Giang Tô – Wikipedia tiếng Việt

Giang Tô (江苏) là một tỉnh ven biển ở phía đông Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng của Giang Tô là “Tô” (苏, sū), tức chữ thứ hai trong tên tỉnh.[1] Năm 2018, Giang Tô là tỉnh đông thứ năm về số dân, đứng thứ hai về kinh tế Trung Quốc với 80,4 triệu dân, tương đương với Thổ Nhĩ Kỳ[2] và GDP đạt 9,29 nghìn tỉ NDT (1,40 nghìn tỉ USD) tương đương với Úc.[3]

Giang Tô có tỷ lệ dân số cao nhất trong số những tỉnh của Trung Quốc, và xếp thứ 4 trong số những đơn vị chức năng cấp tỉnh, chỉ sau Thượng Hải, Bắc Kinh và Thiên Tân. Vào đầu thời Nhà Thanh, Giang Tô thuộc tỉnh Giang Nam, đến năm Khang Hi thứ 6 ( 1667 ), triều đình đã tách tỉnh Giang Nam thành Giang Tô và An Huy .Giang Tô giáp với Sơn Đông ở phía bắc, giáp với An Huy ở phía tây, giáp với Chiết Giang và Thượng Hải ở phía nam. Giang Tô có đường bờ biển dài 1.000 kilômét ( 620 mi ) dọc theo Hoàng Hải và một phần biển Hoa Đông, Trường Giang chảy qua và đổ ra biển ở nam bộ Giang Tô. Từ sau khi Trung Quốc triển khai cải cách Open, Giang Tô là một điểm trung tâm về tăng trưởng kinh tế tài chính và hiện có GDP trung bình đầu người cao nhất trong số những tỉnh tại Trung Quốc. Tuy nhiên, có sự chênh lệch tăng trưởng giữa vùng phía nam phong phú và vùng phía bắc còn mang tính nông thôn cao .

Thời thượng cổ, nam bộ Giang Tô nằm cách xa trung tâm của nền văn minh Hoa Hạ cổ (Thiểm Tây, Hà Nam và Sơn Tây). Khu vực Hoàng Hoài và Giang Hoài thời cổ là quê hương của người Hoài Di. Tại khu vực Tô Châu-Vô Tích-Thường Châu đã xuất hiện các nền văn hóa: Khóa Hồ Kiều (跨湖桥), Mã Gia Banh (马家浜), Tùng Trạch (松泽), Lương Chử (良渚), Mã Kiều (马桥); tại khu vực Ninh Trấn tồn tại văn hóa Hồ Thục (湖熟). Trong truyền thuyết lịch sử Trung Quốc về thủy tổ của tộc Hoa Hạ, Nghiêu là một trong Ngũ Đế, theo truyền thuyết thì Nghiêu sinh ra ở phía nam của Tam A (có quan điểm cho rằng nay là tây bắc Cao Bưu hoặc phụ cận hồ Cao Bưu ở Thiên Trường).[4]

Thời Tây Chu, tiếp xúc giữa Giang Tô và Cafe Trung Nguyên đã ngày càng tăng, trên địa phận Giang Tô khi đó đã có một vài nước chư hầu như Vu ( 邘 ), Chung Ngô ( 钟吾 ), Bành ( 彭 ). Đặc biệt là tại nam bộ Giang Tô đã nổi lên một nước chư hầu cường thịnh là Ngô với đô thị đặt tại Đảo Cô Tô ( 姑苏, nay là Tô Châu ). Nước Ngô từng được nước Tấn trợ giúp để làm một liên minh chống lại nước Sở, về sau Ngô vương Hạp Lư của nước Ngô đã trở thành một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu. Dưới thời Hạp Lư, giữa Ngô và Sở đã xảy ra nhiều cuộc cuộc chiến tranh, Sở Chiêu vương bị nước Ngô liên tục uy hiếp nên đã phải dời bỏ Sính đô đi đóng đô ở đất Nhược. Nước Ngô tuy không chiếm được nước Sở nhưng đã trở nên vững mạnh, nước Sở suy yếu, bị mất vị thế trong khu vực .
Việt Vương Câu Tiễn, người đã tiêu diệt nước Ngô và đưa nước Việt thành bá chủ trong các nước chư hầuNhân lúc Ngô-Sở giao chiến, năm 505 TCN, nước Việt ở phía nam đã đưa quân xâm lấn nước Ngô. Năm 496 TCN, Ngô vương Hạp Lư đã đưa quân đi đánh nước Việt để trả thù, tuy nhiên Hạp Lư đã bị trúng tên trọng thương trong trận chiến này và về đến đất Ngô thì chết, trước khi chết, ông ta đã dặn cháu trai là Phù Sai, con thế tử Ba đã mất sớm ( theo truyện đông chu liệt quốc ) phải báo thù. Khi Phù Sai lên nối ngôi vua nước Ngô đã tích cực luyện quân để đánh Việt. Năm 494 TCN, Phù Sai đích thân mang quân đi đánh nước Việt. Quân Ngô đã đại phá quân Việt ( Việt vương Câu Tiễn chỉ huy ) ở Phù Tiêu tại vùng Thái Hồ. Sau đó, Phù Sai còn đem quân Ngô đi đánh nước Tề. Việt vương Câu Tiễn vì muốn trả thù nên sau đó đã lập kế đem thóc đã hấp chín rồi phơi khô để trả nợ cho nước Ngô, Ngô vương Phù Sai thấy hạt lúa căng mẩy nên đã phát những hạt lúa này cho dân Ngô gieo trồng, năm đó nước Ngô gặp nạn đói lớn, dân chúng đều oán giận Phù Sai. Năm 484 TCN, Phù Sai lại mang quân từ biển tiến lên phía bắc vượt mặt nước Tề. Đầu năm 483 TCN, Phù Sai họp chư hầu ở Hoằng Trì, muốn tranh ngôi bá chủ của nước Tấn. Trong khi hội chư hầu chưa xong thì tháng 6 năm đó, Việt Câu Tiễn mang quân đánh úp nước Ngô. Tuy nhiên, Phù Sai vẫn cố tranh ngôi bá với Tấn Định công. Cuối cùng nước Tấn yếu thế hơn, Tấn Định công phải thừa nhận Phù Sai ở hàng trên. [ 5 ] Năm 475 TCN, Câu Tiễn tiến đánh Ngô với quy mô lớn, quân Việt vây hãm đô thị nước Ngô suốt hai năm, ở đầu cuối nước Ngô bị nước Việt hủy hoại. Diệt xong nước Ngô, Câu Tiễn lại đưa quân vượt Hoài Hà để hợp với những nước chư hầu tại Cafe Trung Nguyên ở Từ Châu, thiên tử nhà Chu cũng mang lễ vật đến Tặng Kèm Câu Tiễn. Từ đó, quân Việt hoành hành suốt dải Giang Hoài, những nước chư hầu đều công nhận Việt là bá chủ. [ 6 ] Sau khi diệt Ngô, nước Việt đã thiên đô đến đất Ngô ( nay là Tô Châu ). Sau Câu Tiễn, nước Việt dần suy yếu trước sự nổi lên của Thất hùng trong thời Chiến Quốc. Vào năm 334 TCN, nước Việt dưới thời Vô Cương ( 無彊 ) sau cuối đã bị nước Sở vượt mặt và sáp nhập. Năm 223 TCN, tướng nước Tần là Vương Tiễn sau khi diệt nước Sở đã tiến vào vùng đất Việt .
Năm 222 TCN, Tần Thủy Hoàng đã lấy đất Ngô và Việt để xây dựng Cối Kê Q., lấy Ngô huyện ( thời nay là Tô Châu ) làm Q. lỵ. Năm 211 TCN, Tần Thủy Hoàng đã phân quốc gia thành 36 Q., phân tây bộ Cối Kê Q. thành Cố Chướng Q.. Năm 210 TCN, Tần Thuỷ Hoàng đã thực thi tuần du tại một khu vực thuộc Cối Kê ( tuy nhiên nay thuộc Chiết Giang ) .Vào cuối thời nhà Tấn, Hạng Vũ ( là người Túc Thiên ) và thúc phụ Hạng Lương đã dấy binh phản Tần tại Ngô Trung của Cối Kê, Hạng Lương tự xưng làm thái thú Cối Kê, Hạng Vũ làm kì tướng, chiêu hàng những huyện trong Q.. Sau đó, tướng Thiệu Bình của Trần Thắng đã giả làm mệnh lệnh của chúa công để phong Hạng Lương làm Thượng trụ quốc nước Sở và giục Hạng Lương tiến đánh Tần. Hạng Lương bèn đem tám nghìn người, vượt Trường Giang đi về hướng tây. Năm 206 TCN, Hạng Vũ đã công nhập kinh đô Hàm Dương của Tần, giết chết Tần Tử Anh, tự lập làm Tây Sở Bá vương, lấy Bành Thành làm kinh đô, phân phong thiên hạ .
Vào thời Hán sơ, tại vùng Giang Chiết đã hình thành nước chư hầu Kinh ( 荆 ). Song do Hán Cao Tổ Lưu Bang gây hại đến đất Ngô nên dân Cối Kê không phục tùng hoàng quyền, triều đình đã phái một hoàng thân là Lưu Tị ( 刘濞 ) đến làm Ngô vương, thống trị trên danh nghĩa khu vực nay là phía nam Hoài Hà của Giang Tô và đại bộ phận Chiết Giang ( trong thực tiễn Lưu Tị thống trị phần nhiều Cối Kê Q., Đan Dương Q., Quảng Lăng quận ). Tuy nhiên, Lưu Tị lòng dạ có dã tâm nên sau khi thế tử của mình bị thái tử Lưu Khải giết chết đã phát động Thất quốc chi loạn. Để có danh nghĩa khởi binh, Lưu Tỵ công bố hịch văn, giương cao khẩu hiệu diệt trừ gian thần Tiều Thố, ” làm sạch chỗ cạnh vua ” bố cáo cho thiên hạ biết. [ 7 ] Tuy nhiên, ngay tại những nước mưu phản cũng có những đại thần phản đối. Tại nước Ngô, Lưu Tỵ giết hết những quan lại Nhà Hán phản đối mình từ thái thú trở xuống. Ngô vương ra lệnh tổng động viên trong nước, nói rằng mình đã 60 tuổi, người con trai út lên 16, do đó kêu gọi đàn ông trong nước Ngô từ 16 đến 60 tuổi phải ra trận đi đánh triều đình Hán. Tổng số quân Ngô huy động được hơn 20 vạn người. [ 8 ] Sau khi thua trận và phần đông quân Ngô đầu hàng quân triều Hán và nước Lương, Ngô vương Tị đã bỏ chạy qua Trường Giang, đến Đan Đồ ( nay là phía đông Trấn Giang ), có ý giữ Đông Âu để thế thủ. Do triều đình Nhà Hán treo phần thưởng 1000 cân vàng cho ai lấy được đầu Lưu Tỵ và sai sứ giả đến Đông Âu thuyết phục giết Ngô vương, người Đông Âu đã hành thích rồi cắt thủ cấp Ngô vương đem về Trường An dâng Hán Cảnh Đế .Sau đó, vào thời Hán, tuyệt đại bộ phận Giang Tô thuộc về hai châu : phía bắc Trường Giang thuộc Từ châu thứ sử bộ, phía nam Trường Giang thuộc Dương châu thứ sử bộ. Tại bắc bộ Giang Tô thời nay, triều đình đã thiết lập nước Sở với 4 huyện ( đô thị nay thuộc Từ Châu ), nước Tứ Thủy với 2 huyện ( đô thị nay là phụ cận Tứ Dương ), nước rồi Q. Quảng Lăng với 4 huyện ( trị sở nay là phụ cận Dương Châu ), Lâm Hoài Q. với 18 huyện ( trị sở nay thuộc phụ cận Tứ Hồng ), Đông Hải Q. với 13 huyện ( trị sở nay thuộc Đàm Thành của Sơn Đông ), Cống Du huyện của Lang Da Q. ( trị sở nay thuộc Chư Thành của Sơn Đông ). Dương châu bao trùm nam bộ Giang Tô, phần đông An Huy, Chiết Giang, Giang Tây và Phúc Kiến, tại nam bộ Giang Tô thời nay có 7 huyện thuộc Cối Kê Q. ( trị sở tại Tô Châu ngày này ) và 5 huyện thuộc Đan Dương Q. ( trị sở nay thuộc Tuyên Thành của An Huy .
Thời Tam Quốc, Từ châu khi đó gồm có đại bộ phận phía bắc Trường Giang của Giang Tô và một phần nhỏ phía nam Sơn Đông từng thuộc về Đào Khiêm, Lưu Bị ( 2 lần ) trước khi rơi vào Tào Ngụy còn vùng Hoài Nam và Giang Nam của Giang Tô thuộc Dương Châu của Đông Ngô. Năm 238, Tôn Quyền đã thiên đô từ Vũ Xương ( Kinh Châu, Hồ Bắc ) về Mạt Lăng ( Dương Châu, Giang Tô ) và đổi tên là Kiến Nghiệp ( Nam Kinh thời nay ). Đoạn Hoài Hà chảy qua Giang Tô trở thành giới tuyến giữa Đông Ngô và Tào Ngụy. Thời Tôn Quyền là lúc Đông Ngô cường thịnh, nước này đã triển khai di dân từ phía bắc và bình định những bộ lạc thiểu số, đặc biệt quan trọng là ở hạ lưu Trường Giang. Tôn Quyền đem quân tiến về hướng Đông Nam, thôi thúc việc mở mang khu vực này và triển khai dung hợp dân tộc bản địa. Đông Ngô đã tìm hiểu và khám phá vùng đồng bằng Thái Hồ ở Tam Ngô ( Ngô Quận, Ngô Hưng, Cối Kê ) và khu vực vịnh Hàng Châu tiếp giáp với Kiến Nghiệp thuộc Đan Dương Q.. Các khu vực đồn điền nông nghiệp được hình thành dưới sự giám sát của những võ quan ( Điển nông Hiệu úy ) tại vùng Thương Châu ( nam bộ Giang Tô ). Trước những cuộc tiến công mãnh liệt của quân Tấn, quân Đông Ngô tan rã và kinh đô Kiến Nghiệp đã thất thủ vào tháng 3 năm 280, Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn, Đông Ngô diệt vong .

Thời Tấn và Nam-Bắc triều[sửa|sửa mã nguồn]

Thạch khắc tại mộ của An Khanh Thành vương Tiêu Tú ( 萧秀 ) của Nam triều LươngBắt đầu từ năm 304, Tây Tấn diệt vong do loạn Vĩnh Gia khi những ngoại tộc tại Tập Đoàn Cafe Trung Nguyên làm mưa làm gió, do chiến loạn, đã có một lượng lớn nhân khẩu, gồm có cả những sĩ tộc đã di cư từ Cafe Trung Nguyên đến đồng bằng trung hạ du Trường Giang, sử gọi là ” y quan nam độ ” ( 衣冠南渡 ), việc này đã có ảnh hưởng tác động thâm thúy đến diện mạo chính trị thời Đông Tấn, đồng thời cũng giúp tăng trưởng kinh tế tài chính trung hạ du Trường Giang, khiến TT kinh tế tài chính của Trung Quốc chuyển xuống phương nam. Năm 317, Vương Đạo ( 王導 ) đã phụ tá Tư Mã Duệ kiến lập triều Đông Tấn tại Kiến Khang ( do nhà Tấn kiêng húy Tấn Hoài Đế Tư Mã Nghiệp nên đổi thành Kiến Khang ). Từ năm 420 trở đi, bốn triều đại kế tục nhau tại phương Nam Trung Quốc là Lưu Tống, Nam Tề, Lương và Trần cũng định đô ở Kiến Khang, chấm hết khi nhà Tùy thống nhất Trung Quốc vào năm 589. Trong thời hạn này, Hoài Hà ở bắc bộ Giang Tô lại một lần nữa trở thành giới tuyến phân loại giữa Bắc và Nam, là tiền tuyến trong những cuộc cuộc chiến tranh giữa hai bên .
Năm 589, Tùy diệt Trần, một lần nữa thống nhất Nam-Bắc. Năm 605, Tùy Dạng Đế đã giao việc làm lan rộng ra, lê dài Đại Vận Hà cho Vũ Văn Khải, để hoàn toàn có thể nối tiếp Trác Quận ( nay là Bắc Kinh ) với Hàng Châu. Công việc này lê dài trong 6 năm và đoạn kênh nằm giữa Trường Giang và Hàng Châu được đặt tên là Giang Nam Vận Hà ( 江南运河 ). Thời nhà Tùy, triều đình đã có một chủ trương cậy quyền so với những di dân Nam triều, cảnh tượng tiêu điều bao trùm lên nhiều khu vực tại Tô Nam. Về sau, do sự đấu tranh của địa chủ phương Nam, triều đình nhà Tùy đã phải vận dụng một chủ trương ôn hòa hơn so với phương nam, khiến Tô Nam và những phần khác từng nằm dưới sự thống trị của Trần Open cảnh phục hồi. Thời đại loạn Tùy mạt, quân phiệt Thẩm Pháp Hưng ( 沈法兴 ) tiên phong đã hủy hoại Dương Châu thành, và sau đó công nhập Giang Nam, chiếm được khu vực nay là Chiết Giang và nam bộ Giang Tộ, tự xưng Lương vương. Sự việc này đã khiến cho kinh tế tài chính Giang Nam chịu thiệt hại không nhỏ .
Dương Châu, một thành thị thương mại nổi lên từ thời Nhà ĐườngCùng với thời kỳ Nhà Hán, thời kỳ Nhà Đường là thời kỳ hoàng kim của Trung Quốc. Việc phân phối lương thực của hoàng thất thời Đường dựa vào Giang Nam, triều đình lao lý vào tháng 2 mỗi năm, thuyền vận lương Giang Nam sẽ tập trung chuyên sâu tại Dương Châu, từ đó Dương Châu trở thành thành thị thương nghiệp nổi tiếng nhất Trung Quốc. Thời Đường, bộ phận phía nam Trường Giang của Giang Tô thuộc Giang Nam Đông đạo, bộ phận ở phía bắc Trường Giang và phía nam Hoài Hà thuộc Hoài Nam đạo, bộ phận ở phía bắc Hoài Hà thuộc Hà Nam đạo .Cuối thời Nhà Đường, Trung Quốc Open thực trạng phiên trấn cát cứ nghiêm trọng, tại Giang Tô đã Open thực trạng cạnh tranh đối đầu và xung đột trong một thời hạn dài giữa Hoài Nam tiết độ sứ ( trú địa Dương Châu ) và Chiết Tây quan sát sứ ( trú địa Trấn Giang ) .Là kinh đô của Lục triều, Kiến Khang thời Tùy đã ở trong thực trạng bị phá hoại nghiêm trọng, đến thời Nhà Đường cũng không có gì khởi sắc. Đến thời cuối Nhà Đường, Kiến Khang nằm ở nơi giao giới giữa ba phiên trấn lớn là Hoài Nam, Chiết Tây và Tuyên Hấp, lại càng dễ bị hủy hoại trong cuộc chiến tranh, đến tận khi Nam Đường lập quốc thì thành mới khởi đầu được Phục hồi .

Thời Ngũ Đại Thập Quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Vào cuối thời Nhà Đường, tướng Dương Hành Mật đã cát cứ vùng Hoài Nam, sau đó ông được phong làm Hoài Nam tiết độ sứ năm 892. Năm 902, Dương Hành Mật được Đường Chiêu Tông phong làm Ngô vương. Sau khi nhà Hậu Lương sửa chữa thay thế Nhà Đường, trưởng nam của Dương Hành Mật là Dương Ác đã phủ nhận công nhận điều này và vẫn sử dụng niên hiệu của Nhà Đường. Từ thời gian này, nước Ngô trở thành một chính thể độc lập và tự chủ. Ban đầu, Kinh đô nước Ngô đặt tại Quảng Lăng ( nay là Dương Châu ) và chủ quyền lãnh thổ gồm có nam bộ An Huy, nam bộ Giang Tô, đại bộ phận Giang Tây, Hồ Nam cùng đông bộ Hồ Bắc. Kinh đô sau này được chuyển tới Kim Lăng ( nay là Nam Kinh ) .Trong lúc đó, cực nam của Giang Tô ( khu vực Tô Châu thời nay ) thuộc quyền quản lý của Tiền Lưu. Sau khi Nhà Đường diệt vong, Tiền Lưu cũng tự xưng Ngô Việt vương, lập ra nước Ngô Việt, kinh đô nước này đặt tại tại Tây Phủ ( nay là Hàng Châu ). Lãnh thổ Ngô Việt gần như gồm có hàng loạt chủ quyền lãnh thổ nước Việt thời Xuân Thu, chứ không gồm có đất của nước Ngô thời đó – điều này dẫn tới những lời cáo buộc của Dương Ngô rằng Ngô Việt có mưu đồ so với chủ quyền lãnh thổ của họ, và tên gọi này là nguồn gốc của những stress trong nhiều năm giữa hai vương quốc. Ngô Việt sau cuối đã sáp nhập vào Tống một cách tương đối tự do .Từ Tri Cáo, tên thật Lý Biện, bắt đầu là con nuôi Dương Hành Mật. Tuy nhiên đến năm 937, ông đã chính thức chiếm đoạt quyền hành của nước Ngô, cho rằng mình thuộc dòng dõi hoàng tộc Nhà Đường nên đã cải lại sang họ Lý, tự xưng Hoàng đế, lập nên nước Nam Đường. Kinh đô Nam Đường được đặt ở Kim Lăng ( cũng gọi là Tây Đô ), thời nay là Nam Kinh. Nước Nam Đường chớp lấy thời cơ, diệt Ân ( một chính quyền sở tại ly khai khỏi Mân ) và cả Mân vào năm 945, thôn tính nước Sở năm 951. Sau khi nhà Hậu Chu thay nhà Hậu Hán, Hậu Chu Thế Tông ( Sài Vinh ) mang quân nam tiến, đánh cho Nam Đường đại bại. Sau hai đại chiến năm 956 và 958, Nam Đường bị mất phần đất Giang Bắc, chỉ co cụm về Giang Nam. Lý Cảnh phải xưng thần, làm chư hầu với Hậu Chu và từ bỏ niên hiệu riêng, dùng niên hiệu của Hậu Chu. Năm 976, Tống Thái Tổ cất quân đánh Nam Đường, bắt vua Nam Đường là Lý Dục về Biện Kinh. Nước Nam Đường diệt vong .Trong thời Ngũ Đại Thập Quốc, đại bộ phận vùng Hoài Bắc của Giang Tô thuộc quyền quản lý của Ngũ Đại .
Dưới sự quản lý của triều đình Nhà Tống, giai tầng thương nhân phong phú cũng như kinh tế tài chính công thương nghiệp của Giang Tô có sự tăng trưởng nhanh gọn, những thành thị hầu hết như Tô Châu và Dương Châu đã tăng trưởng thành những TT thương nghiệp điển hình nổi bật. Dưới thời Tống, địa phận Giang Tô thời nay phân thuộc bốn lộ, đơn cử như sau : Giang Ninh phủ ( nay là Nam Kinh ) thuộc Giang Nam Đông lộ ; Tô Châu, Thường Châu, Nhuận Châu thuộc Lưỡng Chiết Tây lộ ; Dương Châu, Hoài An, Thái Châu, Hải Châu, Tứ Châu, Thông Châu, Chân Châu thuộc về Hoài Nam Đông lộ ; Từ Châu thuộc Kinh Đông Tây lộ .Năm 1127, nhà Kim của người Nữ Chân sau khi chinh phục Hoa Bắc đã tiến đến vùng Hoài Hà ở bắc bộ Giang Tô, Hoài Hà sau đó trở thành biên giới giữa triều Kim ở phía bắc và triều Nam Tống ở phía nam. Thời Nam Tống, Kinh Đông Tây lộ bị bãi bỏ, còn Hoài Nam Đông lộ, Giang Nam Đông lộ, Lưỡng Chiết Tây lộ vẫn sống sót tuy nhiên ranh giới có sự kiểm soát và điều chỉnh .
Năm 1279, người Mông Cổ sở hữu Trung Quốc. Ban đầu, triều đình Nhà Nguyên sáp nhập Lưỡng Chiết lộ và Lưỡng Hoài lộ, thiết lập Giang Hoài đẳng lộ hành trung thư tỉnh, quản lý Lưỡng Hoài ( Hoài Nam Đông lộ và Hoài Nam Tây lộ ), Lưỡng Chiết ( Lưỡng Chiết Tây lộ và Lưỡng Chiết Đông lộ ), tỉnh hội đặt tại thủ phủ của Hoài Nam Đông lộ trước kia là Dương Châu. Đến năm Chí Nguyên thứ 21 ( 1284 ) thời Nguyên Thế Tổ, do không thuận tiện về mặt địa lý và dân sự, triều đình Nhà Nguyên đã chuyển tỉnh hội đến Hàng Châu. Đến năm Chí Nguyên thứ 22 ( 1285 ), triều Nguyên cắt Giang Bắc để nhập vào Hà Nam Giang Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh, phần đất trước đây thuộc Lưỡng Chiết lộ thì xây dựng Giang Chiết đẳng xứ hành trung thư tỉnh. [ 9 ]
[10]Minh Hiếu lăng, lăng tẩm của Chu Nguyên Chương, một trong những lăng vua thời cổ lớn nhất thế giớiNăm 1368, Chu Nguyên Chương đã lập nên Nhà Minh, bắt đầu triều đình này định đô ở Nam Kinh. Triều đình Minh sau đó đã đưa những phủ và trực lệ châu tại khu vực thuộc hai tỉnh An Huy và Giang Tô thời nay nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của TW, gọi là ” Trực Lệ “. Năm Vĩnh Lạc thứ 19 ( 1421 ), Minh Thái Tông Chu Lệ sau khi thiên đô đến Bắc Kinh đã cải ” Trực Lệ ” thành ” Nam Trực Lệ “. Khi đó, khu vực thuộc tỉnh Giang Tô thời nay sống sót 7 phủ, trong đó có 5 phủ ở Giang Nam là : Ứng Thiên phủ ( Nam Kinh ), Tô Châu phủ, Tùng Giang phủ, Thường Châu phủ và Trấn Giang phủ, ở Giang Bắc có 2 phủ là Dương Châu phủ và Hoài An phủ .Thời Minh, kinh tế tài chính và văn hóa truyền thống của Giang Tô tăng trưởng ở thời đỉnh điểm : Nam Kinh cũng có được vị thế ” kinh thành ” bên cạnh Bắc Kinh ; Tô Châu và Tùng Giang dựa trên ngành dệt tăng trưởng vẫn liên tục nắm giữ vị thế là TT kinh tế tài chính của toàn Trung Quốc, trở thành khu vực có trình độ công nghiệp hóa và đô thị hóa cao nhất trong số những địa phương, những thành thị lớn nhỏ Open ở nhiều nơi, giá đất ở mức cao, tiền thuế nộp cho triều đình đứng số 1 cả nước .Cũng vào thời Minh, trình độ tăng trưởng văn hóa truyền thống của Giang Tô cũng đứng số 1 tại Trung Quốc. Trong một thời hạn dài, Giang Tô là nơi sản sinh một tỷ suất lớn trạng nguyên trong những kỳ thi khoa cử. Đối với toàn Trung Quốc, những phong thái văn hóa truyền thống và quan điểm thẩm mỹ và nghệ thuật tại Giang Tô có ảnh hưởng tác động sâu rộng. Dương Châu và Hoài An nằm trên tuyến Đại Vân Hà nối kinh thành và Hàng Châu ( tuyến luân chuyển lương thực từ phương Nam lên kinh thành ) và là điểm khống chế mậu dịch muối ăn, nằm trong số những thành thị phồn hoa nhất ở phía bắc Trường Giang tại Trung Quốc khi đó .
Ảnh diễn đạt sự kiện Dương Châu thập nhật, cuộc đại thảm sát dân chúng trong thành Dương Châu do quân Thanh thực thi vào năm 1645Sau khi kinh đô Bắc Kinh bị Lý Tự Thành chiếm được vào năm 1644. Một số hoàng tộc và quan lại Nhà Minh đã tìm cách di cư lánh nạn về phía nam Trung Quốc và tập hợp lực lượng còn lại xung quanh Nam Kinh, kinh đô thứ hai của Nhà Minh, lập nên nhà Nam Minh. Đến năm Thuận Trị thứ 2 ( 1645 ), quân Thanh do Đa Đạc chỉ huy đã đưa quân xuống phía nam, Sử Khả Pháp đã chỉ huy quân tứ trấn của Nam Minh chống lại và thắng được một số ít trận. Tuy nhiên, lúc này triều đình Nam Minh lại lục đục, tướng Tả Lương Ngọc đã đưa quân từ Vũ Xương tiến đánh Nam Kinh, Mã Sĩ Anh sợ hãi nên đã gọi quân tứ trấn phải từ Giang Bắc trở lại đối phó. Sử Khả Pháp hiểu rõ rằng quân Thanh đã áp sát, không nên dời Dương Châu, tuy nhiên bất đắc dĩ vẫn quyết định hành động vượt Trường Giang ứng cứu. Khi hay tin Tả Lương Ngọc đã bị đánh thua, ông lại vượt Trường Giang, tuy nhiên lúc này quân Thanh đã áp sát Dương Châu. Sử Khả Pháp ban hịch lôi kéo mọi người đem binh về cứu thành Dương Châu song không ai hưởng ứng. Đa Đạc sau đó dã ra lệnh vây hãm và tiến đánh Dương Châu suốt ngày đêm, quân và dân trong thành nhất quyết chống lại. Cuối cùng, Đa Đạc lệnh cho bắn pháo vào thành, tường thành dẫn sụp đổ rồi vỡ, quân Thanh xông vào thành Dương Châu. Đa Đạc thấy quân Thanh bị thương vong quá lớn khi công thành nên đã quyết định hành động làm cỏ hàng loạt dân trong thành, cuộc đại tàn sát lê dài trong suốt mười ngày, sử gọi là Dương Châu thập nhật ( 揚州十日 ). [ 6 ]

Sau khi Dương Châu thất thủ, quân Thanh đã tiến đến Nam Kinh, chính quyền Hoàng Quang Đế bị tiêu diệt. Sau đó, quân Thanh bắt toàn thể dân chúng Giang Nam phải theo phong tục Mãn Thanh như phải cạo tóc ở phía trước đầu và để bím tóc ở phía sau, ai trái lệnh sẽ bị chém, khiến nhân dân Giang Nam bất bình. Quân dân Gia Định đã chống lại quân Thanh trong ba tháng, bị quân Thanh tàn sát ba lần với hơn 20.000 người chết, sử gọi là Gia đình tam đồ (嘉定三屠).[6]

Triều Thanh cũng đổi ” Nam Trực Lệ ” thành Giang Nam tỉnh. Đến năm Khang Hy thứ 6 ( 1667 ), triều Thanh lại chia Giang Nam thành hai tỉnh Giang Tô và An Huy. Khi đó, tuần phủ nha môn của Giang Tô trú tại Tô Châu và gồm có những phủ Giang Ninh, Tô Châu, Hoài An, Dương Châu, Từ Châu, Thông Châu, Trấn Giang, Trùng Giang ( nay là Thượng Hải ), đại thể tựa như như tỉnh Giang Tô lúc bấy giờ. Ngoài ra, triều Thanh cũng pháp luật tiết chết Lưỡng Giang tổng đốc trú tại Nam Kinh và khoanh vùng phạm vi gồm có ba tỉnh Giang Tô, An Huy và Giang Tây. Từ năm 1780 trở lại trước, An Huy bố chính sứ trường kì trú tại Nam Kinh, đến năm 1780 thì mới chuyển đến tỉnh hội An Khánh. Tại Nam Kinh, thiết lập chức Giang Ninh bố chính sứ, Giang Tô bố chính sứ trú tại Tô Châu và quản trị vùng Tô Nam, Giang Tô học chính trú tại Giang Âm .Lưỡng Hoài diêm vận sứ trú tại Dương Châu, đảm nhiệm quản trị diêm trường Lưỡng Hoài, một diêm trường trọng điểm của quốc gia. Phạm vi tiêu thụ theo lao lý gồm có 4 tỉnh trung du Trường Giang là Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây và An Huy, cùng với nam bộ Hà Nam, Giang Ninh phủ và những phủ ở phía bắc Trường Giang của Giang Tô. Bốn phủ ở nam bộ Giang Tô là Tô Châu, Tùng Giang, Thường Châu và Trấn Giang chịu sự quản trị về muối của Lưỡng Chiết Giang Nam diêm vận sứ ti trú tại Hàng Châu .Thời Thanh, tại khu vực duyên hải Giang Tô dã thiết lập thêm ba trực lệ châu là : Thái Thương, Thông Châu và Hải Châu, thăng Từ Châu từ cấp trực lệ châu thành cấp phủ. Do dân số ngày càng tăng với số lượng lớn, nhiều huyện ở nam bộ Giang Tô đã chia đôi tuy nhiên vẫn chung huyện thành ( đến thời Dân Quốc mới bãi bỏ điều này ), trong thành Tô Châu thậm chí còn còn có huyện nha của ba huyện là Ngô, Trường Châu và Nguyên Hòa .Trong những năm 1840, Giang Tô khởi đầu chịu ảnh hưởng tác động của phương Tây. Năm 1843, theo điều ước Nam Kinh, một khu vực ít được biết đến ở đông nam Giang Tô là Thượng Hải đã trở thành một thương cảng hiệp ước, về sau tại đó đã hình thành nên tô giới quốc tế và tô giới Pháp. Thượng Hải đã nhanh gọn tăng trưởng thành một đại đô thị mậu dịch, kinh tế tài chính và quốc tế hóa, đến đầu thế kỷ XX thì nơi này đã có hàng triệu dân cư. Năm 1927, Thượng Hải đã chính thức tách ra khỏi Giang Tô và trở thành một viện hạ thị độc lập. Tại Trấn Giang và Tô Châu cũng lần lượt thiết lập tô giới Anh và tô giới Nhật, tuy nhiên với quy mô nhỏ hơn .Cuối thời Nhà Thanh, nam bộ Giang Tô từng nằm dưới quyền trấn áp của cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc. Đến năm 1853, Thái Bình Thiên Quốc thiên đô đến Nam Kinh và đổi tên thành Thiên Kinh. Các trận chiến kinh khủng giữa Nhà Thanh và Thái Bình Thiên Quốc đã khiến Giang Tô chịu tổn thất vô cùng nặng nề, những thành thị đa phần như Nam Kinh, Thanh Giang Phố ( nay là Hoài An ), hay những thành phố phồn hoa của Tô Châu và Dương Châu, đều bị diệt trừ. Sau đó, những dân cư nói Quan thoại đã di cư đến Giang Tô, khiến cho Nam Kinh, Trấn Giang và Dương Châu không còn là vùng nói tiếng Ngô ; vị thế TT kinh tế tài chính Trung Quốc của Tô Châu cũng về tay Thượng Hải .
Thịnh thế tư sinh đồ (盛世滋生图) phản ánh sự phồn hoa của Tô Châu vào thời Thanh

Thời Dân Quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Đại môn của phủ Tổng thống Nước Trung Hoa Dân Quốc tại Nam KinhSau khi Trung Hoa Dân Quốc được xây dựng, chính phủ nước nhà Quốc dân sau đó đã phế bỏ chính sách phủ, châu, thính và phân toàn tỉnh Giang Tô thành 60 huyện. Năm 1916, sau khi Viên Thế Khải chết, hàng loạt Trung Quốc rơi vào cảnh quân phiệt cát cứ. Tỉnh Giang Tô từng thuộc quyền thống trị của Trực Lệ quân phiệt do Trương Tông Xương đứng đầu, cùng quản trị khu vực Thượng Hải với Hoàn hệ quân phiệt tại Chiết Giang tuy nhiên về sau giữa hai bên đã bùng phát cuộc chiến tranh Giang-Chiết. Sau nhiều tháng, cuộc chiến tranh kết thúc với thắng lợi thuộc về Trực hệ. Tuy nhiên, sau đó giữa Trương Tông Xương và Tôn Truyền Phương quay sang đương đầu nhau, Tôn Truyền Phương đã lan rộng ra địa phận sang tỉnh Giang Tô. Ông ta đặt tổng hành dinh tại Nam Kinh với tư cách Đốc quân Giang Tô ngày 25 tháng 11 năm 1925. [ 11 ] Sau Bắc phạt, Giang Tô nằm dưới quyền trấn áp của nhà nước Quốc dân. Trong thời hạn này, công thương nghiệp của Giang Tây tăng trưởng nhanh gọn, ngành dệt tại Vô Tích, Nam Thông và Thường Châu đã tăng trưởng vững mạnh .Tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch đã thiết lập chính phủ nước nhà TW tại Nam Kinh. Chính quyền Tưởng Giới Thạch quản trị một cách thống nhất hơn 50% Trung Quốc, đồng thời đã thực thi thiết kế tân tiến hóa quốc gia, gồm có cả kiến thiết xây dựng mạng lưới công lộ. Năm 1928, sau khi chính phủ nước nhà Quốc dân chính thức định đô tại Nam Kinh, đã thực thi thiết kế Thành Phố Hà Nội với quy mô lớn, tỉnh lị của Giang Tô được chuyển đến Trấn Giang vào năm 1929 .Sau khi cuộc chiến tranh Trung-Nhật bùng phát tổng lực vào năm 1937, quân Nhật đã oanh tạc kinh hoàng những nơi nằm dọc theo tuyến đường tàu Hỗ-Ninh ( Thượng Hải-Nam Kinh ) như Trấn Giang, Vô Tích, Tô Châu và những thành phố khác. Ngàu 13 tháng 12, quân Nhật công hãm Nam Kinh, trong vòng ba tháng đã có hàng trăm nghìn thường dân và binh lính Trung Quốc đã giải giáp bị lính của Quân đội Đế quốc Nhật Bản sát hại. [ 12 ] [ 13 ]. Các hành vi hãm hiếp và cướp bóc trên quy mô lớn cũng đã diễn ra tại Nam Kinh. [ 14 ] [ 15 ] Các sử gia và nhân chứng ước tính rằng đã có từ 250.000 đến 300.000 người bị giết trong cuộc thảm sát này. [ 16 ]

Chính quyền tỉnh Giang Tô tạm thời đã di dời từ Trấn Giang đến Hoài An để tránh sự uy hiếp của quân Nhật, đến năm 1939, chính quyền tỉnh di dời đến Hưng Hóa. Nam Kinh cũng là thủ đô của chính quyền Uông Tinh Vệ cho đến khi Nhật Bản đầu hàng vào năm 1945. Chính quyền Uông Tinh Vệ đã di dời chính quyền tỉnh Giang Tô do mình quản lý đến Tô Châu. Đến năm 1944, chính quyền Uông Tinh Vệ đã thành lập tỉnh Hoài Hải tại bắc bộ Giang Tô và An Huy, lấy Từ Châu làm trung tâm. Trong chiến tranh, Tân Tứ quân (do Cộng sản đảng điều hành) đã tiến vào Tô Bắc, khống chế một bộ phận khu vực nông thôn, trụ sở quân sự được thiết lập tại Diêm Thành.

Sau cuộc chiến tranh, cơ quan chính phủ Quốc dân đã hoàn đô từ Trùng Khánh về Nam Kinh, tuy nhiên lúc này Cộng sản đảng đã trấn áp được một bộ phận khu vực Tô Bắc và Tô Trung và họ đã xây dựng cơ quan chính phủ biên khu Tô Hoàn đặt tại Hoài An. Không lâu sau, nội chiến Quốc-Cộng bùng phát, Cộng sản đảng triệt thoái khỏi Giang Tô. Tuy nhiên, đến năm 1948, những người cộng sản đã giành thắng lợi trong chiến dịch Hoài Hải ở khu vực phụ cận Từ Châu. Tháng 4 năm 1949, quân Cộng sản đã thuận tiện vượt Trường Giang và chiếm Nam Kinh, chính phủ nước nhà Quốc dân triệt thoái đến Đài Loan .

Thời Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc xây dựng, Bắc Kinh trở thành TP. hà Nội. Ban đầu, Giang Tô được phân thành hành thự Tô Bắc và hành thự Tô Nam, tuy nhiên đến năm 1953 thì lại hợp lại thành tỉnh Giang Tô, tỉnh lị đặt tại Nam Kinh. Ranh giới giữa Giang Tô và An Huy cũng có kiểm soát và điều chỉnh nhỏ : hai huyện Hu Dị và Tứ Hồng được chuyển cho Giang Tô, ngược lại, hai huyện Tiêu và Nãng Sơn của Từ Châu thì được chuyển sang cho An Huy .Đến đầu thập niên 1980, những nhà máy sản xuất tại nam bộ Giang Tô khá tăng trưởng, Tô Nam trở thành khu vực phong phú và tăng trưởng nhất Trung Quốc lúc đó. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu cải cách Open, điểm trung tâm kinh tế tài chính là vùng ven biển đông nam, nhất là tại tỉnh Quảng Đông, điều này đã khiến Giang Tô dần bị tụt lại phía sau. Kinh tế Giang Tô vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 rơi vào thực trạng đình trệ. Tuy nhiên, đến đầu thập niên 1990, TT kinh tế tài chính của vùng đồng bằng châu thổ Trường Giang là Thượng Hải đã nhận được sự chăm sóc to lớn, những thành thị ở nam bộ Giang Tô thân thiện với Thượng Hải như Tô Châu và Vô Tích cũng tăng trưởng nhanh gọn. Trong cùng thời kỳ, Open dòng vốn góp vốn đầu tư quốc tế đổ vào Tô Nam với số lượng lớn, kinh tế tài chính Giang Tô từ đó Open chênh lệch tăng trưởng giữa nam và bắc. Thực lực kinh tế tài chính tổng hợp của Nam Kinh cũng có sự nâng tầm, đứng số 1 tại Giang Tô. Khu công nghiệp Trung Quốc-Singapore tại Tô Châu là khu tăng trưởng kinh tế-kỹ thuật cấp vương quốc .
Giang Tô nằm ở phía đông đại lục Trung Quốc, số lượng giới hạn từ 116 ° 22 ‘ – 121 ° 55 ‘ kinh Đông, 30 ° 46 ′ – 35 ° 07 ′ vĩ Bắc. Có Trường Giang và Hoài Hà chảy qua ở phía nam và bắc, đông giáp Hoàng Hải, đông nam giáp Thượng Hải, nam giáp Chiết Giang, tây giáp An Huy, bắc giáp Sơn Đông. [ 17 ] Giang Tô nằm ở vùng chuyển giao giữa miền Bắc và miền Nam Trung Quốc, khí hậu và thảm thực vật mang cả đặc thù của phương Bắc và phương Nam. Giang Tô có diện tích quy hoạnh 102.600 km², là tỉnh có diện tích quy hoạnh nhỏ thứ hai Trung Quốc, chỉ sau Hải Nam. Đường ranh giới trên đất liền của tỉnh Giang Tô dài 3.383 km, cùng với 954 km đường bờ biển .
Tuyết rơi tại Tứ Thủy đình ở huyện Bái, Từ ChâuĐại bộ phận Giang Tô là đồng bằng phù sa hạ du Trường Giang và Hoài Hà, vị trí toàn tỉnh nhìn chung là khá thấp và phẳng phiu, cũng là tỉnh thấp và phẳng phiu nhất tại Trung Quốc. Diện tích vùng đồng bằng tại Giang Tô là xấp xỉ 70.000 km², chiếm 69 % diện tích quy hoạnh toàn tỉnh ; vùng mặt nước chiếm 17 % diện tích quy hoạnh của tỉnh, đồi núi thấp chiếm 14 % diện tích quy hoạnh của tỉnh và tập trung chuyên sâu tại tây nam và bắc bộ. [ 18 ] Đỉnh Ngọc Nữ ( 玉女峰 ) trên Hoa Quả Sơn thuộc Liên Vân Cảng là điểm trên cao nhất Giang Tô với cao độ 624,4 mét trên mực nước biển. Hoa Quả Sơn tại Giang Tô được công nhận tương đối thoáng rộng là nguyên mẫu của Hoa Quả Sơn trong Tây du ký. [ 19 ] [ 20 ]
Hầu hết những khu vực tại Giang Tô đều có mạng lưới hệ thống thủy khá tăng trưởng, diện tích quy hoạnh mặt nước của toàn tỉnh là 17.300 km², chiếm một tỷ suất lớn trong tổng diện tích quy hoạnh và đứng đầu trong số những tỉnh tại Trung Quốc. Đặc biệt là ở khu vực đồng bằng Thái Hồ ở phía nam của Trường Giang và đồng bằng Lý Hạ Hà ở giữa Trường Giang và Hoài Hà, những sông và kênh rạch hình thành một mạng lưới vô cùng sum sê .Trường Giang là sông lớn nhất tại Giang Tô, chảy theo hướng đông-tây, đoạn chảy qua Giang Tô của Trường Giang dài 425 km. [ 21 ] Trường Giang phân Giang Tô thành hai phần bắc và nam. Trên địa phận Giang Tô, có sông Tần Hoài nhập vào Trường Giang tại Nam Kinh. Trong lịch sử dân tộc, Hoài Hà từng chảy qua trung bắc bộ Giang Tô rồi đổ ra Hoàng Hải, tuy nhiên, kể từ năm 1194 thì Hoàng Hà đã đoạt mất đường thông ra biển của Hoài Hà. Đến năm 1885, khi Hoàng Hà lại chuyển dòng lên phía bắc để đổ ra Bột Hải, Hoài Hà không còn hoàn toàn có thể thông ra biển qua đường cũ được nữa, mà phải theo hồ Hồng Trạch, hồ Cao Bưu cùng Đại Vận Hà để đổ nước vào Trường Giang. Các sông lớn khác tại Giang Tô là sông Nghi ( 沂河 ), sông Thuật ( 沭河 ) và sông Tứ ( 泗水 ) .Ngoài những dòng chảy tự nhiên, Giang Tô cũng có rất nhiều kênh. Trong đó Kinh-Hàng Đại Vận Hà trải dài 718 km [ 21 ] từ nam đến bắc của tỉnh, có cả thảy 8 địa cấp thị tại Giang Tô nằm ven tuyến Kinh-Hàng Đại Vận Hà, trong đó có những danh thành trong lịch sử dân tộc và văn hóa truyền thống Trung Quốc như Tô Châu hay Dương Châu. Ngoài ra, Giang Tô còn có những kênh nổi danh khác như kênh thủy lợi Tô Bắc ( 苏北灌溉总渠, dẫn nước từ Hoài Hà ra biển theo dòng chảy cũ ) và Thông Dương Vận Hà ( 通扬运河 ) .Giang Tô là tỉnh tập trung chuyên sâu nhiều hồ nhất Trung Quốc, với trên 290 hồ lớn nhỏ, tổng diện tích quy hoạnh mặt hồ của toàn tỉnh Giang Tô là 6.853 km², chiếm tỷ suất 6 % diện tích quy hoạnh, đứng đầu cả nước. Trong đó những hồ có diện tích quy hoạnh trên 1000 km² là Thái Hồ ( 2250 km² ) và hồ Hồng Trạch ( 2069 km² ), đứng vị trí thứ 3 và thứ 4 trong năm hồ nước ngọt lớn nhất Trung Quốc. Các hồ có diện tích quy hoạnh từ 100 – 1000 km² có hồ Cao Bưu ( 高邮湖 ), hồ Lạc Mã ( 骆马湖 ), hồ Thạch Cữu ( 石臼湖 ), hồ Cách ( 滆湖 ), hồ Bạch Mã ( 白马湖 ) và hồ Dương Trừng ( 阳澄湖 ). Các hồ có diện tích quy hoạnh từ 50 – 100 km² tại Giang Tô gồm hồ Trường Đãng ( 长荡湖 ), hồ Thiệu Bá ( 邵伯湖 ), hồ Điến Sơn ( 淀山湖 ), hồ Cố Thành ( 固城湖 ). Các hồ tại Giang Tô không chỉ là một nguồn nước quan trọng mà còn là những nơi có nguồn lợi thủy hải sản, có giá trị trong giao thông vận tải đường thủy. Với một tỉnh có vị trí thấp như Giang Tô, những hồ nước còn có tính năng chứa nước trong những cơn lụt lớn .

Hầu hết Giang Tô nằm trong đới khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Cfa hay Cwa trong phân loại khí hậu Köppen), và bắt đầu chuyển sang đới khí hậu lục địa ẩm (Köppen Dwa) ở xa về phía bắc. Giữa các mùa có sự phân biệt rõ ràng, với nhiệt độ trung bình từ −1 đến 4 °C (30 đến 39 °F) vào tháng 1 đến 26 đến 29 °C (79 đến 84 °F) vào tháng 7. Mưa rơi thường xuyên giữa mùa xuân và mùa hè (mai vũ), các cơn bão nhiệt đới cùng với mưa bão xuất hiện vào cuối mùa hè và đầu mùa thu. Lượng mưa bình quân hàng năm của Giang Tô là 800 đến 1.200 milimét (31 đến 47 in), tập trung chủ yếu vào mùa hè, khi có gió mùa đông nam.

Đại Minh tự tại Dương ChâuTính đến cuối năm 2011, tổng số nhân khẩu thường trú tại Giang Tô là 78,988 triệu người, tăng 295.000 người so với năm trước. Trong năm, tỷ xuất sinh của Giang Tô là 9,59 ‰ và tỷ suất tử trận là 6,98 ‰, đạt mức tăng trưởng tự nhiên là 2,61 ‰. Bên cạnh người Hán chiếm tuyệt đại đa số, tỉnh Giang Tô có sự hiện hữu của hàng loạt 55 dân tộc thiểu số được công nhận tại Trung Quốc. Các dân tộc thiểu số đã sinh sống nhiều đời tại Giang Tô là người Hồi và người Mãn .
Quan thoại và tiếng Ngô là hai ngôn từ hay phương ngữ chính tại Giang Tô. Trong đó, tiếng Ngô phân chia ở khu vực đông nam mà TT là Tô Châu, Vô Tích và Thường Châu ; Quan thoại Cafe Trung Nguyên phân bổ ở phía tây-bắc, bao trùm hàng loạt Từ Châu và vùng đô thị của Túc Thiên ; Quan thoại Giao-Liêu chỉ được nói ở huyện Cống Du thuộc Liên Vân Cảng ; những khu vực còn lại, gồm có cả tỉnh lị Nam Kinh, đa phần nói Quan thoại Giang Hoài. Ngoài ra, ở vùng Tô Nam còn hình thành một số ít hòn đảo phương ngữ bắt nguồn từ những di dân ngoại tỉnh, như của tiếng Mân Nam .

Các đơn vị chức năng hành chính[sửa|sửa mã nguồn]

Giang Tô được chia làm 13 đơn vị hành chính, toàn bộ là thành phố thuộc tỉnh (địa cấp thị, 地级市):

Các đơn vị hành chính cấp địa khu trên đây được chia thành 106 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 54 quận (thị hạt khu), 27 thành phố cấp huyện (huyện cấp thị), và 25 huyện. Các đơn vị hành chính cấp huyện này lại được nhỏ thành 1488 đơn vị hành chính cấp hương, gồm 1078 thị trấn (trấn), 122 hương, 1 hương dân tộc, và 287 phường (nhai đạo).

Theo giám sát sơ bộ, tổng GDP của Giang Tô trong năm 2011 là 4,86043 nghìn tỉ NDT, tăng trưởng 11 % so với năm trước đó. Kết cấu những khu vực trong nền kinh tế tài chính của tỉnh cũng tiến triển theo hướng ưu hóa, năm 2011, khu vực một của nền kinh tế tài chính đạt giá trị 306,48 tỉ NDT, tăng trưởng 4 % ; khu vực hai của nền kinh tế tài chính đạt giá trị 2,50238 nghìn tỉ NDT, tăng trưởng 11,7 % ; khu vực ba của nền kinh tế tài chính đạt giá trị 2,05157 nghìn tỉ NDT, tăng trưởng 11,1 % ; tỷ suất giữa ba khu vực theo thứ tự là 6,3 : 51,5 : 42,2. Cũng trong năm này, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Giang Tô là 539,76 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 312,6 tỉ USD. [ 18 ]Năm 2018, Giang Tô có 80,4 triệu dân, GDP đạt 9,29 nghìn tỉ nhân dân tệ ( tương ứng với 1,4 nghìn tỉ USD ), [ 36 ] hạng nhì Trung Quốc đại lục ( sau Bắc Kinh ), hạng tư toàn nước ( sau Ma Cao và Hồng Kông ), GDP trung bình đạt 115.768 nhân dân tệ ( 17.438 USD ). [ 37 ] Giang Tô có tới 80 triệu dân, lại đạt GDP trung bình đầu người cao gấp đôi trung bình chung quốc tế, đứng ở vị trí rất nổi bất so với yếu tố tăng trưởng kinh tế tài chính. nhà nước Nhân dân tỉnh Giang Tô là cơ quan thực thi tăng trưởng kinh tế tài chính tỉnh, và Tỉnh trưởng nhà nước Nhân dân tỉnh Giang Tô là người trực tiếp chỉ huy kinh tế tài chính. Tỉnh có một mạng lưới hệ thống tưới tiêu to lớn tương hỗ nông nghiệp, đa phần là lúa gạo và lúa mì, ngô và lúa miến. Từ rất lâu, Giang Tô có mạng lưới hệ thống tăng trưởng những loại cây xanh như bông, đậu nành, đậu phộng, hạt vừng, cây gai, trà, bạc hà, tre, dược liệu, táo, lê, đào, bạch quả và gồm có Thái Hồ ở phía nam là cơ sở sản xuất tơ lụa chính ở Trung Quốc. Tuy nhiên, nghành này thuộc Khu vực một của nền kinh tế tài chính, chỉ chiếm 4 % kinh tế tài chính Giang Tô, khi mà nền kinh tế tài chính đa phần nằm ở nghành công nghiệp công nghệ cao. Kinh tế Giang Tô năm 2018 này vượt qua cả Mexico, Indonesia, lần lượt hạng 15, 16 kinh tế tài chính quốc tế. Tăng trưởng kinh tế tài chính hàng năm khoảng chừng 8 %. Nền kinh tế tài chính của Giang Tô là lớn thứ bảy trong số những đơn vị chức năng cấp tỉnh trên toàn thế giới, sau California, Anh, Tokyo, Texas, Thành Phố New York và Quảng Đông .
Theo truyền thống cuội nguồn, Giang Tô hướng theo tăng trưởng những ngành công nghiệp nhẹ như dệt may và công nghiệp thực phẩm. Từ năm 1949, Giang Tô cũng đã tăng trưởng những ngành công nghiệp nặng như công nghiệp hóa chất và vật tư kiến thiết xây dựng. Các nghành công nghiệp quan trọng tại Giang Tô gồm có máy móc, điện tử, hóa chất và xe hơi. [ 38 ] [ 39 ] Trong thời hạn gần đây, chính quyền sở tại cũng khá tích cực để thức đẩy ngành công nghiệp nguồn năng lượng mặt trời và kỳ vọng vào năm 2012, ngành này sẽ đạt giá trị 100 tỉ NDT. [ 40 ] Hiện nay, Giang Tô là vùng trọng điểm tại Trung Quốc trong những ngành điện tử, máy móc, dệt may, hóa dầu và vậy liệu thiết kế xây dựng. Quy mô giá trị công nghiệp năm 2011 ngày càng tăng 13,8 % so với năm trước đó, trong đó những ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng lần lượt có mức tăng trưởng 11,1 % và 14,8 %. Cũng trong năm 2011, khu vực công nghiệp thuộc chiếm hữu nhà nước tăng trưởng 10,3 %, khu vực công nghiệp tập thể tăng trưởng 5,3 %, khu vực công nghiệp theo chính sách CP tăng trưởng 13,9 %, khu vực góp vốn đầu tư quốc tế ( gồm có cả vốn Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan ) tăng trưởng 13,8 %. [ 18 ]
Giang Tô có một lịch sử dân tộc nông nghiệp lâu bền hơn, từ 6.000 năm trước những người sống trên vùng đất mà nay là Giang Tô đã trồng lúa cạn và lúa nước. Giang Tô là khu vực sản xuất nông nghiệp trọng điểm tại Trung Quốc trong một thời hạn dài, có được khét tiếng ” ngư mễ chi hương ” ( vùng đất của cả và gạo, vùng đất phong phú ). Giang Tô có một mạng lưới thủy lợi rộng khắp Giao hàng cho nông nghiệp. Hiện nay, nền nông nghiệp của tỉnh hầu hết dựa trên việc trồng lúa gạo và lúa mì, sau đó đến ngô và lúa miến. Các loại cây xanh để thu hoa lợi khác gồm có bông, đỗ tương, lạc, cải dầu, vừng, gai dầu, chè. Các cây xanh để Giao hàng cho những mục tiêu khác gồm có bạc hà, bạc hà lục, tre, thảo mộc. Các loại cây ăn quả được trồng tại Giang Tô là táo tây, lê, đào, nhót tây, bạch quả. Dâu tằm cũng là một cây cối quan trọng trong nền nông nghiệp của Giang Tô, vùng Thái Hồ là một TT sản xuất tơ lụa chính tại Trung Quốc. Năm 2011, tổng sản lượng lương thực của Giang Tô đạt 33,078 triệu tấn, tổng sản lượng thịt gia súc và gia cầm là 3,656 triệu tấn, tổng sản lượng trứng gia cầm là 1,949 triệu tấn, tổng sản lượng sữa là 3,337 triệu tấn, những mẫu sản phẩm thủy hải sản có sản lượng 1,422 triệu tấn. [ 18 ]

Tài nguyên tài nguyên[sửa|sửa mã nguồn]

Tính đến năm 2011, người ta đã phát hiện được 133 loại tài nguyên trên địa phận Giang Tô, trong đó đã xác định được trữ lượng của 67 loại. Giang Tô có tài nguyên than đá, dầu mỏ và khí vạn vật thiên nhiên, tuy nhiên những loại tài nguyên quan trọng nhất của tỉnh là những loại phi kim như thạch diêm, lưu huỳnh, phosphor và đá hoa. Các mỏ muối tại Hoài Âm có trữ lượng trên 0,4 nghìn tỉ tấn và là một trong những khu vực có trữ lượng lớn nhất Trung Quốc .
Chuyết Chánh viên tại Tô ChâuGiang Tô là một trong những tỉnh trọng điểm về du lịch tại Trung Quốc, với những danh hồ, danh sơn, danh tuyền, danh viên, danh tự nổi tiếng khắp quốc gia. Giang Tô có 28 ” thành thị du lịch xuất sắc ưu tú Trung Quốc “, 9 khu thắng cảnh cấp 5A, 98 khu thắng cảnh loại 4A. Các danh hồ tại Giang Tô gồm có : Thái Hồ, hồ Huyền Vũ 玄武湖 và hồ Mạc Sầu ( 莫愁湖 ) ở Nam Kinh, hồ Sấu Tây ( 瘦西湖 ) ở Dương Châu, hồ Dương Trừng ở Tô Châu, hồ Vân Long ( 云龙湖 ) ở Từ Châu, hồ Thiên Mục ( 天目湖 ) ở Lật Dương. Suối Trung Linh ( 中泠泉 ) ở Trấn Giang được gọi là ” Thiên hạ đệ nhất tuyền “, suối Huệ Sơn ( 惠山泉 ) ở Vô Tích được gọi là ” Thiên hạ đệ nhị tuyền “. Chung Sơn ở Nam Kinh, Tam Sơn ( Bắc Cố Sơn, Kim Sơn, Tiêu Sơn ) ở Trấn Giang với màu xanh tươi. Mao Sơn ở nơi giáp giới giữa Cú Dung và Kim Đàn là TT Đạo giáo ở Đông Nam Trung Quốc, còn được gọi là ” Đệ nhất phúc địa ” và ” Đệ bát động thiên ” của Đạo giáo. Hoa Quả Sơn tại Liên Vân Cảng nhờ kết hôn với ” Tây du ký ” mà nổi danh khắp trong và ngoài nước. Minh Hiếu lăng ( 明孝陵 ) tại Nam Kinh là một phần của quần thể Lăng tẩm hoàng gia Minh-Thanh, một di sản quốc tế của UNESCO. Các viên lâm cổ xưa tại Giang Tô nổi tiếng trên toàn quốc tế, trong đó Chuyết Chính viên ( 拙政园 ), Lưu Viên ( 留园 ) tại Tô Châu là một trong tứ đại danh viên của Trung Quốc, 9 viên lâm cổ xưa tại Tô Châu hình thành một quần thể di sản quốc tế của UNESCO. Tê Hà tự ( 栖霞寺 ) tại Nam Kinh, Kim Sơn tự ( 金山寺 ) tại Trấn Giang, Đại Danh tự ( 大名寺 ) tại Dương Châu, Hàn Sơn tự ( 寒山寺 ) tại Tô Châu, Long Xương tự ( 隆昌寺 ) tại Cú Dung là những đền chùa cổ trứ danh. [ 18 ] Các thắng cảnh nổi tiếng khác tại Giang Tô còn có Linh Sơn Đại Phật ( 灵山大佛 ) ở Vô Tích, cầu Trường Giang Nam Kinh, một khu công trình được xem là hình tượng cho niềm tin và năng lực của người Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông, lăng Tôn Trung Sơn .
súp mì và tôm Đông Qua, một món ăn của ẩm thực ăn uống Kinh Tô bài phường với các họa tiết của vận cẩm, loại lụa đặc sản của Nam KinhThế kỷ XVII, triều đình Nhà Thanh đã tách tỉnh Giang Nam thành Giang Tô và An Huy, tuy nhiên tên tuổi Giang Nam vẫn thường được nhắc đến sau đó. Hai phần phía bắc và phía nam của Giang Tô xưa kia không có nhiều liên kết với nhau như trong những thế kỷ gần đây. Theo truyền thống cuội nguồn, Tô Nam được dùng để chỉ ba thành phố thịnh vượng hơn là Tô Châu, Vô Tích và Thường Châu ; văn hóa truyền thống Tô Nam thuộc vòng văn hóa truyền thống Ngô cùng với Thượng Hải và Chiết Giang. Tại khu vực Giang Hoài thì những thành phố Hoài An, Dương Châu và Trấn Giang thuộc vòng văn hóa truyền thống Giang Hoài ( Đông ), hay còn gọi là văn hóa truyền thống Hoài Dương ; Nam Kinh thuộc khu vực văn hóa truyền thống Hoài Tây, hay văn hóa truyền thống Ninh Lư. Khu vực Thái Châu cùng đại bộ phận Diêm Thành và Nam Thông là nơi nhiều nét văn hóa truyền thống cùng sống sót. Nam bộ Túc Thiên, khu vực đô thị và nam bộ của Liên Vân Cảng thuộc vùng văn hóa truyền thống Hải Tứ, khu vực này nằm ở phía bắc Hoài Hà, phong tục vùng này là sự quá độ từ văn hóa truyền thống Cafe Trung Nguyên sang văn hóa truyền thống Giang Hoài. Từ Châu, khu vực đô thị của Túc Thiên và 2 huyện bắc bộ của Liên Vân Cảng thuộc khu vực văn hóa truyền thống Cafe Trung Nguyên. Ngoài ra, từ năm 1998, đã có một cách phân loại mới được sử dụng liên tục, đó là vùng phía nam Trường Giang thì được gọi là Tô Nam, những thành phố Dương Châu, Nam Thông và Thái Châu được gọi là Tô Trung và những nơi còn lại của Giang Tô thì được gọi là Tô Bắc .

Giâng Tô là tỉnh giàu truyền thống văn hóa: Côn khúc, bắt nguồn từ Côn Sơn, là một trong các loại hình hí khúc nổi tiếng và có thanh thế nhất. Bình đàn (评弹), một hình thức kể chuyện kèm theo âm nhạc, cũng khá phổ biến ở Giang Tô: có thể phân loại loại hình ca kịch này dựa theo nguồn gốc: Bình đàn Tô Châu, Bình đàn Dương Châu và Bình đàn Nam Kinh. Tích kịch (锡剧), một loại hình hí kịch truyền thống Trung Quốc, khá thông dụng tại Vô Tích, trong khi Hoài kịch (淮剧) phổ biến ở các khu vực phía bắc, xung quanh Diêm Thành.

Ẩm thực Giang Tô là một trong tám phe phái lớn của ẩm thực ăn uống Trung Quốc. Ẩm thực Giang Tô lại được chia tiếp thành những phong thái nhà hàng siêu thị nhỏ hơn : nhà hàng siêu thị Kim Lăng ( hay siêu thị nhà hàng Kinh Tô ), TT là Nam Kinh với đặc thù là tinh xảo cùng khẩu vị ” bình hòa ” ; ẩm thực ăn uống Hoài Dương tập trung chuyên sâu tại Hoài An, Dương Châu và Trấn Giang với đặc thù là chú trọng đến việc lựa chọn nguyên vật liệu và dao, khẩu vị ” thanh đạm ” ; ẩm thực ăn uống Tô Tích tập trung chuyên sâu tại Tô Châu, Vô Tích cùng Thường Châu với đặc thù là thường dùng bã rượu để điều vị, có thế mạnh về những loại thủy hải sản, khẩu vị ” thiên điềm ” ; ẩm thực Từ Hải, tập trung chuyên sâu ở Từ Châu và Liên Vân Cảng, có thế mạnh về món ăn hải sản và rau xanh, khẩu vị ” giác trọng “. Nhìn chung, những nguyên vật liệu nổi bật trong món ăn Giang Tô là thủy hải sản tươi sống, trà, măng, nấm, .. Ngoài ra, kỹ thuật gọt tỉa, trang trí thức ăn cũng đóng vai trò quan trọng. Ẩm thực Giang Tô nổi tiếng về những món hầm, ninh, tần .Tô Châu nổi tiếng với tơ lụa, thêu nghệ thuật và thẩm mỹ, trà hoa nhài, thạch kiều, đền miếu, và những viên lâm cổ. Nghi Hưng gần đó nổi tiếng với trà cụ ( những vật dụng trong việc thưởng trà ), còn Dương Châu nổi tiếng với nghệ thuật và thẩm mỹ sơn mài và đồ bằng ngọc. Vân cẩm ( 云锦 ) của Nam Kinh là một loại lụa dệt nổi tiếng .Từ thời cổ, Tô Nam đã nổi tiếng với sự thịnh vượng và sang trọng và quý phái, những địa điểm ở Giang Nam như Tô Châu hay Dương Châu đã đi vào thi ca, kể cả trong tác phẩm của những thi nhân nổi tiếng, với vẻ thơ mộng. Sự nổi danh của Tô Châu cũng như Hàng Châu ở Chiết Giang đã khiến Open câu nói nổi tiếng ” Thượng hữu thiên đường, hạ hữu Tô Hàng ” ( 上有天堂, 下有蘇杭 ). Tương tự, sự thịnh vượng của Dương Châu đã khiến sinh ra câu thơ : ” Eo quấn mười vạn xâu ( tiền ), cưỡi hạc xuống Dương Châu ” ( 腰纏十萬貫, 騎鶴下揚州, Yêu triền thập vạn quán, kị hạc hạ Dương Châu ) .
Đoạn Kinh Hàng Đại Vận Hà qua Dương ChâuGiang Tô giáp Hoàng Hải ở phía đông, Trường Giang và Kinh Hàng Đại Vận Hà tạo thành một hình chữ thập ( 十 ) trên địa phận tỉnh, vùng đồng bằng Thái Hồ và đồng bằng Lý Hạ Hà có mạng lưới đường thủy sum sê. do đó, giao thông vận tải đường thủy đóng một vị thế quan trọng trong tổng thể và toàn diện giao thông vận tải của Giang Tô. Tuyệt đại bộ phận những thành thị của Giang Tô nhờ có lợi thế giao thông vận tải thủy mà đã tăng trưởng phồn vinh. Trên địa phận Giang Tô lúc bấy giờ có những cảng như cảng Thái Thương, cảng Thường Thục, cảng Trương Gia Cảng, cáng Liên Vân Cảng, cảng Nam Thông, cảng Nam Kinh, cảng Trấn Giang, cảng Giang Âm. Hệ thống cảng Tô Châu ( gồm có ba cảng Thái Thương, cảng Thường Thục và cảng Trương Gia Cảng ) là cảng lớn nhất Giang Tô, cũng là cảng đường sông lớn nhất Trung Quốc .
Tính đến cuối năm 2011, tỉnh Giang Tô có 2348 km đường tàu đã thông tuyến. Đường sắt Kinh-Hỗ, đường tàu Lũng-Hải là những tuyến đường tàu trọng điểm đi qua tỉnh Giang Tô. Đường sắt Kinh-Hỗ hầu hết là theo hướng đông-tây và xuyên qua Giang Tô ở phía nam, còn đường tàu Lũng-Hải đi theo chiều đông-tây ở cực bắc của Giang Tô, qua Từ Châu và Liên Vân Cảng. Đoạn Nam Kinh-Thượng Hải của đường tàu Kinh-Hỗ là đoạn đường tàu bận rộn nhất tại Trung Quốc, vào lúc cao điểm cứ mỗi 5 phút sẽ có một chuyến tàu. Mặc dù Giang Tô là một tỉnh tăng trưởng về kinh tế tài chính tại Trung Quốc, tuy nhiên giao thông vận tải đường tàu của tỉnh lại tụt hậu, một khu vực to lớn của tỉnh, nhất là đại bộ phận Giang Bắc vẫn có rất ít những tuyến đường tàu, khiến sự tăng trưởng kinh tế tài chính bị cản trở. Ngày 28 tháng 9 năm 2009, cầu đường tàu vượt Trường Giang thứ hai trên địa phận Giang Tô đã hợp long thuận tiện. [ 41 ]
Tính đến cuối năm 2011, toàn tỉnh Giang Tô có 152.247 km công lộ, đạt tỷ lệ 148 km / 100 km², trong đó có 4122 km đường cao tốc, đứng thứ 5 cả nước ; tỷ lệ đường cao tốc là 4,02 km / 100 km², đứng đầu trong số những tỉnh và khu tự trị tại Trung Quốc. [ 18 ] [ 42 ]Trên địa phận Giang Tô, những tuyến đường cao tốc Liên-Hoắc ( G30 ), đường cao tốc Hỗ-Thiểm ( G40 ), đường cao tốc Hỗ-Dong ( G42 ) chạy theo chiều đông-tây ; những tuyến đường cao tốc Thẩm-Hải ( G15 ), đường cao tốc Kinh-Hỗ ( G2 ), đường cao tốc Trường-Thẩm ( G25 ) chạy theo hướng nam-bắc ; tuyến đường cao tốc Ninh-Lạc ( G36 ) thông suốt hai thành thị lớn là Nam Kinh và Lạc Dương ; tuyến đường cao tốc Hỗ-Du ( G50 ) từ Thượng Hải đi qua Tô Châu để tiến đến Chiết Giang ; tuyến đường cao tốc Kinh-Đài từ Sơn Đông đi qua Từ Châu để tiến vào An Huy. Ngoài ra, Giang Tô còn có nhiều tuyến đường đi bộ cao tốc cấp tỉnh. [ 43 ]
Tính đến đầu năm 2012, Giang Tô có 185 tuyến bay quốc nội và 39 tuyến bay quốc tế. [ 18 ] Giang Tô có 9 trường bay gia dụng là Sân bay quốc tế Lộc Khẩu Nam Kinh, Sân bay Thạc Phóng Vô Tích, Sân bay Bôn Ngưu Thường Châu, trường bay Liên Thủy Hoài An, trường bay Diêm Thành, Sân bay Quan Âm Từ Châu, Sân bay Bạch Tháp Phụ Liên Vân Cảng, Sân bay Hưng Thông Nam Thông, trường bay Thái Châu Dương Châu. Ngoài ra, tỉnh còn có ba trường bay phối hợp cả mục tiêu quân sự chiến lược và gia dụng là trường bay Đại Hiệu Trường Nam Kinh, trường bay Quang Phúc Tô Châu, trường bay Như Cao .

Giang Tô nằm ở hạ du Trường Giang, là nơi con sông lớn này đổ ra biển. Các cây cầu vượt Trường Giang tại Giang Tô đều phải là những cây cầu lớn (từ tây sang đông):

Trường ĐH[sửa|sửa mã nguồn]

Địa phương kết nghĩa[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://thevesta.vn
Category: Bản Đồ