Kỷ Jura – Wikipedia tiếng Việt

Kỷ Jura là một kỷ trong niên đại địa chất kéo dài từ khoảng 200 triệu năm trước, khi kết thúc kỷ Tam điệp tới khoảng 146 triệu năm trước, khi bắt đầu kỷ Phấn trắng (Creta). Giống như các kỷ địa chất khác, các tầng đá xác định sự bắt đầu và kết thúc của kỷ này đã được xác định khá rõ ràng, nhưng niên đại chính xác thì vẫn là điều không chắc chắn trong phạm vi 5 – 10 triệu năm. Kỷ Jura tạo thành thời kỳ giữa của Đại Trung Sinh, còn được biết đến như là kỷ nguyên Khủng long. Sự bắt đầu của kỷ này được đánh dấu bằng sự kiện tuyệt chủng lớn kỷ Trias-Jura.

Tên gọi kỷ Jura do Alexandre Brogniart đặt cho những địa hình đá vôi có nguồn gốc biển lộ ra ở dãy núi Jura, trong khu vực giáp ranh giữa Đức, Pháp và Thụy Sĩ .

Các phân kỷ[sửa|sửa mã nguồn]

Kỷ Jura thông thường được chia ra thành các phân kỷ Tiền, Trung và Hậu, còn được biết đến như là Lias, DoggerMalm. Các thuật ngữ tương ứng cho các tầng đá là Hạ, Trung và Thượng Jura. Các tầng động vật từ trẻ nhất đến cổ nhất là:

Cổ địa lý học[sửa|sửa mã nguồn]

Trong thời kỳ Jura sớm, siêu lục địa Pangea đã bị chia tách ra thành Bắc Mỹ, Eurasia và Gondwana. Đại Tây Dương khi đó còn tương đối hẹp. Vào thời kỳ Jura muộn thì lục địa phía nam, Gondwana, khởi đầu tách ra và biển Tethys đã khép lại, lòng chảo Neotethys đã Open. Khí hậu khi đó ấm cúng, do không có chứng cứ cho thấy có sự sống sót của sự ngừng hoạt động. Trong kỷ Trias, có vẻ như đã không có những vùng đất gần hai địa cực cũng như những chỏm băng .

Hồ sơ địa chất kỷ Jura là khá tốt ở miền tây châu Âu, tại đây các chuỗi trầm tích đại dương rộng lớn được tìm thấy dọc theo các bờ biển, bao gồm cả di sản thế giới bờ biển Jurassic nổi tiếng. Các tầng của kỷ này cũng được đặc trưng bởi các lagerstätte nổi tiếng như Holzmaden và Solnhofen. Ngược lại, các hồ sơ địa chất ở Bắc Mỹ thuộc kỷ Jura là nghèo nàn nhất trong Đại Trung Sinh, với chỉ một ít phần trồi lên bề mặt (xem bản đồ Lưu trữ 2007-07-15 tại Wayback Machine). Mặc dù biển Sundance khá nông đã để lại các trầm tích tại một số nơi thuộc đồng bằng miền bắc Hoa Kỳ và Canada trong thời kỳ cuối kỷ Jura, nhưng phần lớn trầm tích trong giai đoạn này đều mang tính lục địa, chẳng hạn như các trầm tích phù sa của kiến tạo núi Morrison.

Rất nhiều loại khủng long thời tiền sử sinh sống trong những cách rừng hạt trần ở kỷ JuraCác khối đá batholith lớn tiên phong đã Open ở miền bắc Cordillera khởi đầu vào giữa kỷ Jura, tạo ra sự hình thành núi ở Nevada ( Monroe và Wicander 1997, tr. 607 ). Các phần lộ ra quan trọng thuộc kỷ Jura cũng được tìm thấy ở Nga, Ấn Độ, Nam Mỹ, Nhật Bản, Australasia và Vương quốc Anh lúc bấy giờ .Ở châu Phi, địa tầng Jurassic sớm được phân bổ tương tự như như nền Jura muộn, with more common outcrops in the south and less common fossil beds which are predominated by tracks to the north. [ 14 ] Giống như sự tăng trưởng ở những nơi khác trong kỷ Jura, nhóm khủng long thời tiền sử thông dụng và nhiều hơn cả đó là Sauropods và Ornithopods, đã tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ ở Châu Phi. [ 14 ] Địa tầng Trung Jura không có đại diện thay mặt tiêu biểu vượt trội cũng không được điều tra và nghiên cứu ở châu Phi. [ 14 ] Địa tầng Jura muộn chỉ có một số ít ít đại diện thay mặt từ hệ động vật hoang dã Tendeguru ở Tanzania. [ 14 ] Sự sống ở Jura muộn của Tendeguru rất giống với những gì được tìm thấy ở thành hệ Morrison phía tây Bắc MĨ .

Động vật thủy sinh[sửa|sửa mã nguồn]

Trong kỷ Jura, những dạng ” cao nhất ” của sự sống đã sinh trưởng trong những đại dương là cá và những loài bò sát biển. Nhóm bò sát gồm có thằn lằn cá ( Ichthyosauria ), thằn lằn cổ rắn chân chèo ( Plesiosauria ) và cá sấu biển ( Crocodilia ) thuộc những họ Teleosauridae và Metriorhynchidae .Trong thế giới động vật hoang dã không xương sống thì một vài nhóm mới đã Open, ví dụ điển hình :

  • Sinh vật phù du ngành Foraminifera và nhóm Calpionelid
  • Động vật hai mảnh vỏ thuộc lớp Bivalvia
  • Động vật thân mềm nhóm Belemnoidea và
  • Động vật thuộc ngành Brachiopoda với các nhóm Terebratulid và Rinchonelid.

Các con cúc thuộc phân lớp Ammonoidea ( lớp Cephalopoda có vỏ ) là phổ cập và khá phong phú, tạo thành 62 sinh đới .

Động vật đất liền[sửa|sửa mã nguồn]

Trên đất liền, những loài bò sát lớn thuộc nhóm Archosauria vẫn thống trị. Các loài khủng long thời tiền sử hông thằn lằn lớn ăn cỏ ( cận bộ Sauropoda ) sinh sống trên những thảo nguyên và ăn dương xỉ và những loài tuế có hình dáng giống cây dừa cũng như nhóm Bennettitales. Chúng bị những khủng long thời tiền sử thuộc cận bộ Theropoda lớn ( Ceratosaurs, Megalosaurs và Allosaurs ) săn bắt. Tất cả những loài khủng long thời tiền sử này đều thuộc nhóm ‘ hông thằn lằn ‘ hay bộ Saurischia .

Vào thời kỳ Jura muộn thì các loài chim đầu tiên đã tiến hóa từ khủng long nhỏ thuộc cận bộ Coelurosauria. Khủng long thuộc bộ Ornithischia ít chiếm ưu thế hơn so với khủng long bộ Saurischia, mặc dù một vài nhóm như chi Stegosaur và phân bộ Ornithopoda nhỏ đã đóng vai trò quan trọng như là các động vật ăn cỏ có kích thước từ nhỏ, trung bình tới lớn (nhưng không có kích thước như Sauropoda). Trong không gian, thằn lằn chim (Pterosauria) là phổ biến, thực hiện nhiều vai trò sinh thái như chim hiện nay.

Hạt trần là loài thực vật chiếm lợi thế trên đất liền vào kỉ JuraCác điều kiện kèm theo khô hạn đặc trưng cho phần đông kỷ Trias từ từ giảm nhẹ trong kỷ Jura, đặc biệt quan trọng là ở những độ to lớn ; khí hậu ấm và ẩm được cho phép những cánh rừng nhiệt đới gió mùa xanh tươi bao trùm hầu hết diện tích quy hoạnh đất ( Haines, năm 2000 ). Thực vật có hoa vẫn chưa được tiến hóa thành và những loại thực vật quả nón ngự trị trên những vùng đất, giống như chúng đã từng sống sót trong kỷ Trias. Trên thực tiễn chúng là nhóm thực vật phong phú nhất và tạo thành phần chính yếu của những loài cây lớn thân gỗ. Các họ ngành Thông sống sót ngày này đã tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ trong kỷ Jura là Araucariaceae, Cephalotaxaceae, Pinaceae, Podocarpaceae, Taxaceae và Taxodiaceae ( Behrensmeyer và tập sự 1992, tr. 349 ). Họ thực vật quả nón thuộc Đại Trung Sinh mà nay đã tuyệt chủng là Cheirolepidiaceae từng sở hữu thảm thực vật thuộc độ cao nhỏ, cũng giống như những loài cây bụi thuộc bộ Bennettitales ( Behrensmeyer và tập sự 1992, tr. 352 ). Các loài tuế ( Cycadophyta ) cũng rất thông dụng, cũng như những loài bạch quả và dương xỉ thân gỗ trong những cánh rừng. Các loài dương xỉ nhỏ hơn có lẽ rằng đã là nhóm thống lĩnh ở tầng thấp. Dương xỉ có hạt nhóm Caytoniacea là một nhóm thực vật quan trọng khác trong thời kỳ này và có lẽ rằng chúng có size của cây bụi hay cây thân gỗ nhỏ ( Behrensmeyer và tập sự 1992, tr. 353 ). Các loài thực vật tựa như như bạch quả là thông dụng ở những vĩ độ từ trung tới cao của nửa phía bắc. Tại Bán cầu nam, những loài kim giao đặc biệt quan trọng tăng trưởng ( Haines, năm 2000 ), trong khi bạch quả và Czekanowskiales thì hiếm ( Behrensmeyer và tập sự 1992, tr. 352 ) .

  • Tên gọi của cuốn tiểu thuyết và bộ phim Công viên kỷ Jura đề cập tới kỷ Jura, mặc dù nhiều sinh vật được miêu tả trong tiểu thuyết cũng như phim thực ra là thuộc kỷ Phấn trắng.
  • Có một ban nhạc hip hop có tên gọi là Jurassic 5.

Bằng tiếng Anh :

Source: https://thevesta.vn
Category: Bản Đồ