Đức Phật – Người đem ánh sáng soi rọi cuộc đời | Viet Rigpa Foundation

Sự sinh ra của đức Phật được xem là sự kiện hi hữu, trọng đại trong lịch sử vẻ vang nhân loài. Sự kiện này lưu lại một bước ngoặc quan trọng trong việc biến hóa và tăng trưởng tư tưởng loài người khi khai sáng nên một con đường tâm linh huyền nhiệm. Sự Open của đức Phật như Kinh nói là sự Open của “ đại quang, đại minh ”. Là sự Open của ánh sáng trí tuệ với cái nhìn thấu suốt về con người và cõi đời bằng “ con mắt lớn. ”
Mắt lớn là cái nhìn thấy biết như thật về cuộc sống để từ đó khai mở những con đường giúp nhân loài vượt thoát khổ đau, tự mình vươn lên tìm lấy ánh sáng “ đại quang, đại minh. ” Mắt lớn để nhìn thấu suốt vạn vật, giúp con người tìm lại viên ngọc quý giá chôn giấu bên trong mình, để từ đó hoàn toàn có thể thấy rõ bản thân và cuộc sống bằng cái thấy biết của chư Phật .
Đức Phật Open ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác, vượt qua biên giới quốc độ để soi rọi khắp nơi. Việc đem ánh sáng giáo pháp của đức Phật đến với cuộc sống đã trở thành thiên chức thiêng liêng và cao quý của những người đệ tử Phật từ bao đời nay. Nhớ niệm về ngày khánh đản của đức Phật là nhớ niệm về sự Open của ánh sáng quang minh Phật pháp trong việc đẩy lùi bóng tối vô minh, khai mở Phật tính cho mọi người. Rằng, từ đây ánh sáng đạo vàng sẽ rọi soi vào trong tâm thức u tối của con người. Vầng thái dương chân lý sẽ xua tan bóng đêm đen bao trùm cuộc sống. Trời, người reo vui hoan ca đảm nhiệm ánh sáng giác ngộ từ đức Phật-bậc thầy của nhân, thiên .

Khi nói về cuộc đời, Kinh điển mô tả “Tam giới bất an, do như hỏa trạch”. Ba cõi không an, giống như nhà lửa. Ẩn dụ này cho thấy sự bất toàn, khổ đau, mờ mịt của thế giới. Cuộc đời luôn đầy sự bất toàn, bất như ý. Bởi vì, mọi sự hiện hữu là vô thường, khổ đau và hoại diệt dưới cái nhìn như thật của Phật giáo. Do vì không hiểu, không giác ngộ sự thật về vô thường, khổ, vô ngã nên chúng sinh chìm đắm trong khổ đau, sanh tử.

Mô tả về kiếp nhân sinh như vậy cho tất cả chúng ta thấy rõ sự bế tắc, mịt mù, đen tối không có lối thoát của kiếp người. Trong một ưu tư trước khi quyết định hành động luân chuyển bánh xe pháp, đức Phật tâm lý : “ Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, hùng vĩ, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada ( Y Tánh Duyên Khởi Pháp ) ; sự kiện này thật khó thấy ; tức là sự tịnh chỉ tổng thể hành, sự trừ bỏ toàn bộ sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà những người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta ! ” [ 1 ] Phần lớn chúng sinh ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, nên khó thấy được diệu pháp. Sau khi được sự thỉnh mời của Đại Phạm Thiên Sahampati, và quán chiếu sự sinh trưởng của hoa sen trong hồ, Đức Thế Tôn quyết định hành động rao giảng chánh pháp, không hướng về vô vi thụ động. Ngài đã khai mở chân diệu pháp, quản lý và vận hành bánh xe pháp, mở cánh cửa vô sinh bất tử cho hết thảy chúng sinh, và đem ánh sáng nhiệm mầu rọi soi cuộc sống .
Trong toàn cảnh khổ đau của trần gian, đức Phật Open có một ý nghĩa, có một tầm mức quan trọng đến nhường nào. Khi mà quả đât chìm đắm trong bóng tối của vô minh, long dong và bị ràng buộc bởi sự đau khổ của tuổi già, bệnh tật và cái chết, thì đức Phật Open như thể “ người cầm đuốc của quả đât ” ( ukkādhāro manussānam ), mang lại ánh sáng của trí tuệ. [ 2 ] Sự Open của đức Phật trên trần gian là ‘ sự Open của đại nhãn, là sự Open của đại quang, là sự Open của đại minh ’. Sau khi giác ngộ giải thoát, ngài thắp lên ánh sáng niềm tin và trí tuệ cho tất cả chúng ta, cho thấy thực sự tất cả chúng ta phải thấy và con đường tu tập đưa đến sự giải thoát. Tăng Chi Bộ kinh nói rõ điều này : “ Sự Open của một người, này những Tỷ-kheo, là sự Open của mắt lớn, là sự Open của đại quang, là sự Open của đại minh, là sự Open của sáu vô thượng, là sự chứng ngộ bốn vô ngại giải, là sự thông đạt của nhiều giới, là sự thông đạt của những giới sai biệt, là sự chứng ngộ của minh và giải thoát, là sự chứng ngộ quả Dự Lưu, là sự chứng ngộ quả Nhất Lai, là sự chứng ngộ quả Bất Lai, là chứng ngộ quả A-la-hán. Của một người ấy là ai ? Chính là Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Sự Open của một người này, này những Tỳ-kheo, là sự Open của mắt lớn, là sự Open của đại quang … là sự chứng ngộ quả A-la-hán. ” [ 3 ]
Đức Phật Thích Ca là người tiếp nối ngọn đèn chánh pháp từ truyền thống lịch sử mười phương chư Phật ba đời. Ngài Open trong quốc tế ngũ trược ác thế này để dẫn dắt chúng sinh đi ra khỏi khổ đau. Do vì Open trong cõi đời kiếp trược, kiến trược, chúng sinh trược, mạng trược này nên Đức Phật Gotama tượng trưng cho hạnh tinh tấn và kham nhẫn. Sự Open của một vị Phật gắn liền với sự quản lý và vận hành của thiên hà. Như một ngôi sao băng chống lại bóng tối của khung trời đêm, trong từng thời kỳ, một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác sẽ Open trong toàn cảnh khoảng trống vô biên, thắp sáng khung trời tâm linh của quốc tế, đem ánh sáng trí tuệ đến cho những ai có năng lực nhìn thấy những thực sự mà ngài soi rọi. [ 4 ]
Theo truyền thống cuội nguồn, vị Phật là người tìm ra con đường và giảng dạy con đường ấy đến mọi người. Đó là con đường dẫn đến niềm hạnh phúc an nhàn đích thực. Con đường ấy hoàn toàn có thể vận dụng cho cả thế và xuất thế gian. Đối với trần gian, ngài chỉ dạy con đường đưa đến niềm hạnh phúc thiện lành, tìm kiếm phước báo hữu lậu. Đó là con đường hiệp thế, giúp chúng sinh gieo trồng gốc rễ thiện lành để thiết kế niềm hạnh phúc, tự do và bảo mật an ninh trong đời sống thế tục. Đối với xuất thế gian, ngài chỉ dạy con đường đưa đến đoạn tận lậu hoặc, kiết sử, chứng đắc thánh quả giải thoát, Niết bàn. Đức Phật vạch rõ và thiết lập những nguyên tắc thiết yếu giúp hành giả ứng dụng tu tập theo nếp sống đạo đức và phạm hạnh của thế và xuất thế .
Một bản kinh khác đã nhấn mạnh vấn đề đến khunh hướng vị tha to lớn của quả vị Phật, khi đoạn kinh ca tụng sự Open của Đức Phật như : “ Một người, này những Tỳ kheo khi Open ở đời, sự Open đem lại niềm hạnh phúc cho đa phần, an nhàn cho hầu hết, vì lòng thương tưởng cho đời, vì quyền lợi, vì niềm hạnh phúc, vì an nhàn cho chư thiên và loài người. Một người ấy là ai ? Chính là Như Lai, bậc A La Hán, Chánh đẳng Giác. ” [ 5 ] Chức năng của một vị Phật là thực chứng và công bố Pháp toàn vẹn trong toàn bộ khoanh vùng phạm vi lẫn chiều sâu và điều này tương quan đến một sự hiểu biết tổng lực về những ứng dụng đa dụng của Pháp trong toàn bộ mọi khunh hướng. Một vị Phật không riêng gì xâm nhập vào trạng thái vô vi của niềm hạnh phúc toàn bích nằm ngoài cõi ta bà, vượt ra khỏi sinh lão tử ; Ngài không chỉ công bố con đường đưa đến giác ngộ toàn vẹn và giải thoát tối hậu ; mà Ngài cũng còn soi sáng nhiều phương cách để vận dụng Giáo Pháp trong những điều kiện kèm theo phức tạp của đời sống con người, cho những ai vẫn còn đắm chìm trong trần gian. [ 6 ]
Một nội dung khác vô cùng quan trọng đó là đức Phật trình làng và lý giải thâm thúy về định lý duyên khởi. Duyên khởi là định lý phổ quát, đức Phật chỉ là người mày mò ra nó và tuyên thuyết lại cho mọi người. Định lý này cực kỳ quan trọng, vì nó miêu tả hàng loạt mối quan hệ tương duyên tương thuộc giữa những pháp, dựa theo đó đau khổ phát sinh hay chấm hết. Đức Phật công bố rằng ngài đã phát hiện ra con đường giác ngộ khi ngài tìm thấy phương cách để chấm hết vòng tròn duyên sinh này. Như vậy, thực chứng tận diệt duyên khởi là chỗ đoạn diệt vô minh và tham ái. Khi hai chi phần này đoạn tận thì hàng loạt sự quản lý và vận hành của vòng tròn duyên khởi sụp đổ. Vô minh diệt, minh sinh và ái diệt niết bàn. Đây là điểm then chốt của hàng loạt giáo lý của đức Phật tuyên thuyết. Tiếng nói của duyên khởi là lời nói của vô ngã. Đây là lời nói của chân lý thực sự. Khi công bố thực sự vô ngã này đức Phật giống lên tiếng rống sư tử, làm lo âu những tà thuyết ngoại đạo .
Như vậy, bốn thực sự cao quý, định lý duyên khởi, giáo lý vô ngã và nhân quả nghiệp báo luân hồi … đều được đức Phật lần lượt trình làng. Con đường đưa đến đoạn tận khổ đau cũng được vạch ra đó là Ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà tựu trung là Bát chánh đạo gồm có trong ba uẩn giới định và tuệ. Bất cứ ai vận dụng tu tập theo lộ trình ấy sẽ đạt được an nhàn giải thoát đích thực. Thành ra, đức Phật là biểu mẫu sáng ngời nhất, minh triết nhất mà tổng thể ai đã tiếp cận và tìm hiểu và khám phá đều thừa nhận. Một nhà văn hào Âu Châu đánh giá và nhận định rằng : ‘ Không có nơi nào trong quốc tế tôn giáo, sùng bái và tín ngưỡng mà tất cả chúng ta hoàn toàn có thể tìm thấy một vị giáo chủ chói sáng như thế ! Trong hàng loạt những vì sao, ngài là vì tinh tú khổng lồ, vĩ đại nhất ’. Một số những khoa học gia, triết gia, những nhà văn hóa đã công bố về ngài “ Con người vĩ đại nhất chưa từng có. Ánh hào quang của vị Thầy vĩ đại nầy soi sáng cái quốc tế đau khổ và tối tăm, giống như ngọn hải đăng hướng dẫn và soi sáng quả đât. ” Giáo lý của đức Phật tỏa sáng một cách công khai minh bạch, rạng rỡ và rực rở như ánh sáng của mặt trời và mặt trăng .

Không có ai trên thế giới này có sức hút mãnh liệt như đức Phật. Không một vị lãnh đạo tôn giáo nào có tầm ảnh hưởng như ngài. Xuyến suốt trong chiều dài lịch sử hơn hai ngàn sáu trăm năm, biết bao nhiêu bút mực, sử sách…mô tả viết về ngài và lời ngài dạy, nhưng vẫn không bao giờ cùng tận. Đức Phật và lời dạy của ngài vẫn mãi là khuôn vàng thước ngọc dẫn dắt chúng sinh đi ra khỏi khổ đau của kiếp sống nhân sinh; vẫn mãi là nguồn cảm hứng vô tận để viết và xưng tán về Ngài.

Quả thật, đức Phật như người dựng đứng lên những gì đã bị gãy đổ : “ Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, trình diện ra những gì bị bịt kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt hoàn toàn có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện đi lại trình diễn, lý giải. ” [ 7 ]

Thích Trung Định

Ghi chú :
[ 1 ] Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ Kinh, bài kinh số 26 .
[ 2 ] Xem, Tỳ khưu Bodhi, Những lời Phật dạy, ( Bình Anson dịch ), NXB Thanh Niên, năm nay, p. 74 .
[ 3 ] Đại tạng kinh Nước Ta Nam truyền, Tăng chi bộ, tập 1, NXB Tôn giáo, năm ngoái, p. 56 .

[4] Opcit, p. 72.

[ 5 ] Xem, Đại tạng kinh Nước Ta Nam truyền, Tăng chi bộ, tập 1, NXB Tôn giáo, năm ngoái, p. 56 .
[ 6 ] Xem, Tỳ khưu Bodhi, Những lời Phật dạy, ( Bình Anson dịch ), NXB Thanh Niên, năm nay, p. 154 .
[ 7 ] Thích Minh Châu ( dịch ), Trung Bộ Kinh ( Majjhima Nikaya ), Kinh Potaliya ( Potaliya sutta ), https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung54.htm

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp