ly đến hữu ngạn của Tùng Hoa Giang. Dưới thời Văn Tư Minh vương, Cao Câu Ly đã hoàn tất việc xâm lăng khu vực Phù Dư, lưu lại điểm xa nhất về phía bắc của biên cương Cao Câu Ly ; đồng thời vẫn liên tục duy trì ảnh hưởng tác động của nó so với những tộc người Mạt Hạt và Khiết Đan ở phía bắc. Các quốc vương Cao Câu Ly tuy nhiên vẫn xưng thần với những triều đình Trung Hoa, vào năm 491, Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế đã sách phong cho Trường Thọ vương chức Xa kị đại tướng quân, thái phó, Liêu Đông Q. khai quốc công, Cao Câu Ly vương. Sau đó, Cao Câu Ly dần suy yếu, người Đột Quyết nhân thời cơ này đã tiến công những thành trì ở vùng biên giới phía bắc Cao Câu Ly và đoạt lấy một phần chủ quyền lãnh thổ của vương quốc này. Cao Câu Ly bị liên minh Tân La – Đường hủy hoại vào năm 668. [ 10 ]
Sau khi liên quân Tân La và Đường diệt được Cao Câu Ly, triều đình Đường đã thiết lập nên 9 đô đốc phủ, 42 châu, 100 huyện trên đất cũ của nước này, đặt An Đông đô hộ phủ tại Bình Nhưỡng để thống trị, cựu đô Quốc Nội thành của Cao Câu Ly trở thành nơi đặt trụ sở của Vật Ca Châu đô đốc phủ ( 哥勿州都督府 ) .Đến ngày Giáp Tý tháng 11 năm Thiên Bảo thứ 14 ( 16/12/755 ), người kiêm nhiệm chức tiết độ sứ của Phạm Dương, Bình Lô và HĐ Hà Đông là An Lộc Sơn đã khởi binh phản lại triều đình Nhà Đường tại Phạm Dương, lịch sử dân tộc gọi là loạn An Sử. Sau đó, An Đông đô hộ phủ bị phế bỏ năm 756 .

Thời Bột Hải[sửa|sửa mã nguồn]

Di chỉ tháp canh của Hoàn Đô sơn thành, một thành trọng điểm của vương quốc Bột Hải. nay thuộc Tập AnSau khi đánh bại quân Đường trong trận Thiên Môn Lĩnh ( 天門嶺之戰 ) diễn ra trên địa bàn Cát Lâm, Đại Tộ Vinh đã xưng vương và lập ra nước Thìn ( 辰國 ), sau đổi thành Bột Hải, khởi đầu định đô ở núi Đông Mưu ( 東牟山 ) thuộc nam bộ Cát Lâm ngày này. Phần lớn những người dân Bột Hải là người Cao Câu Ly, còn người Mạt Hạt chiếm số lượng ít hơn. Thành Trung Kinh ( nay thuộc Đôn Hóa ) trở thành kinh đô của Bột Hải từ năm 742 đến 756 và thành Đông Kinh ( nay thuộc Hồn Xuân trở thành kinh đô của Bột Hải từ năm 785 đến 793. Trong khoảng chừng thời hạn còn lại của mình, kinh đô của Bột Hải đặt ở thành Thượng Kinh ( nay thuộc Ninh An của tỉnh Hắc Long Giang ] ], tính ra, trong hơn 2/3 thời hạn sống sót của mình, Bột Hải đã định đô trên địa phận tỉnh Cát Lâm ngày này .Đến thời Văn vương ( 737 – 793 ), Bột Hải đã lan rộng ra cương vực của quốc gia đến lưu vực Hắc Long Giang ở phía bắc và khu vực phía bắc của bán đảo Liêu Đông ở phía nam. Dưới thời Tuyên vương ( 818 – 830 ), Bột Hải nắm quyền trấn áp một chủ quyền lãnh thổ to lớn gồm có phần phía bắc bán đảo Triều Tiên, Đông Nam của Nội Mãn Châu và khu vực Primorsky Krai của Nga thời nay. Những chiến dịch của Tuyên Vương đã chinh phục được nhiều bộ tộc Mạt Hạt ở phía bắc. Theo truyền thống cuội nguồn, những sử gia tin rằng xung đột sắc tộc giữa những người gốc Cao Câu Ly nắm quyền lực tối cao và người Mạt Hạt đã làm suy yếu vương quốc. [ 11 ] Các nghiên cứu và điều tra gần đây khẳng định chắc chắn sự sụp đổ của Bột Hải hầu hết là do núi lửa Trường Bạch ( nay nằm trên biên giới giữa Cát Lâm và Triều Tiên ) đã phun trào một cách kinh hoàng vào thế kỷ thứ X, ngọn núi khi đó nằm ở TT của vương quốc. Vụ nổ đã tạo ra một số lượng tro núi lửa rất lớn, gây thiệt hại nông nghiệp và tính không thay đổi của xã hội của Bột Hải .Theo phân cấp hành chính của Bột Hải, trên địa phận Cát Lâm sống sót Áp Lục phủ ( 鴨綠府 ) với trị sở tại Tây Kinh ( nay thuộc Lâm Giang, Trường Lĩnh phủ ( 長嶺府 ) với trị sở đặt tại Hà Châu ( nay thuộc Hoa Điện ), Phù Dư phủ ( 夫餘府 ), Mạc Hiệt phủ ( 鄚頡府 ) .

Thời Liêu đến Nguyên[sửa|sửa mã nguồn]

Sau khi diệt Bột Hải vào năm 926, người Khiết Đan lập nên vương quốc bù nhìn Đông Đan, và không lâu sau đó, Đông Đan bị sáp nhập vào Liêu năm 936. Dưới thời Liêu, địa phận tỉnh Cát Lâm thời nay phân thuộc Đông Kinh đạo, Thượng Kinh đạo, Trung Kinh đạo và Hạ Kinh đạo .Năm 1113, Hoàn Nhan A Cốt Đả ( 1068 – 1123 ) đã được bầu làm đại bối lặc của người Nữ Chân. Năm 1114, A Cốt Đả khởi binh phản kháng triều đình Liêu. Tháng 11 cùng năm, tướng Tiêu Tự Tiên ( 萧嗣先 ) và phó đô thống Tiêu Thát Bất Dã ( 萧挞不也 ) của Liêu đã tiến công người Nữ Chân, tập trung tại bờ bắc Áp Tử Hà ( một đoạn Nộn Giang, nay ở phía tây trấn Nguyệt Lượng Phao, Đại An của Cát Lâm ). A Cốt Đả đã xuất 3.700 giáp sĩ đối chọi lại. Không lâu sau, A Cốt Đả tận dụng đêm hôm để vượt Áp Tử Hà sang bờ bắc, đánh bại quân Liêu chỉ với hơn 1.200 binh sĩ. Thắng lợi trong trận Xuất Hà Điếm ( 出河店之战 ) đã đặt nền móng để người Nữ Chân thiết lập ra nhà Kim .Thời nhà Kim, đại bộ phận tỉnh Cát Lâm ngày này nằm dưới quyền quản lý của Đông Kinh lộ, những phần còn lại phân thuộc Hàm Bình lộ, Thượng Kinh lộ và Bắc Kinh lộ .Thời Nhà Nguyên, trên địa phận tỉnh Cát Lâm có ba phủ thuộc Liêu Dương đẳng xứ hành trung thư tỉnh ( 辽阳等处行中书省 )
Năm Vĩnh Lạc thứ 7 ( 1409 ) thời Minh Thành Tổ, triều đình Nhà Minh đã thiết lập một cơ cấu tổ chức quân sự chiến lược và chính quyền sở tại là Nô Nhi Can đô chỉ huy sứ ti ( 奴兒干都指揮使司 ) nhằm mục đích quản trị lưu vực Hắc Long Giang, Ô Tô Lý Giang, Tùng Hoa Giang và Nộn Giang. Đến năm Vĩnh Lạc thứ 9 ( 1411 ), cơ cấu tổ chức này đã chính thức khởi đầu thực thi quyền quản trị hành chính. Các quan viên của đô ti bắt đầu hầu hết là những lưu quan được luân chuyển điều đến, về sau do những lãnh tụ bộ lạc trong khu vực thế tập. Đến năm Tuyên Đức thứ 9 ( 1434 ), đô ti chính thức bị bãi bỏ, tổng cộng tồn tại trong 25 năm. Bên cạnh đó, một bộ phận tỉnh Cát Lâm thuộc quyền quản lý của Liêu Đông đô chỉ huy sứ ti ( 辽东都指挥使司 ). Sau đóbãi bỏ Nô Nhi Can đô ti, triều đình Minh vẫn duy trì quyền quản trị so với khu vực. Đến cuối thời Minh, triều đình không còn năng lực vươn tầm quản trị đến khu vực Đông Bắc, tại đây, những bộ lạc Nữ Chân trở thành những thuộc quốc của triều đình Nhà Minh. Thời Minh, người Nữ Chân có ba bộ phận chính : Kiến Châu Nữ Chân, Hải Tây Nữ Chân và Dã Nhân Nữ Chân ; cả ba nhóm đều có sự hiện hữu tại địa phận tỉnh Cát Lâm thời nay .

Thời Hậu Kim, Thanh[sửa|sửa mã nguồn]

Người Kiến Châu Nữ Chân sinh sống ở những khu vực Mẫu Đơn Giang, Tuy Phân Hà ( tức sông Razdolnaya ) và Trường Bạch Sơn thuộc tỉnh Cát Lâm thời nay. Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã thống nhất những bộ tộc Kiến Châu Nữ Chân và sau đó là hàng loạt người Nữ Chân. Năm 1608, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã lập bia hoạch giới với quân Minh ở biên thùy, từ đó khu vực tỉnh Cát Lâm thời nay thuộc sự quản lý của Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Đến năm 1616, tại Hách Đồ A Lạp ( nay thuộc tỉnh Liêu Ninh ), Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã xưng Hãn, đặt quốc hiệu là Kim, lịch sử vẻ vang gọi là Hậu Kim .Năm Thuận Trị thứ 10 ( 1653 ), triều đình Nhà Thanh đã phong hai người làm ngang bang chương kinh ( 昂邦章京 ) tại Ninh Cổ Tháp ( 宁古塔, nay thuộc Mẫu Đơn Giang ). Năm Khang Hi thứ 1 ( 1662 ), ” Ninh Cổ Tháp ngang bang chương kinh ” được đổi thành ” Ninh Cổ Tháp tướng quân ” và chỉ một người được phong chức này. Năm Khang Hi thứ 15 ( 1677 ), trị sở của Ninh Cổ Tháp tướng quân rời đến đất Cát Lâm ngày này. Năm Càn Long thứ 22 ( 1757 ), thể chế này được gọi là ” Cát Lâm tướng quân “. Thời kỳ đầu Nhà Thanh, Cát Lâm tướng quân quản lý một khu vực đến tận biển Nhật Bản ở phía đông, bao trùm đông bộ hai tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang này nay cùng với khu vực phía đông vùng chủ quyền lãnh thổ nằm ở phía nam của Ngoại Hưng An lĩnh của nước Nga ngày này, là đơn vị chức năng hành chính có diện tích quy hoạnh xếp thứ 6, thứ 7 của triều Thanh .
Tranh diễn đạt những di dân người Hán và khách trọ tại một nhà trọ ở phía đông Thông Hóa, 1887Theo điều ước Ái Hồn năm 1858 và điều ước Bắc Kinh năm 1860, vùng đất phía bắc Hắc Long Giang và phía đông Ô Tô Lý Giang bị cắt cho đế quốc Nga, Cát Lâm tướng quân không còn giáp biển. Cũng trong khoảng chừng thời hạn này, triều đình Nhà Thanh đã Open Mãn Châu do những di dân người Hán. Sau đó người Hán đa phần là từ Trực Lệ và bán hòn đảo Sơn Đông đã di cư đến vùng Đông Bắc, sự kiện này được gọi là Sấm Quan Đông ( 闯关东 ), đến đầu thế kỷ XX thì người Hán đã trở thành dân tộc bản địa chiếm đa phần tại đây. Năm Quang Tự ( 1907 ) thứ 33, sau cuộc chiến tranh Nga-Nhật, chính sách Cát Lâm tướng quân được đổi thành Cát Lâm hành tỉnh, tỉnh lị đặt tại thành Cát Lâm. Cát Lâm hành tỉnh được phân thành 4 đạo là Cát Trường, Tân Giang, Y Lan, Diên Cát. Đến năm Tuyên Thống thứ 3 ( 1911 ), hàng loạt Cát Lâm hành tỉnh có 11 phủ, 1 châu, 5 thính, 18 huyện. [ 12 ] Cuối thời Thanh, địa bàn Cát Lâm dần hình thành đặc thù đông bộ là khu vực nông-lâm nghiệp, trung bộ là khu vực nông nghiệp và tây bộ là khu vực nông-mục nghiệp .Năm 1896, Nhà Thanh và Nga đã ký kết Mật ước Trung-Nga, theo đó Nga được phép thiết kế xây dựng tuyến đường sắt qua Hắc Long Giang và Cát Lâm để rút ngắn khoảng cách đến Vladivostok. Tuyến đường tàu này hoàn thành xong vào năm 1903 cùng với một ” tuyến nhánh ” nối từ Cáp Nhĩ Tân đến cảng Lữ Thuận ở Bột Hải, đi qua địa phận tỉnh Cát Lâm thời nay. Sau Chiến tranh Nga-Nhật 1905, phần phía nam của đường tàu Đông Thanh do Nhật Bản quản trị, ga ở đầu cuối của Nga là ga Khoan Thành và ga tiên phong của Nhật Bản là ga Trường Xuân, đều thuộc địa phận Trường Xuân của Cát Lâm ngày này. [ 13 ] [ 14 ]

Thời Dân Quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Trung Hoa Dân Quốc vẫn duy trì tỉnh Cát Lâm như cuối thời Nhà Thanh. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, nhà nước Quốc dân Trung Quốc đã từ từ tịch thu chủ quyền lãnh thổ hành chính so với vùng ” đất nhờ vào ” đường tàu Đông Thanh ( Trung Đông ). Từ năm 1924, Trung Hoa Dân Quốc và Liên Xô cùng quản trị phần phía bắc của tuyến đường tàu này. Từ năm 1928, Phụng hệ quân phiệt Trương Học Lương ở Đông Bắc đã công bố ly khai cơ quan chính phủ Bắc Dương, quy phục cơ quan chính phủ Trung ương Nam Kinh. Đến tháng 7 năm 1929, chính phủ nước nhà Đông Bắc của Trương Học Lương đã hành vi nhằm mục đích cắt đứt chi viện của Liên Xô cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, trục xuất những viên chức Liên Xô trên tuyến đường sắt Trung Đông, niêm phong những tổ chức triển khai thương nghiệp của Liên Xô tại Cáp Nhĩ Tân, mở màn triển khai tịch thu đường tàu Trung Đông. Ngày 18 tháng 7 cùng năm, chính phủ nước nhà Liên Xô do Stalin chỉ huy đã công bố đoạn giao quan hệ với Trung Quốc, lệnh cho quân Liên Xô đóng ở biên giới với tỉnh Hắc Long Giang và tỉnh Cát Lâm sẵn sàng chuẩn bị can thiệp vũ trang. Ngày 14 tháng 8 năm 1929, Liên Xô ven theo tuyến đường sắt Trung Đông để tiến công Trung Quốc, quân Liên Xô giành được thắng lợi và buộc Trung Quốc phải phục sinh chính sách đồng quản trị tuyến đường tàu này như từ năm 1924. [ 15 ]

Thời Mãn Châu quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Sau sự biến Mãn Châu ( 1931 – 1932 ), Nhật Bản đã xâm lăng vùng Đông Bắc Trung Quốc. Tháng 3 năm 1932, người Nhật hình thành nên chính quyền sở tại Mãn Châu quốc do cựu nhà vua Nhà Thanh là Phổ Nghi đứng đầu trên danh nghĩa, Hà Nội Thủ Đô của Mãn Châu quốc là Tân Kinh ( nay là Trường Xuân ). Năm 1934, Phổ Nghi xưng đế. Cũng trong năm 1934, khu vực thuộc tỉnh Cát Lâm cũ được chính quyền sở tại Mãn Châu Quốc phân loại giữa 4 tỉnh Cát Lâm, Gian Đảo ( 間島省 ), Tân Giang ( 濱江省 ), Tam Giang ( 三江省, tỉnh này gồm có cả chủ quyền lãnh thổ của tỉnh Hắc Long Giang cũ ). Tân Kinh là một đơn vị chức năng hành chính độc lập của Mãn Châu Quốc. Đến năm 1937, tỉnh Tân Giang lại tách thành tỉnh Tân Giang và Mẫu Đơn Giang. Năm 1939, tỉnh Tân Giang được tách thành tỉnh Bắc An và tỉnh Tân Giang, còn tỉnh Mẫu Đơn Giang thì được tách thành tỉnh Đông An và tỉnh Mẫu Đơn Giang. Năm 1943, ba tỉnh Mẫu Đơn Giang, Đông An và Gian Đảo được hợp nhất lại thành tổng tỉnh Đông Mãn ( 東滿總省 ) .Đến năm 1935, Liên Xô chuyển quyền quản trị đường tàu Trung Đông cho Mãn Châu Quốc. Vào ngày 8 tháng 8 năm 1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản theo một thỏa thuận hợp tác tại Hội nghị Yalta, và xâm lược Mãn Châu quốc từ Ngoại Mãn Châu. Đúng 0 giờ ngày 9 tháng 8 ( giờ Viễn Đông Nga ), hoạt động giải trí quân sự chiến lược tiên phong mở màn với 76 máy bay ném bom IL-4 của Phương diện quân Viễn Đông 1 đã xâm nhập không phận Mãn Châu quốc oanh kích những tiềm năng quân sự chiến lược – phục vụ hầu cần tại Cáp Nhĩ Tân và Trường Xuân. [ 16 ] Từ ngày 19 đến hết ngày 20 tháng 8 năm 1945, hầu hết những đơn vị chức năng của Đạo quân Quan Đông đã ra hàng và giao nộp vũ khí cho Quân đội Liên Xô. Toàn bộ quân nhân Nhật Bản ra hàng ở Mãn Châu Quốc gồm có 148 tướng, 594.000 sĩ quan và binh sĩ. [ 17 ] Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản công bố đầu hàng vô điều kiện kèm theo, Phổ Nghi công bố thoái vị tại Thông Hóa, Mãn Châu Quốc diệt vong .

Sau Chiến tranh quốc tế thứ 2[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1945, chính phủ nước nhà Quốc dân đã phân vùng Đông Bắc thành 9 tỉnh, lúc đó tỉnh Cát Lâm đặt tỉnh lị tại thành phố Cát Lâm, có 2 thành phố ( Cát Lâm, Trường Xuân ) và 18 huyện ( Vĩnh Cát, Trường Xuân, Y Thông, Nông An, Thư Lan, Hoa Điện, Bàn Thạch, Song Dương, Đức Huệ, Phù Dư, Song Thành, Ngũ Thường, Du Thụ, Đôn Hoa, Giao Hà, Can An, Cửu Đài, Hoài Đức ) cùng kỳ Quách Nhĩ La Tư ( 郭尔罗斯旗 ). Ngoài ra, theo phân loại của chính quyền sở tại Quốc dân, địa phận tỉnh Cát Lâm ngày này còn phân thuộc Liêu Bắc An Đông, Tùng Giang .Với sự ủng hộ của Liên Xô, Mãn Châu nói chung và tỉnh Cát Lâm ngày này nói riêng trở thành một bàn đạp cho lực lượng cộng sản trong cuộc nội chiến mà họ giành thắng lợi vào năm 1949. Liên Xô đã trao trả trọn vẹn quyền quản trị đường tàu Trung Đông cho chính phủ nước nhà Trung Quốc ( mà họ đã đồng quản trị từ năm 1945 ) vào năm 1952 .Năm 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đã chia khu vực Đông Bắc ra thành 5 tỉnh : Hắc Long Giang, Cát Lâm, Tùng Giang, Liêu Đông và Liêu Tây. Năm 1954, Cộng hòa Nhân dân Nước Trung Hoa thực thi kiểm soát và điều chỉnh hành chính, cắt 7 huyện của tỉnh Hắc Long Giang cho tỉnh Cát Lâm, 7 huyện này cùng với huyện Can An của Cát Lâm hợp thành chuyên khu Bạch Thành, cắt 1 thành phố và 9 huyện của tỉnh Liêu Đông về tỉnh Cát Lâm và thiết lập chuyên khu Thông Hóa. Cùng với đó, tỉnh Cát Lâm còn đảm nhiệm thành phố Liêu Nguyên và hai huyện Tây Ân và Đông Phong của tỉnh Liêu Đông cũ ; thành phố Tứ Bính, huyện Song Liêu và huyện Lê Thụ của tỉnh tỉnh Liêu Tây cũ. Cùng năm, chính quyền sở tại nhân dân tỉnh Cát Lâm đã từ thành phố Cát Lâm dời đến Trường Xuân. Năm 1969, 1 huyện và 1 kỳ của minh Triết Lý Mộc và minh Hô Luân Bối Nhĩ của Nội Mông đã được chuyển sang cho tỉnh Cát Lâm, đến năm 1979 lại trả về Nội Mông. [ 18 ]Vùng Đông Bắc Trung Quốc nói chung và tỉnh Cát Lâm nói riêng từng là trái tim công nghiệp của Trung Quốc, tuy nhiên, sau cải cách Open, nền công nghiệp của vùng đã tụt hậu so với vùng ven biển phía đông Trung Quốc, do đó chính quyền sở tại Trung Quốc đã phải đề ra kế hoạch Chấn hưng vùng công nghiệp cũ Đông Bắc ( 振兴东北老工业基地 ) .Trong những năm giữa và cuối thập niên 1990, đã có nhiều người Triều Tiên vượt biên giới sang Trung Quốc để tránh nạn đói ở nước này. Những người tị nạn Triều Tiên thường vượt biên giới qua sông Đồ Môn sang tỉnh Cát Lâm vì sông này có mực nước thấp và hẹp. [ 19 ]
Bản đồ địa hình Cát Lâm Thành phố Cát Lâm trong mùa đông Thiên Trì trên đỉnh Trường Bạch, hồ được phân chia giữa Trung Quốc và Triều TiênCát Lâm nằm ở Đông Bắc Trung Quốc, giáp với tỉnh Hắc Long Giang ở phía bắc, giáp với tỉnh Liêu Ninh ở phía tây nam, giáp với khu tự trị Nội Mông Cổ ở phía đông, giáp với vùng Primorsky của Nga ở một đoạn nhỏ phía đông, và giáp với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ( thành phố Rason, tỉnh Hamgyong Bắc, tỉnh Ryanggang, tỉnh Chagang ) ở phía đông nam qua Đồ Môn Giang, Áp Lục Giang và Trường Bạch Sơn. Cát Lâm nằm giữa 122 ° – 131 ° kinh Đông và 41 ° – 46 ° vĩ Bắc. Tổng diện tích của tỉnh Cát Lâm là khoảng chừng 187.400 km², chiếm khoảng chừng 2 % diện tích quy hoạnh Trung Quốc. Tỉnh Cát Lâm trải dài 750 km theo chiều đông – tây và 600 km theo chiều bắc-nam. [ 20 ] Tỉnh Cát Lâm có 1438,7 km biên giới quốc tế, trong đó tuyến biên giới Trung-Nga của tỉnh dài 232,7 km và tuyến biên giới Trung-Triều của tỉnh dài 1.206 km. [ 21 ]

Địa hình, địa mạo[sửa|sửa mã nguồn]

Nếu lấy Đại Hắc Sơn ( 大黑山 ) ở trung bộ tỉnh làm ranh giới, tỉnh Cát Lâm có vị trí cao ở đông nam với những vùng núi non và gò đồi có cao độ trên 500 m thuộc dãy núi Trường Bạch. Trường Bạch Sơn là núi cao nhất tỉnh Cát Lâm cũng như bán đảo Triều Tiên với cao độ 2.744 m. Thiên Trì trên đỉnh núi được phân loại giữa Trung Quốc và Triều Tiên. Trung và tây bộ tỉnh Cát Lâm là đồng bằng Tùng-Liêu to lớn ; vùng này có vị trí thấp và phẳng phiu, là khu vực mục nghiệp của Cát Lâm. Trong đó, trung bộ tỉnh Cát Lâm là vùng đồng bằng phẳng phiu, còn tây bộ có những đồng cỏ, hồ ao, đất ngập nước, vùng cát. Địa mạo Cát Lâm đa phần do địa mạo núi lửa, địa mạo xói mòn xâm thực, địa mạo đất đỏ bồi tích và địa mạo đồng bằng phù sa cấu thành. Ngoài dãy núi Trường Bạch, trên địa bàn Cát Lâm còn có Đại Hắc Sơn, Trương Quảng Tài Lĩnh ( 张广才岭 ), Cát Lâm Cáp Đạt Lĩnh ( 吉林哈达岭 ), Lão Lĩnh ( 老岭 ), Mẫu Đơn Lĩnh ( 牡丹岭 ). Lấy Tùng Liêu Phân Thủy Lĩnh ( 松辽分水岭 ) làm ranh giới, vùng đồng bằng của tỉnh Cát Lâm phân thuộc đồng bằng Tùng Nộn ở phía bắc và đồng bằng Liêu Hà ở phía nam. Hiện nay, vẫn hoàn toàn có thể trông thấy di tích lịch sử những sông băng có niên đại từ kỷ Đệ Tứ ở núi Trường Bạch. Địa mạo núi lửa chiếm 8,6 % tổng diện tích quy hoạnh của Cát Lâm. [ 22 ]
Cát Lâm có khí hậu ôn đới lục địa gió mùa, bốn mùa rõ ràng. Mùa xuân có gió lớn và khô, mùa hè có nhiệt độ cao và mưa nhiều, mùa thu có khung trời trong xanh và thời tiết thoáng mát, mùa đông lạnh lê dài. Từ đông nam đến tây-bắc, khí hậu dần chuyển từ khí hậu bán ẩm sang khí hậu bán khô hạn. Nhiệt độ trung bình năm của hầu hết những khu vực tại tỉnh Cát Lâm là từ 3-5 ℃, nhiệt độ trung bình vào mùa đông là dưới – 11 °C còn nhiệt độ trung bình vào mùa hè là trên 23 °C. Chênh lệch nhiệt độ trong năm tại tỉnh Cát Lâm là từ 35 °C – 42 °C, chênh lệch nhiệt độ trong một ngày thường là từ 10 °C – 14 °C. Trung bình, mỗi năm tỉnh Cát Lâm có từ 100 – 160 ngày không có sương giá, và có từ 2.259 – 3.016 giờ nắng. Lượng giáng thủy trung bình năm của tỉnh Cát Lâm là từ 400 – 600 mm, có sự độc lạ theo mùa và khu vực. 80 % tổng lượng giáng thủy của tỉnh Cát Lâm tập trung chuyên sâu vào mùa hè và đông bộ của tỉnh là nơi có lượng mưa cao nhất. [ 23 ] Lượng mưa vùng núi đông bộ là khoảng chừng 800 mm, vùng gò đồi trung bộ là khoảng chừng 600 mm, vùng đồng bằng tây bộ chỉ 400 mm ; tuy nhiên, lượng nước bốc hơi lại tăng dần từ đông nam lên tây-bắc tỉnh Cát Lâm. [ 24 ]
Tổng diện tích quy hoạnh mặt nước của tỉnh Cát Lâm là 265.500 ha. Trên địa phận tỉnh Cát Lâm có 1648 sông lớn nhỏ có diện tích quy hoạnh lưu vực trên 20 km², thuộc 5 mạng lưới hệ thống sông lớn là Tùng Hoa Giang, Liêu Hà, Áp Lục Giang, Đồ Môn Giang, Tuy Phân Hà. Cùng với đó, tỉnh Cát Lâm có 1397 hồ lớn nhỏ có diện tích quy hoạnh mặt phẳng trên 100 mẫu ( 0,067 km² ). [ 25 ]Dãy núi Trường Bạch là nơi khởi xướng của ba con sông lớn trên địa phận tỉnh Cát Lâm là Áp Lục, Đồ Môn và Tùng Hoa. Áp Lục Giang chảy về phía tây nam, sang tỉnh Liêu Ninh rồi đổ ra vịnh Triều Tiên và tạo thành biên giới tự nhiên giữa tỉnh Cát Lâm và Triều Tiên ; tổng chiều dài của sông Áp Lục là 795 km và đoạn sông tại Cát Lâm dài 575 km. Sông Áp Lục cũng là nơi diễn ra nhiều hoạt động giải trí quân sự chiến lược trong cuộc chiến tranh Thanh-Nhật, cuộc chiến tranh Nga-Nhật và cuộc chiến tranh Triều Tiên. Đoạn sông Áp Lục chảy trên địa phận tỉnh Cát Lâm có đập Vân Phong ( 云峰 ), được người Nhật kiến thiết xây dựng từ năm 1942 và nay nước trong hồ chứa do đập tạo ra được sử dụng cho cả mục tiêu phát điện và thủy lợi. [ 26 ]

Đồ Môn Giang chảy về phía đông bắc, tạo thành biên giới tự nhiên giữa Trung Quốc và Triều Tiên và giữa Triều Tiên với Nga rồi đổ ra biển Nhật Bản; 15 km cuối cùng của Đồ Môn Giang từ thời Nhà Minh đến gần cuối thời Thanh vẫn là biên giới giữa Trung Quốc và Triều Tiên, tuy nhiên sau điều ước Bắc Kinh vào năm 1860 thì bờ bắc 15 km cuối của Đồ Môn Giang thuộc về Nga, Trung Quốc mất quyền đi ra biển Nhật Bản qua sông Đồ Môn[27] Mặc dù Đồ Môn Giang có nhiều lính Triều Tiên tuần tra song nó được những người tị nạn Triều Tiên trong thời gian gần đây lựa chọn để vượt biên sang Trung Quốc vì con sông này nông và hẹp hơn Áp Lục Giang, có thể vượt qua một cách dễ dàng bằng cách đi bộ hoặc bơi ở nhiều điểm.[19] Hải Lan Giang (海兰江) là một chi lưu lớn của Đồ Môn Giang, sông này có chiều dài 145 km và chảy trên địa phận Diên Biên.[28]

Tùng Hoa Giang có diện tích quy hoạnh lưu vực là 545.600 km² và là con sông có diện tích quy hoạnh lưu vực lớn thứ ba tại Trung Quốc, chỉ sau Trường Giang và Hoàng Hà. Trên địa phận tỉnh Cát Lâm, Tùng Hoa Giang chảy theo hướng tây-bắc từ đầu nguồn cho đến khi hợp lưu với Nộn Giang tại phía bắc Tùng Nguyên, đoạn này của Tùng Hoa Giang từng được gọi là ” Đệ Nhị Tùng Hoa Giang ” ( 第二松花江 ) và tên tuổi này được sử dụng cho đến năm 1988. Sau khi hợp lưu với Nộn Giang, Tùng Hoa Giang trở thành một đoạn ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Cát Lâm và tỉnh Hắc Long Giang rồi đi trọn vẹn vào tỉnh cực bắc Trung Quốc. Huy Phát Hà ( 辉发河 ) là một chi lưu lớn ở thượng nguồn Tùng Hoa Giang, sông chảy theo hướng hướng đông bắc và hợp với Tùng Hoa Giang tại Hoa Điện, có tổng chiều dài 268 km và gần như hàng loạt chảy trên địa phận tỉnh Cát Lâm. Huy Phát Hà cũng gắn liền với bộ lạc Huy Phát của người Nữ Chân xưa kia. Trên thượng du Tùng Hoa Giang có Tùng Hoa hồ, hay còn gọi là hồ chứa Phong Mãn ( 丰满水库 ). Tùng Hoa hồ là một hồ nước tự tạo, cách TT thành phố Cát Lâm 24 km, được hình thành do chặn đập trên Tùng Hoa Giang để ship hàng cho nhà máy sản xuất thủy điện được thiết kế xây dựng từ năm 1937 với chiều dài 200 km, nơi rộng nhất là 10 km, điểm sâu nhất là 75 m. Tổng diện tích hồ là khoảng chừng 500 km², là hồ có diện tích quy hoạnh mặt lớn nhất tỉnh Cát Lâm với dung tích tối đa là 10,8 tỷ mét³ nước. [ 29 ]Ẩm Mã Hà ( 饮马河 ) có chiều dài 387 km và hàng loạt dòng chảy của nó đều nằm trên địa phận tỉnh Cát Lâm. Trên Ẩm Mã Hà có hồ chứa Thạch Đầu Khẩu Môn ( 石头口门水库 ), được kiến thiết xây dựng từ năm 1959, có diện tích quy hoạnh lưu vực 4944 km² và là một nguồn phân phối nước đa phần của tỉnh lị Trường Xuân. [ 30 ] Nạp Lâm Hà ( 拉林河 ) bắt nguồn từ Trương Quảng Tài Lĩnh, có tổng chiều dài 244 km và nhiều phần của sông này tạo thành ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang. Nạp Lâm Hà đổ vào Tùng Hoa Giang tại huyện Phù Dư của tỉnh Cát Lâm. [ 31 ] Y Thông Hà ( 伊通河 ) là chi lưu lớn nhất của Ẩm Mã Hà, sông này dài 342,5 km, trong đó có 23 km chảy qua khu vực đô thị của Trường Xuân, nó còn được gọi là ” sông mẹ ” của thành phố tỉnh lị của tỉnh Cát Lâm. [ 32 ] Trên Y Thông Hà có hồ chứa Tân Lập Thành ( 新立城水库 ), hồ cách TT Trường Xuân khoảng chừng 20 km về phía thượng nguồn và có diện tích quy hoạnh lưu vực 1970 km². [ 33 ]Nộn Giang cũng là một con sông lớn ở Đông Bắc Trung Quốc, sông này bắt nguồn từ Đại Hưng An lĩnh rồi chảy xuống phía nam, tạo thành một đoạn ranh giới tự nhiên giữa Bạch Thành và Tùng Nguyên của tỉnh Cát Lâm với tỉnh Hắc Long Giang. Thao Nhi Hà ( 洮儿河 ) là một chi lưu quan trọng của Nộn Giang, Thao Nhi Hà bắt nguồn từ Nội Mông rồi chảy sang tỉnh Cát Lâm với tổng chiều dài 595 km. Tại Cát Lâm, Thao Nhi Hà chảy trên đất Bạch Thành và chỉ cách nơi hợp lưu với Nộn Giang vài trăm mét, Thao Nhi Hà bị ngăn đập để tạo thành hồ chứa Nguyệt Lượng Phao ( 月亮泡水库 ) [ 34 ] Hồ chứa Nguyệt Lượng Phao có mục tiêu phát điện, cấp nước trấn áp lũ và thủy lợi, đặc biệt quan trọng như trong trận lụt năm 2003, khi hồ chứa này đã giúp giảm lũ trên sông Tùng Hoa. [ 24 ]Mẫu Đơn Giang là một chi lưu lớn của Tùng Hoa Giang, sông có chiều dài 726 km và bắt nguồn từ dãy núi Trường Bạch thuộc Cát Lâm, trong đó đoạn chảy trên địa phận Cát Lâm ( Đôn Hóa ) dài 232 km, sau đó chảy sang tỉnh Hắc Long Giang. [ 35 ] Tuy Phân Hà có chiều dài 242 km, bắt nguồn từ đông bộ Cát Lâm, chảy qua đông nam tỉnh Hắc Long Giang, qua vùng Primorsky của Nga rồi đổ ra biển Nhật Bản. Mục Lăng Hà ( 穆棱河 ) bắt nguồn từ vùng ranh giới giữa tỉnh Cát Lâm và tỉnh Hắc Long Giang rồi đổ vào Ô Tô Lý Giang .Hoắc Lâm Hà ( 霍林河 ) cũng từng là một chi lưu của Nộn Giang, sông bắt nguồn từ Nội Mông và đổ vào Nộn Giang tại Bạch Thành của Cát Lâm. Tuy nhiên, do khu vực thượng du và trung du đã xây hồ chứa và sử dụng một lượng lớn nước sông nên Hoắc Lâm Hà đã dần khô cạn từ thập niên 1960. [ 36 ] Hồ Tra Can ( 查干湖 ) nằm ở huyện Tiền Quách Nhĩ La Tư nay là đoạn ở đầu cuối của Hoắc Lâm Hà, hồ nằm trên cao độ 126 mét so với mực nước biển, diện tích quy hoạnh lớn nhất là 307 km² ( có nguồn cho là 420 km² ), nước sâu 4 mét, chu vi 104,5 km, dung tích tối đa là 415 triệu m³, là hồ tự nhiên lớn nhất tỉnh Cát Lâm, [ 37 ] và cũng là hồ nước ngọt lớn nhất tại vùng bình nguyên Đông Bắc Trung Quốc. [ 38 ]Trong mạng lưới hệ thống Liêu Hà, Đông Liêu Hà bắt nguồn từ huyện Đông Liêu của Cát Lâm. Đông Liêu Hà có tổng chiều dài 448 km và diện tích quy hoạnh lưu vực là 11306 km², đa phần nằm trên địa phận Liêu Nguyên và Tứ Bình của tỉnh Cát Lâm. Sau đó, Đông Liêu Hà hợp lưu với Tây Liêu Hà trên địa phận tỉnh Liêu Ninh để tạo thành Liêu Hà. [ 39 ] Tây Liêu Hà là một chi lưu chính của Liêu Hà và có 44,2 km sông chảy qua Song Liêu của tỉnh Cát Lâm. Tân Khai Hà là một chi lưu trọng điểm của Tây Liêu Hà, đoạn chảy qua Song Liêu dài 25 km. [ 40 ]
Đông bộ tỉnh Cát Lâm là khu sinh thái xanh rừng nguyên sinh Trường Bạch Sơn, trung đông bộ là khu sinh thái xanh thảm thực vật tái sinh đồi núi thấp, trung bộ là khu sinh thái xanh đồng bằng Tùng Liêu còn tây bộ là khu sinh thái xanh đất ngập nước đồng cỏ. Trong đó, vùng núi Trường Bạch có những khu rừng to lớn, độ bao trùm rừng ở mức cao, rất đa dạng và phong phú về những loài sinh vật, lượng mưa dồi dào. Vùng đồi núi thấp đông trung bộ có những khu rừng tái sinh và do con người trồng, độ bao trùm rừng cũng ở mức cao, phong phú và đa dạng về tài nguyên nước và tài nguyên. Đồng bằng Tùng Liêu ở trung bộ Cát Lâm có đất đai phì nhiêu và to lớn, có điều kiện kèm theo thuận tiện để sản xuất nông nghiệp. Vùng đồng cỏ ở tây bộ Cát Lâm cũng rất thoáng rộng, với những vùng ao hồ và đất ngập nước có diện tích quy hoạnh khá lớn, có điều kiện kèm theo thuận tiện để tăng trưởng chăn nuôi. [ 41 ]Tính Cát Lâm có 36 khu bảo tồn vạn vật thiên nhiên, trong đó có 13 khu bảo tồn tự nhiên cấp vương quốc. Tổng diện tích những khu bảo tồn này là 2,23 triệu ha, chiếm 12,26 % diện tích quy hoạnh toàn tỉnh. Năm 1980, UNESCO đã công nhận Trường Bạch Sơn là khu vực bảo vệ ” sinh quyển và con người “. Năm 1992, Trường Bạch Sơn được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế nhìn nhận là khu bảo tồn tự nhiên cấp A quốc tế. [ 42 ]

Tại Trung Quốc, Cát Lâm được mệnh danh là cố hương của “Đông Bắc tam bảo” là nhân sâm, da lông chồn (điêu bì) và nhung hươu (lộc nhung). Ngoài ra, còn có các sản vật nổi tiếng khác như linh chi, thiên ma, bất lão thảo, bắc kì, cũng như tùng nhung, hầu đầu ma. Tỉnh Cát Lâm có khoảng 3.890 loài thực vật hoang dã, trong đó bao gồm hơn 270 loài địa y, hơn 900 loài nấm, 140 loài dương xỉ, 30 loài hạt trần, trên 2200 loài thực vật có hoa.[43] Vùng núi Trường Bạch có trên 2.300 loài thực vật, trong đó có nhiều loài có giá trị về kinh tế, dược phẩm như thông Triều Tiên, thông Trường Bạch (Pinus syluestriformis), Picea jezoen, Fraxinus mandschurica.[20]

Tỉnh Cát Lâm có khoảng 445 loài động vật hoang dã, trong đó có 14 loài lưỡng cư, 16 loài bò sát, 335 loài chim, 80 loài thú, chiếm khoảng 17,66% số loài động vật hoang dã của toàn Trung Quốc, riêng số loài chim hoang dã chiếm 30,36% toàn Trung Quốc. Trong số đó, có 76 loài được liệt vào danh mục các loài động vật hoang dã được bảo hộ trọng điểm quốc gia (14 loài thú, 61 loài chim).[43] Các loài động vật có da và lông có giá trị trên địa bàn tỉnh Cát Lâm là hươu sao, chồn zibelin (Martes zibellina), rái cá, linh miêu, hổ Siberi, báo hoa mai; các loài động vật khác gồm nai sừng tấm (Cervus canadensis), hươu xạ, gấu, lửng châu Á (Meles leucurus), ếch đồng, ếch thường; các loài có giá trị lớn về kinh tế là lợn rừng, hoẵng Siberi (Capreolus pygargus), trĩ.[20]

Lịch sử dân số
Năm Số dân ±%
1897 779.000 —    
1912 5.580.000 +616.3%
1949 10.085.000 +80.7%
1950 10.295.000 +2.1%
1960 13.971.000 +35.7%
1970 18.604.000 +33.2%
1980 22.107.000 +18.8%
1990 24.402.000 +10.4%
2000 26.273.000 +7.7%
2001 26.908.000 +2.4%
2007 26.960.500 +0.2%
2010 27.462.000 +1.9%
2011 27.494.100 +0.1%
[44]

Đầu thời Nhà Thanh, do là nơi phát tích của người Mãn, khu vực tỉnh Cát Lâm được liệt vào cấm địa ( tức cấm người Hán di cư đến ). Đến cuối thời Nhà Thanh, triều đình đã bãi bỏ lệnh cấm và thực thi chủ trương ” di dân thật biên ” sau khi để mất Ngoại Mãn Châu, được cho phép người Hán di cư ra ngoài Quan Ngoại ( tức vùng đất ngoài Sơn Hải quan ), sự kiện này được gọi là Sấm Quan Đông ( 闯关东 ), nhân khẩu vùng đất nay là tỉnh Cát Lâm đã có mức tăng trưởng đáng kể. [ 21 ] Năm 2007, tỉnh Cát Lâm có 26.960.500 dân cư, trong đó có 12.158.900 người được xác lập là nhân khẩu phi nông nghiệp ( chiếm 45,1 % ) và 14.801.600 người được xác lập là nhân khẩu nông nghiệp ( 54,9 % ). [ 21 ]Trong tiến trình 1950 – 1955, tỷ xuất sinh và tỷ suất tăng dân số tự nhiên của tỉnh Cát Lâm lần lượt đạt 40,07 ‰, và 31,85 ‰ ; trong quá trình 1962 – 1972, thì tỷ suất tương ứng là 37,33 ‰ và 28,66 ‰. Từ năm 1974, do thực thi chủ trương kế hoạch hóa mái ấm gia đình, tỷ suất sinh và vận tốc tăng dân số tự nhiên trên địa phận tỉnh Cát Lâm đã giảm xuống. Trong quá trình 1986 – 1990, tỷ xuất sinh và vận tốc tăng dân số tự nhiên của tỉnh lần lượt là 18,99 ‰ và 13,05 ‰. [ 45 ]Trong khoảng chừng cuối những năm 2000, tình hình dân số của tỉnh Cát Lâm là tỷ xuất sinh thấp, tỷ xuất tử trận thấp và dân số tăng trưởng ở mức thấp. [ 45 ] Tính đến cuối năm 2011, tổng nhân khẩu toàn tỉnh Cát Lâm là khoảng chừng 27.494.100 người, trong năm này, tỷ xuất sinh trên địa phận là 6,53 ‰ còn tỷ xuất tử trận là 5,51 ‰, tỷ suất giới tính là 102,68 nam / 100 nữ. Tỉnh Cát Lâm có sự hiện hữu của 44/56 dân tộc bản địa được công nhận tại Trung Quốc, trong đó người Hán chiếm chủ yếu với số nhân khẩu là 24.816.300 người, chiếm 90,97 %. Trong số những dân tộc thiểu số tại tỉnh Cát Lâm, người Triều Tiên, người Mãn, người Mông Cổ, người Hồi và người Tích Bá là những dân tộc bản địa đã sinh sống nhiều đời trên địa phận. Người Triều Tiên hầu hết phân bổ ở Diên Biên, TP. Cát Lâm, Thông Hoa và Bạch Sơn, tức đông bộ Cát Lâm. Người Mông Cổ và người Tích Bá chủ yếu phân bổ tại Bạch Thành và Tùng Nguyên, tức viễn tây Cát Lâm. Người Mãn và người Hồi cư trú hầu hết tại Trường Xuân, TP. Cát Lâm, Thông Hóa, Tứ Bình. [ 20 ] Cư dân Cát Lâm hầu hết nói Quan thoại Đông Bắc, trong đó, có 2/3 phương ngữ của Quan thoại Đông Bắc được nói trên địa phận tỉnh : phương ngữ Cát-Thẩm ( 吉瀋片 ) và phương ngữ Cáp-Phụ ( 哈阜片 ) .Tỉnh Cát Lâm có châu tự trị dân tộc bản địa Triều Tiên Diên Biên, huyện tự trị dân tộc bản địa Triều Tiên Trường Bạch, huyện tự trị dân tộc bản địa Mông Cổ Tiền Quách Nhĩ La Tư, huyện tự trị dân tộc bản địa Mãn Y Thông. Ngoài ra, trên địa phận tỉnh Cát Lâm còn có 34 hương ( trấn ) dân tộc bản địa, trong đó có 10 hương dân tộc bản địa Mông Cổ, 10 hương ( trấn ) dân tộc bản địa Mãn, 7 hương ( trấn ) dân tộc bản địa Triều Tiên, 3 hương dân tộc bản địa Mãn-dân tộc Triều Tiên, 2 hương dân tộc bản địa Triều Tiên-dân tộc Mãn. [ 20 ]Hiện nay, số người dân tộc bản địa Triều Tiên tại Trung Quốc nói chung và tỉnh Cát Lâm nói riêng hầu hết là hậu duệ của những người di cư từ bán đảo Triều Tiên từ năm 1860 đến năm 1945. Trong những năm 1860, một loạt thiên tai đã xảy ra tại Triều Tiên, dẫn đến nạn đói thảm khốc. Cùng với sự thả lỏng trấn áp biên giới và gật đầu di dân từ bên ngoài đến vùng Đông Bắc Trung Quốc ( Sấm Quan Đông ) của Nhà Thanh, nhiều người Triều Tiên đã lựa chọn di cư. Khoảng năm 1894, một ước tính cho thấy có 34.000 người Triều Tiên sống ở Đại Thanh Quốc, với số lượng ngày càng tăng và lên 109.500 vào năm 1910. Sau khi Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên, nhiều người Triều Tiên cũng đã vận động và di chuyển đến Trung Quốc. Sau năm 1949, ước tính có khoảng chừng 600.000 người, tương tự 40 % số người Triều Tiên tại Trung Quốc vào thời gian đó, đã lựa chọn hồi hương về bán đảo Triều Tiên. Những người còn lại đã chọn ở lại Trung Quốc và đã nhận quốc tịch Trung Quốc từ 1949 ( kết thúc Nội chiến Trung Quốc ) đến năm 1952. Tuy nhiên, khoảng chừng năm 1990 trở lại đây, dân số dân tộc bản địa Triều Tiên ở châu tự trị Diên Biên đã giảm xuống do di cư. Tỷ lệ dân tộc bản địa Triều Tiên ở đây đã giảm từ 60,2 % năm 1953 xuống 36,3 % năm 2000. Sự đổi khác này phản ánh những dịch chuyển trong xã hội của người dân tộc bản địa Triều Tiên do nền kinh tế tài chính tăng trưởng cao của Trung Quốc. Người Triều Tiên là một trong những dân tộc bản địa có trình độ giáo dục cao nhất tại Trung Quốc, [ 46 ] và được coi là mẫu mực cho những dân tộc thiểu số. [ 47 ] Hầu hết người Trung Quốc gốc Triều Tiên có nguồn gốc từ vùng Hamgyong của Bắc Triều Tiên, và họ nói phương ngữ Hamgyong của tiếng Triều Tiên. [ 48 ]
Giáo đường Tin Lành tại Trường XuânSố Fan Hâm mộ Phật giáo trên địa phận tỉnh Cát Lâm được ước tính là khoảng chừng 450.000 người, đại đa số thuộc phái Tịnh độ tông tuy nhiên cũng có thiểu số theo Thiên Thai tông, Thiền tông, Tào Động tông và những tông phái khác tuy nhiên đặc thù tông phái không được biểu lộ rõ ràng. Các cơ sở Phật giáo hầu hết là Bàn Nhược tự ( 般若寺 ) ở Trường Xuân, Bắc Sơn miếu quần ( 北山庙群 ) ở tp Cát Lâm, Di Đà tự ( 弥陀寺 ) ở Liêu Nguyên, Chính Giác tự ( 正觉寺 ) ở Đôn Hóa, Thái Gia Câu Từ Vân tự ( 蔡家沟慈云寺 ) tại huyện Phù Dư, Tịnh Nghiệp Liên tự ( 净业莲寺 ) tại Tứ Bình, Long Tuyền tự ( 龙泉寺 ) tại Mai Hà Khẩu, Hoa Nghiêm tự ( 华严寺 ) tại Bạch Thành, Thanh Sơn tự ( 青山寺 ) tại Bạch Thành. [ 49 ]Đạo giáo đã truyền đến địa phận tỉnh Cát Lâm thời nay từ nửa sau thế kỷ VI, bị đứt đoạn vào thời Nguyên và Minh. Năm Khang Hi thứ 3 ( 1664 ) thời Thanh, tôn giáo này lại được truyền đến tỉnh, đến năm 1948 thì toàn tỉnh có 125 cung quán, trên 900 đạo sĩ. Hiện nay, toàn tỉnh Cát Lâm có 14 cung quán với 79 đạo sĩ và trên 8.600 Fan Hâm mộ Đạo giáo. Các cơ sở Đạo giáo hầu hết là Ngọc Hoàng những tại Thông Hóa và Phúc Thọ cung tại Liêu Nguyên. [ 50 ]Toàn tỉnh Cát Lâm có khoảng chừng trên 140.000 người [ 51 ] theo Hồi giáo với gần 90 thánh đường Hồi giáo ( gọi là thanh chân tự ). Các thánh đường Hồi giáo hầu hết trên địa phận tỉnh là : Thanh chân tự Trường Xuân ( 长春市清真寺 ), Tống Gia thanh chân tự ( 宋家清真寺 ) tại Trường Xuân, Hạo Nguyệt Lễ Bái điện ( 长春皓月礼拜殿 ) tại Trường Xuân, Bắc thanh chân tự tại Cát Lâm, Tây thanh chân tự tại Cát Lâm, Đông thanh chân tự tại Cát Lâm, Củng Bắc thanh chân tự tại Cát Lâm .Tính Cát Lâm hiện có khoảng chừng gần 80.000 [ 52 ] Fan Hâm mộ Công giáo La Mã, có 72 giáo đường ĐK chính thức. Do yếu tố lịch sử dân tộc, đại bộ phận Fan Hâm mộ Công giáo tại tỉnh Cát Lâm sinh sống tại nông thôn, hình thàh những điểm tụ cư. Các giáo đường đa phần gồm nhà thời thánh thánh Têrêsa Trường Xuân, nhà thời thánh Thánh Tâm Cát Lâm ( 吉林耶稣圣心堂 ) .Tỉnh Cát Lâm có khoảng chừng gần 360.000 [ 53 ] Fan Hâm mộ Tin Lành, chiếm 37 % số Fan Hâm mộ những tôn giáo trên địa phận, với hơn 1.300 cơ sở ĐK hoạt động giải trí chính thức. Các giáo đường Tin Lành hầu hết gồm nhà thời thánh Tin Lành Trường Xuân ( 长春基督教会 ), nhà thời thánh Tin Lành tp Cát Lâm, nhà thời thánh Tin Lành Tứ Bình, nhà thời thánh Tin Lành Thông Hóa .

Các đơn vị chức năng hành chính[sửa|sửa mã nguồn]

Cát Lâm bao gồm 8 thành phố thuộc tỉnh (địa cấp thị) và 1 châu tự trị.

Thổ nhưỡng tỉnh Cát Lâm nằm trong đới đất đen, hàm lượng chất hữu cơ ở tầng đất trên cùng trong khoảng chừng 3-6 % và hoàn toàn có thể lên đến trên 15 %. Tổng diện tích đất sử dụng cho mục tiêu nông nghiệp của toàn tỉnh ( gồm có đất canh tác, đất rừng, đất đồng cỏ, đất và mặt nước khu công trình thủy lợi Giao hàng nông nghiệp ) là khoảng chừng 16,4 triệu ha, chiếm 86 % tổng diện tích quy hoạnh toàn tỉnh, cao hơn 17 % so với mức trung bình toàn Trung Quốc. Diện tích đất canh tác của tỉnh Cát Lâm là khoảng chừng 5.535.000 ha, chiếm 30 % diện tích quy hoạnh toàn tỉnh, trung bình đạt 3,05 mẫu / người, gấp hai lần mức trung bình của cả Trung Quốc. [ 54 ] Diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh Cát Lâm là 9.828.600 ha, chiếm 52,03 % tổng diện tích quy hoạnh toàn tỉnh, trong đó có 7.882.500 ha đất rừng. Tổng dự trữ tài nguyên gỗ của tỉnh Cát Lâm là 818 triệu m³, đứng thứ sáu cả nước, tỷ suất bao trùm rừng đạt 42,1 %. [ 21 ] Ở vùng thảo nguyên tây bộ tỉnh Cát Lâm, chiếm lợi thế là những loại cỏ mọc thành bụi và những loại cỏ thân rễ sống nhiều năm, tỷ suất bao trùm đạt 50-70 %, là vùng sản xuất bò thương phẩm và cừu đa phần tại phía bắc Trung Quốc. Diện tích thảo nguyên hoàn toàn có thể tận dụng cho chăn nuôi gia súc của tỉnh Cát Lâm là 4.379.000 ha, tập trung chuyên sâu đa phần ở tây bộ và đông bộ. [ 21 ] Thổ nhưỡng Cát Lâm hợp với những cây xanh như đỗ, cây lấy dầu, củ cải ngọt, thuốc lá, gai, những loại cây lấy củ, nhân sâm, cây dùng làm dược phẩm, cây ăn quả. Diện tích được gieo cấy là 3.959.000 ha. Cát Lâm là tỉnh sản xuất lương thực thương phẩm lớn nhất tại Trung Quốc với nhiều ngô, đậu tương và gạo. [ 20 ]Các ngành công nghiệp chủ yếu của tỉnh Cát Lâm là : xe hơi, hóa dầu, chế biến nông sản, y dược, công nghệ thông tin – điện tử, sản xuất thiết bị, luyện kim, vật tư kiến thiết xây dựng, dệt và nguồn năng lượng. Theo truyền thống cuội nguồn, tỉnh Cát Lâm được xem là một TT dược phẩm lớn, với sản lượng nhân sâm và nhung hươu vào hàng lớn nhất Trung Quốc, những thứ được sử dụng thoáng đãng trong Đông y. [ 55 ] 98 % tài nguyên thủy năng của tỉnh Cát Lâm tập trung chuyên sâu ở vùng núi phía đông, với một số ít xí nghiệp sản xuất thủy điện lớn như Bạch Sơn ( 白山 ), Hồng Thạch ( 红石 ), Vân Phong ( 云峰 ), Phong Mãn ( 丰满 ). [ 25 ] Năm 2011, vốn góp vốn đầu tư quốc tế được sử dụng trên thực tiễn trên địa bàn Cát Lâm là 4,947 tỉ USD, trong đó góp vốn đầu tư trực tiếp quốc tế là 1,481 tỉ USD. Cũng trong năm 2011, theo thống kê của hải quan, giá trị sản phẩm & hàng hóa xuất nhập khẩu của tỉnh Cát Lâm là 22,047 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 4,998 tỉ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 17,049 tỉ USD. [ 20 ] Năm 2009, tỷ suất ba khu vực trong nền kinh tế tài chính của tỉnh Cát Lâm là 13,6 : 48,5 : 37,9. [ 56 ]Tính đến năm 2011, người ta đã phát hiện ra 136 loại tài nguyên trên địa phận tỉnh Cát Lâm, trong đó đã xác định được trữ lượng của 93 loại và đã thực thi khai thác 75 loại. Trong đó, tỉnh Cát Lâm có 22 loại tài nguyên có trữ lượng đứng vào năm vị trí tiên phong tại Trung Quốc. Các loại tài nguyên hầu hết gồm : than đá còn gần 2,1 tỉ tấn, dầu mỏ với trữ lượng còn có năng lực khai thác là 133,99 triệu tấn, quặng sắt với trữ lượng còn lại là 460 nghìn tấn. Trong số những loại tài nguyên của tỉnh Cát Lâm, trữ lượng còn lại của đá phiến dầu, diatomite, wollastonite đứng ở vị trí số một tại Trung Quốc ; trữ lượng gabro dùng làm mòn mặt phẳng, cacbon dioxide còn lại đứng ở vị trí thứ hai ; trữ lượng molypden, germani còn lại đứng vị trí thứ ba. [ 20 ]
Tập tin:CC wm2.jpg Văn miếu Trường XuânĐoàn thể đại diện thay mặt xứng danh nhất của nghệ thuật và thẩm mỹ Kinh kịch tỉnh Cát Lâm là ” viện Kinh kịch tỉnh Cát Lâm ” ( 吉林省京剧院 ), gồm kịch trường đại chúng và đại hí lâu Trường Xuân .Đoàn thể Cát kịch ( 吉剧 ) nổi tiếng nhất tỉnh Cát Lâm là đoàn Cát kịch tỉnh Cát Lâm, Cát kịch là một mô hình hí khúc địa phương. Từ hình thức trình diễn hai người, Cát kịch đã tăng trưởng thành một mô hình kịch nghệ mới. Các diễn viên Cát kịch nổi danh có Ổ Lị, Tùy Tinh Oánh, Vương Thanh Hà, Vương Quế Phân, Lý Chiêm Xuân, An Tĩnh Phương. Các vở diễn xuất sắc ưu tú của Cát kịch có ” Đào lý mai “, ” Yên-Thanh mại tuyến “, ” Bao công bồi tình “, ” Nhất dạ hoàng phi ” .Nhị nhân chuyển ( 二人转 ) là một mô hình nghệ thuật và thẩm mỹ dựa trên những điệu ca dân gian ở vùng Đông Bắc Trung Quốc, hấp thụ thẩm mỹ và nghệ thuật Liên hoa lạc ( 莲花落 ) của Hà Bắc, thêm vào vũ đạo, dáng bộ. Theo dòng lịch sử dân tộc, Nhị nhân chuyển hình thành bốn phái Đông, Tây, Nam Bắc. Phái phía đông có trọng điểm tại Cát Lâm, có cả màn vũ đả. Các đoàn thể Nhị nhân chuyển nổi tiếng tại tỉnh Cát Lâm là kịch đoàn hí khúc thành phố Cát Lâm, đại hí viện Hòa Bình, kịch trường Nhị nhân chuyển Đông Bắc, đại vũ đài Lưu Lão Căn .Hoàng Long hí ( 黄龙戏 ) là một thể loại hí kịch mới, hình thành từ năm 1959 và bắt nguồn từ huyện Nông An tại tỉnh Cát Lâm, tuy nhiên do Nông An vào thời nhà Liêu từng có tên là Hoàng Long phủ nên mô hình này mang tên là Hoàng Long hí. Lúc đầu, Hoàng Long hí chỉ có ba hạng là tiểu sinh ( nhân vật nam ), tiểu sửu ( anh hề ) và tiểu đán ( nhân vật nữ ), về sau bổ trợ thêm đao mã đán ( nhân vật nữ giỏi về võ thuật ), lão sinh ( nhân vật nam cao tuổi ) và lão đán ( nhân vật nữ lớn tuổi ). Âm nhạc của Hoàng Long hí phân theo những hạng sinh, đán, sửu mà xướng, cách trình diễn cùng hóa trang và phục trang về cơ bản phỏng theo Kinh kịch .Tân Thành hí ( 新城戏 ) là một mô hình hí kịch hình thành từ cuối thập niên 50 và đầu thập niên 1960, lưu truyền ở khu vực huyện Phù Dư và tăng trưởng dựa trên cơ sở mô hình kịch nghệ Bát giác cổ ( 八角鼓 ) của người Mãn, sở dĩ mang tên Tân Thành là do vào thời Thanh, Phù Dư trấn là trị sở của Tân Thành phủ. Các tiết mục Tân Thành hí tiêu biểu vượt trội là ” Hồng la nữ “, ” Tú hoa nữ hài tử “, ” Tát Ngõa mã “, ” thiết huyết Nữ Chân “, ” hồng hạo “. Đoàn thể màn biểu diễn Tân Thành hí nổi tiếng là kịch viện thẩm mỹ và nghệ thuật dân tộc bản địa Mãn thành phố Tùng Nguyên .Đông Bắc đại cổ ( 东北大鼓 ) là một hình thức thẩm mỹ và nghệ thuật vừa hát và vừa nói làm chính, đã có lịch sử vẻ vang hơn 200 năm, đa phần là những câu truyện tiểu thuyết, truyền kỳ truyền thống lịch sử của Trung Quốc. Khi trình diễn, nghệ nhân một tay cầm mấy thanh tre làm nhịp phách, một tay cầm dùi gỗ đánh trống, bên cạnh có một người dùng nhạc cụ đàn dây đệm đàn. Đông Bắc đại cổ tại Cát Lâm thuộc ” Đông Thành phái ” có ảnh hưởng tác động lớn tại khu vực Du Thụ. Năm 2006, Đông Bắc đại cổ được liệt vào list di sản văn hóa truyền thống phi vật thể cấp vương quốc của Trung Quốc .Ngoài ra, trên địa bàn Cát Lâm còn có sự hiện hữu của Bình kịch ( 评剧 ), Thoại kịch ( 话剧 ) .Xưởng phim điện ảnh Trường Xuân ( 长春电影制片厂 ) là xưởng phim tiên phong của nước Trung Quốc mới, là một trong những xưởng phim có tính tổng hợp lớn nhất Trong Quốc. Cùng với Bắc Ảnh, Thượng Ảnh và Bát Nhất tạo thành ” tứ đại ” xưởng phim điện ảnh của Trung Quốc. Xưởng phim bắt nguồn từ ” Mãn Châu ánh họa chu thức hội xã ” ( 满洲映画株式会社 ) do người Nhật xây dựng vào năm 1937 thời Mãn Châu Quốc. Liên hoan phim Trường Xuân là một trong những liên hoan phim lớn nhất tại Trung Quốc .Ẩm thực Cát Lâm sử dụng những nguyên vật liệu là đặc sản nổi tiếng hoặc sản vật chính của tỉnh Cát Lâm, vận dụng cách nấu nướng đặc biệt quan trọng của địa phương. Ẩm thực Cát Lâm tổng hợp những văn hóa truyền thống siêu thị nhà hàng và nông sản rực rỡ của những dân tộc thiểu số, đã tăng trưởng phát minh sáng tạo và hình thành một hệ phái nhà hàng siêu thị mới. Ẩm thực Cát Lâm hầu hết gồm có bốn thể loại lớn là món ăn dân tộc bản địa, món ăn dân tục, món ăn cung đình và món ăn sơn trân ( đồ ngon trên núi ) .
Tướng quân trủng tại Tập AnTỉnh Cát Lâm có những di tích lịch sử của chính sách Mãn Châu Quốc tại Trường Xuân, như Bảo tàng Hoàng cung Mãn Châu Quốc ( 偽滿皇宮博物院 ) hay Bát đại bộ ( 八大部 ) của cơ quan chính phủ Mãn Châu Quốc. Ngoài ra, trên địa phận tỉnh còn có những khu vực du lịch nổi tiếng khác như Công viên rừng Tịnh Nguyệt Đàm ( 净月潭森林公园 ), Trường Ảnh thế kỉ thành ( 长影世纪城 ), tháp kỉ niệm liệt sĩ Hồng quân Liên Xô tại Trường Xuân. Đại học Cát Lâm, Học viện Quang cơ Trường Xuân, Đại học Trường Xuân là những biểu trưng cho văn hóa truyền thống thành thị của tỉnh. Tại thành phố Cát Lâm có những thắng cảnh như sơn thành Cao Câu Ly ở Long Đàm Sơn, khu vui chơi giải trí công viên Bắc Sơn và hồ Tùng Hòa. Ở Đôn Hóa có quần thể mộ cổ Lục Đính Sơn ( 六顶山古墓群 ) của vương quốc Bột Hải. Ở Diên Cát có di tích sơn thành Thành Tử Sơn. Khu bảo tồn vạn vật thiên nhiên Trường Bạch Sơn nằm trên địa phận ba huyện Trường Bạch, An Đồ và Phủ Tùng của tỉnh Cát Lâm, có Thiên Trì, những thác nước, suối nước nóng và hẻm núi lớn. Thông Hóa có di tích lịch sử Tĩnh Vũ lăng viên ( 靖宇陵园 ). Ở Tập An có di chỉ từ thời Cao Câu Ly như Hoàn Đô sơn thành, Tướng quân trủng ( 將軍塚 ), quần thể mộ cổ Đỗng Câu ( 洞沟古墓群 ), có bia Quảng Khai Thổ Thái Vương ( 广开土大王碑 ). Nông An có Liêu tháp ( 辽塔 ) còn Y Thông có quần thể núi lửa. Phòng Xuyên là thắng cảnh ở khu vực ngã ba biên giới Trung-Triều-Nga. Các quần thể kinh thành và lăng mộ Cao Câu Ly tại tỉnh Cát Lâm và Liêu Ninh đã được UNESCO công nhận là một di sản quốc tế. [ 57 ] Ngoài ra, tỉnh Cát Lâm còn những khu du lịch trượt tuyết, tập trung chuyên sâu ở vùng núi Trường Bạch. [ 58 ] Quần thể mộ cổ Long Đầu Sơn ( 龙头山古墓群 ) là một tập hợp gồm 12 ngôi mộ của những thành viên vương tộc của vương quốc Bột Hải nằm ở thành phố Hòa Long của châu Diên Biên, trong đó có mộ Trinh Hiếu công chúa ( 貞孝公主墓 ) .
Cầu Lâm Giang Môn ( 临江门大桥 ) bắc qua Tùng Hoa Giang tại thành phố Cát LâmNăm 2011, những mô hình phương tiện đi lại của tỉnh Cát Lâm có khối lượng sản phẩm & hàng hóa luân chuyển đạt 158,17 tỉ tấn. km, khối lượng sản phẩm & hàng hóa vận chuyển đạt 520 triệu tấn. Cũng trong năm này, khối lượng hành khách luân chuyển của tỉnh Cát Lâm đạt 55,19 tỉ người. km, triển khai xong luân chuyển 680 triệu lượt hành khách. [ 20 ]Tính đến cuối năm 2011, tổng chiều dài đường tàu hoạt động giải trí trên địa phận tỉnh Cát Lâm là 4000,3 km, tổng chiều dài đường đi bộ là 91.800 km, trong đó có 83.800 km đường đi bộ cấp công lộ. Trong số những công lộ của tỉnh, có 2.252 km công lộ cao tốc. Cũng tính đến cuối năm 2011, toàn tỉnh Cát Lâm có khoảng chừng 2.010.900 xe hơi gia dụng. [ 20 ]Năm 2011, những tập đoàn lớn hàng không gia dụng đã thực thi cất và hạ cánh 51.000 chuyến bay chuyến bay tại tỉnh Cát Lâm, luân chuyển 6,12 triệu lượt người. [ 20 ] Trong nghành hàng không, Trường Xuân là điểm TT của tỉnh còn tp Cát Lâm và Diên Cát là những điểm bổ trợ, có những tuyến bay đến Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu Trung Quốc, Hải Khẩu, Ninh Ba, Đại Liên, Côn Minh, Hồng Kông, Đài Bắc, Seoul và Jeju tại Nước Hàn ; Tokyo, Sendai, Osaka, Nagoya tại Nhật Bản. Các trường bay trên địa phận tỉnh Cat Lâm gồm có : trường bay quốc tế Long Gia Trường Xuân ( 长春龙嘉国际机场 ), trường bay Triều Dương Xuyên Diên Cát ( 延吉朝阳川机场 ), trường bay Trường Bạch Sơn ( 长白山机场 ) tại Bạch Sơn, trường bay Nhị Đài Tử Cát Lâm ( 吉林二台子机场 ) và trường bay Đại Phòng Thân Trường Xuân ( 长春大房身机场 ) cho đến năm 2005, trường bay Trường An Bạch Thành ( 白城长安机场 ) đã được khai công thiết kế xây dựng vào tháng 10 năm 2012 [ 59 ], cũng có kế hoạch thiết kế xây dựng trường bay Tra Can Hồ Tùng Nguyên ( 松原查干湖机场 ). [ 60 ] Sân bay Tam Nguyên Phố Thông Hóa ( 通化三源浦机场 ) vốn là một trường bay quân sự chiến lược, tuy nhiên đã được quy đổi từ năm 2009 để Giao hàng cả mục tiêu quân sự chiến lược và gia dụng. [ 61 ]

Tàu CRH5 tại ga Cát Lâm

Hệ thống đường sắt của tỉnh Cát Lâm nói chung có thể phân thành hai hướng là tây bắc-đông nam và tây nam-đông bắc. Đường sắt Kinh-Cáp (京哈铁路), một tuyến đường sắt chủ yếu của Trung Quốc, đi dọc tỉnh Cát Lâm theo chiều nam-bắc. Từ tỉnh Cát Lâm, có thể đi đến các thành phố chủ yếu của Trung Quốc. Hệ thống đường sắt của tỉnh Cát Lâm lấy Trường Xuân làm trung tâm, còn Cát Lâm, Tứ Bình, Bạch Thành, Mai Hà Khẩu là các điểm đóng vai trò quan trọng. Ngoài tuyến Kinh-Cáp, trên địa bàn tỉnh Cát Lâm còn có các tuyến đường sắt Trường-Đồ (长图铁路), đường sắt Trường-Bạch (长白铁路), đường sắt Bình-Tề (平齐铁路), đường sắt Thẩm-Cát (沈吉铁路), đường sắt Tứ-Mai (四梅铁路) bao phủ toàn bộ các thành phố và châu của tỉnh. Đường sắt liên thành Trường-Cát (长吉城际铁路) đã thông xe từ tháng 12 năm 2010, có tốc độ thiết kế 250 km với các ga chủ yếu là ga Trường Xuân, ga sân bay Long Gia và ga Cát Lâm. Nếu đi theo tuyến đường sắt liên thành Trường-Cát, sẽ chỉ mất 34 phút để đi lại giữa hai thành phố, và sẽ chỉ mất 14 phút và 24 phút để đi từ sân bay Long Gia đến trung tâm Trường Xuân và Cát Lâm. Ngày 1 tháng 12 năm 2012, tuyến đường sắt cao tốc Cáp Nhĩ Tân-Đại Liên (哈大客运专线, Cáp-Đạt vận chuyển chuyên tuyến) đã chính thức được đưa vào vận hành. Đây là tuyến đường sắt cao tốc nằm ở vùng vĩ độ cao giá lạnh đầu tiên của Trung Quốc và thế giới. Tuyến đường sắt cao tốc này dài 921 km với tốc độ tàu chạy theo thiết kế là 350 km/h, nối liền ba tỉnh Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang.[62] Nếu đi trên tuyến đường sắt cao tốc Cáp Nhĩ Tân-Đại Liên, sẽ chỉ mất một tiếng để đi từ Trường Xuân đến Cáp Nhĩ Tân hay Thẩm Dương. Trên địa bàn tỉnh Cát Lâm, tuyến đường sắt cao tốc Cáp-Đại có các ga Tứ Bình Đông, Công Chúa Lĩnh Nam, Trường Xuân Tây, Trường Xuân, Đức Huệ Tây, Phù Dư Bắc. Tuyến đường sắt cao tốc Cát-Hồn (吉珲客运专线) bắt đầu tiến hành xây dựng từ năm 2010, tốc độ thiết kế là 250 km/h, tuyến này khởi đầu từ tp Cát Lâm và đi đến Hồn Xuân.

Các trường ĐH[sửa|sửa mã nguồn]

Tập tin:Jilin Univ.jpg Khu trường sở cũ của Đại học Cát Lâm

Source: https://thevesta.vn
Category: Bản Đồ