Ảnh Hưởng Phật Giáo Trong Đời Sống Người Việt
ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT
Bạn đang đọc: Ảnh Hưởng Phật Giáo Trong Đời Sống Người Việt
Thích Nguyên Tạng
Mục lục
DẪN NHẬP |
PHẦN A : TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM |
I. PHẬT GIÁO DU NHẬP VÀO VIỆT NAM 1. Phật giáo du nhập qua con đường Hồ Tiêu. II. PHẬT GIÁO VIỆT NAM PHÁT TRIỂN QUA CÁC THỜI ĐẠI 1. Phật giáo Nước Ta từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ V, thời kỳ gia nhập và hình thành Phật giáo Nước Ta. 2. Phật giáo Nước Ta từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX, thời kỳ tăng trưởng. 3. Phật giáo Nước Ta trong thế kỷ X đến hết thế kỷ thứ XIII, thời kỳ cực thịnh. 4. Phật giáo Nước Ta trong thế kỷ XX, thời kỳ phục hưng. III. NHỮNG THÀNH QUẢ CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM – Các số lượng thống kê mới nhất về tự viện, tăng ni Nước Ta. |
PHẦN B : ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT |
I. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO VỀ MẶT TƯ TƯỞNG VÀ ĐẠO LÝ 1. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng. II. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP VĂN HÓA VIỆT 1. Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền thống. III. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO QUA GỐC ĐỘ NHÂN VĂN VÀ XÃ HỘI 1. Ảnh hưởng Phật giáo qua ngôn ngữ. IV. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO QUA CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT 1. Ảnh hưởng Phật giáo qua nghệ thuật sân khấu. |
PHẦN C : NHẬN ĐỊNH VÀ KẾT LUẬN |
DẪN NHẬP
Việt Nam, là một quốc gia nằm trong vùng Đông Nam Châu Á, Bắc giáp với Trung Hoa, Đông và Nam giáp với Biển Nam Hải, phía Tây giáp với Lào và Campuchia; diện tích: 329.556 km2, dân số 70 triệu người; mật độ dân cư: 224 người/km2; dân số dưới 15 tuổi: 39, 2%; tuổi thọ trung bình: 62,7 tuổi; tử suất trẻ em: 59%; học sinh cấp Trung học : 46,9%; tôn giáo chính: Phật giáo ( những tôn giáo nhỏ khác là Khổng, Lão, Cao Đài, Hòa Hảo, Ky Tô, Tin Lành…); thể chế chính trị: Cộng Sản; Lao động (nông & ngư nghiệp): 73% dân số; truyền thông đại chúng: 7 triệu máy radio, 3 triệu máy truyền hình, Nhật báo Nhân Dân phát hành 200.000 tờ mỗi ngày; thu nhập bình quân đầu người 113 đô la.
Việt Nam là một quốc gia nằm ở ngã tư của lưu lộ quốc tế thuộc Đông Nam Châu Á, và là nơi dừng chân của các thương buôn của vùng Địa Trung Hải. Từ một vị trí địa lý thuận lợi như thế, do đó các quốc gia trong vùng này đã thiết lập các mối quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, tôn giáo… qua hai con đường Hồ Tiêu, tức là đường biển qua ngã Sri lanka, Indonesia, Trung Hoa, Việt và đường Đồng Cỏ, là đường bộ, xuất phát từ vùng Đông Bắc Aᮠrồi băng qua miền Trung Á, Mông Cổ, Tây Tạng, Việt Nam, Trung Hoa. Vì vậy các tôn giáo lớn, trong đó có Phật giáo gặp nhiều thuận lợi du nhập vào nước ta.
Ngay khi được truyền vào, từ thế kỷ đầu, Đạo Phật đã nhanh chóng thích nghi với lối sông của người dân Việt và trong quá trình hình thành và phát triển trên đất nước này, Đạo Phật đã không gặp một trở ngại nào trong việc hòa nhập vào mọi giai tầng của xã hội Việt Nam. Đạo Phật đã thấm vào nền văn minh Việt Nam tự nhiên và dễ dàng như nước thấm vào đất. Đạo Phật đã lan tỏa khắp hang cùng ngỏ hẻm trên lãnh thổ Việt Nam và đã có một chỗ đứng nhất định từ cung đình cho đến làng xã Việt Nam. Đạo lý của Phật giáo Việt Nam cũng đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân Việt và đã trở thành những giá trị tinh thần vô giá cho người dân trên xứ sở này. Trong suốt chiều dài lịch sử mười tám thế kỷ qua, Đạo Phật đã chứng minh sự hiện hữu của mình trong hầu hết các lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… và có những đóng góp, những ảnh hưởng tích cực vào các mặt nói trên.
Bài viết này sẽ được trình bày qua hai phần:
-
Phần A: Tổng quan về Phật Giáo Việt Nam: quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo Việt Nam.
-
Phần B: Sự ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống người Việt, qua gốc độ tư tưởng, triết lý, phong tục, tập quán, nhân văn xã hội…
Hy vọng rằng qua bài viết này sẽ giúp cho độc giả nắm bắt được những nét đại cương về Phật giáo Việt Nam và tầm ảnh hưởng của nó trong đời sống của người Việt. Dù hết sức cố gắng ,nhưng chắc chắn sẽ không sao tránh khỏi những sơ sót, cúi xin các bậc cao minh từ bi chỉ giáo cho. Nhân đây, cũng xin trân trọng ghi ân các tác giả mà người viết đã tham khảo tài liệu để hoàn thành bài nghiên cứu này.
THÍCH NGUYÊN TẠNG
TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
I. PHẬT GIÁO DU NHẬP VÀO VIỆT NAM:
Ngày nay, địa thế căn cứ những tài liệu ( 1 ) và những lập luận khoa học của nhiều học giả, giới nghiên cứu và điều tra hầu hết đều chấp thuận đồng ý rằng Đạo Phật đã được truyền vào Nước Ta rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
1. Phật Giáo du nhập qua con đường Hồ Tiêu:
Con đường Hồ Tiêu (Chemi des epices) tức là đường biển, xuất phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Srilanka, Indonesia, Việt Nam…lợi dụng được luồng gió thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở khu vực Đông Nam Á, những thương nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán bằng những con thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này, các thương nhân thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị tăng này nhờ đó mà đến truyền bá Đạo Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á. Giao Châu tiêu biểu bấy giờ là trung tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ chân giao lưu của các thương thuyền. Lịch sử chính thức xác nhận năm 240 trước Tây lịch, Mahoda-con vua A dục (Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam (2). Tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có mặt của Đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ trước công nguyên 2879-258). Đó là câu chuyện công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng Vương thứ 3 lấy Đồng Tử. Chuyện kể rằng Đồng Tử và Tiên Dung lập phố xá buôn bán giao thiệp với người nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo một khách buôn ngoại quốc đến Quỳnh Viên và tại đây Đồng Tử đã gặp một nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều. Nhờ đó mà Đồng Tử và Tiên Dung đã biết đến Đạo Phật (3). Qua dữ kiện này ta thấy sự hiện diện của Phật Giáo do các tăng sĩ Ấn Độ truyền vào Việt Nam khá lâu trước Tây lịch.
Một bài điều tra và nghiên cứu của Ngô Đăng Lợi, viện nghiên cứu và điều tra khoa học Hải Phòng Đất Cảng viết : ” Vùng Đồ Sơn mà có nhà nghiên cứu và điều tra khẳng định chắc chắn chính là thành Nê Lê nơi có bảo tháp của vua Asoka. Nếu quả vậy thì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Đạo Phật đã được trực tiếp truyền vào nước ta ” ( 4 ). Và Thiền Uyển Tập Anh cũng ghi nhận cuộc tranh luận giữa thiền sư Thông Biện và Thái Hậu Phù Thánh Linh Nhân ( Ỷ Lan ) ( khi bà hỏi về nguồn gốc Đạo Phật Nước Ta vào dịp những cao tăng trong nước tập hợp tại chùa Khai Quốc ( nay là chùa Trấn Quốc – TP. Hà Nội ) vào ngày rằm tháng 2 năm 1096 ) Thông Biện dẫn chứng lời pháp sư Đàm Thiên ( 542 – 607 TL ) đối thoại với Tùy Cao Đế ( ? – 604 TL ) : ” Một phương Giao Châu, đường sang Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông ( Trung Quốc ) chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 40 người, dịch kinh được 15 quyển, vì nó có trước vậy, vào lúc ấy thì đã có Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó ” ( 5 ). Ma Ha Kỳ vực, Khâu Đà La ( 188 TL ) người Ấn Độ hay Trung Á ; Mâu Bác ( 165 – 170 TL ) người Trung Quốc ; Khương Tăng Hội ( 200 – 247 TL ) người Ấn Độ ; Chi Cương Lương ( ? – 264 TL ) người xứ Nhục Chi, theo sử chép đó là những vị sư xuất hiện sớm nhất ở Giao Châu vào khoảng chừng thế kỷ thứ hai đến thế kỷ thứ ba. Có lẽ đây chỉ là những vị được sử ghi lại tên tuổi, kỳ thực đây không phải là phái đoàn truyền bá tiên phong đến Nước Ta, vì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch đến thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch chắn chắc đã có nhiều tăng sĩ đặt chân đến hoằng Pháp tại Nước Ta, cho nên vì thế Pháp sư Đàm Thiên hướng dẫn phần số lượng giới hạn và địa thế căn cứ vào sự xuất hiện của tác phẩm Lý hoặc Luận của Mâu Bác. Qua nhiều tài liệu lịch sử dân tộc và dựa vào địa lý, vạn vật thiên nhiên, dân cư, lịch sử dân tộc hoàn toàn có thể cho tất cả chúng ta một Tóm lại chắn chắc rằng Đạo Phật đã được truyền trực tiếp vào Nước Ta chứ không trải qua Trung Quốc bằng con đường Hồ Tiêu. Tuy nhiên, cũng có nhiều cứ liệu lịch sử dân tộc chứng tỏ rằng Đạo Phật đồng thời được truyền vào Nước Ta qua con đường Đồng Cỏ. 2. Phật Giáo gia nhập qua con đường Đồng Cỏ : Con đường Đồng Cỏ ( Chemin des Steppes ) tức là đường đi bộ còn gọi là con đường tơ lụa ( 6 ) con đường này thông suốt Đông Tây, phát xuất từ vùng Đông Bắc Ấn Độ, Assam hoặc phía Trung Á, một nhánh của đường tơ lụa đi từ Châu Âu qua những vùng thảo nguyên và vùng sa mạc ở Trung Á tới Lạc Dương bằng phương tiện đi lại lạc đà. Cũng hoàn toàn có thể những thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và những triền sông Mekong, sông Hồng, sông Đà mà vào Nước Ta. Cuốn Lịch sử Phật Giáo Nước Ta ( TP. Hà Nội, 1988 ) có nói rõ : ” Các thương nhân xuất phát từ Trung Ấn hoàn toàn có thể dùng tuyến đường đi bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường lúc bấy giờ vẫn nối tiếp cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con sông Mênam ( … ) chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông Mekong, địa phận của vương quốc Kambijan. Vương quốc này hoàn toàn có thể là do những di dân Ấn Độ xây dựng trước công nguyên. Rất hoàn toàn có thể những tăng sĩ Ấn Độ vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An “. Những dữ kiện về con đường Hồ Tiêu và con đường Đồng Cỏ có tương quan đến sự giao lưu của Nước Ta tuy chưa nhiều chứng tỏ có những chứng tích mà lịch sử dân tộc còn để lại, dù lịch sử dân tộc truyền miệng hay thành văn, theo lịch sử dân tộc Phật Giáo Nước Ta thì vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, vua Ấn Độ Asoka sau cuộc đại hội kết tập tầm cỡ lần thứ ba, vua và trưởng lão Tissa Moggaliputta đã gởi nhiều phái đoàn Như Lai sứ giả lên đường truyền bá chánh pháp cho những nước thuộc vùng viễn đông, trong đó có đoàn của hai vị cao tăng là Uttara và Sona được phái đến Suvana – Bhumi, xứ Kim Địa. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về vùng Kim Địa nhưng quan điểm trong quyển lịch sử dân tộc Phật Giáo Thế Giới ( 7 ) thì cho rằng vùng Kim Địa này là bán đảo Đông Dương từ Miến Điện lê dài đến Nước Ta. Vấn đề này được sách Lịch Sử Phật Giáo Nước Ta ( sđđ ) viết : ” sử liệu Phật Giáo Miến Điện chép rằng hai vị cao tăng đó ( Uttara và Sona ) đã đến Miến Điện truyền giáo nhưng sử liệu Phật Giáo tại Xứ sở nụ cười Thái Lan cũng ghi là hai cao tăng Uttara và Sona có đến Thái Lan truyền giáo. Có học giả dựa vào một tài liệu Trung Quốc nói rằng ở Giao Châu tại thành Nê Lê, có bảo tháp của vua Asoka, và học giả đó xác lập thành Nê Lê chính là Đồ Sơn lúc bấy giờ ( cách Hải Phòng Đất Cảng khoảng chừng 12 km ) “. Nói chung địa thế căn cứ theo những tư liệu trên thì tất cả chúng ta hoàn toàn có thể khẳng địng rằng Phật Giáo truyền vào Nước Ta khoảng chừng đầu kỷ nguyên Tây lịch bằng những phương tiện đi lại tự do và vì vậy không một giọt máu nào đã chảy, không một giọt lệ nào rơi vì sự truyền bá Đạo Phật vào Nước Ta.
II. PHẬT GIÁO VIỆT NAM PHÁT TRIỂN QUA CÁC THỜI ĐẠI:
1. Phật Giáo Nước Ta từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V, thời kỳ gia nhập và hình thành Phật Giáo Nước Ta : Không bao lâu khi Phật Giáo được truyền vào đất Việt, nhờ sự nổ lực hoạt động giải trí truyền giáo của những tăng sĩ Ấn Độ, tại Luy Lâu, thủ phủ của Giao Chỉ lúc bấy giờ đã trở thành một TT Phật Giáo lớn nhất trong vùng. Tại đây, với những hoạt động và sinh hoạt hoằng pháp của ngài Khâu Đà La ( người Ấn Độ đến Luy Lâu khoảng chừng năm 168 – 169 ) đã Open một quy mô Phật Giáo Việt Nam hóa tiên phong qua hình tượng Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu ( hình tượng Phật Nữ ). Một chứng liệu lịch sử vẻ vang quan trọng khẳng định chắc chắn Phật Giáo Nước Ta đã bắt rễ sớm ở Giao Châu là vấn đề ngài Mâu Bác ( sinh cuối thế kỷ thứ II ) theo mẹ từ Trung Quốc sang Giao Châu khi ngài còn rất trẻ, rồi lớn lên, tại đây ngài đã viết bài ” Lý hoặc Luận ” và dịch một số ít kinh sách, chứng tỏ ngài đã học Phật giáo tại Giao Châu và như vậy Phật Giáo Giao Châu đã tăng trưởng khá mạnh, tối thiểu là vào nữa đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch. Sang thế kỷ thứ III, có ba nhà truyền giáo quốc tế đến hoằng Pháp tại Giao Châu là những ngài Khương Tăng Hội ( gốc người Sogdiane, Khương Cư ) ; ngài Chi Cương Lương Tiếp ( người xứ Nhục Chi ) và ngài Ma Ha Kỳ Vực ( người Ấn Độ ). Đến thế kỷ thứ V, có hai thiền sư Open, là Đạt Ma Đề Bà ( Oharmadeva, ) và Huệ Thắng ( người Việt ). Thiền sư Đạt Ma Đề Bà là người Ấn Độ đến Giao Châu vào giữa thế kỷ thứ V để giảng dạy về chiêu thức thiền học. Thiền sư Huệ Thắng là người địa phương là một trong những học trò của ông. Cũng do được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào Nước Ta ngay từ đầu kỷ nguyên Tây lịch, nên danh xưng Buddha ( Bậc Giác Ngộ ) tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt là Bụt ( Trung Hoa dịch là Phật ). Điều này trùng hợp với danh từ Bụt được Open trong nhiều truyện cổ tích Nước Ta. Theo từ điển Phật học Nước Ta, ( Minh Châu và Minh Chi, Thành Phố Hà Nội 1991 ) có ghi : ” Tiếng Bụt thông dụng hơn trong văn học dân gian và là tín hiệu chứng tỏ Đạo Phật truyền vào nước ta sớm lắm “. Phật Giáo ở Giao Châu lúc ấy mang sắc tố Nam phương, nhưng trong con mắt của nền văn minh nông nghiệp, người Nước Ta lại tưởng tượng Đức Phật như thể một vị thần toàn năng xuất hiện ở khắp nơi, sẵn sàng chuẩn bị Open để cứu độ mọi người. 2. Phật giáo Nước Ta từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX, thời kỳ tăng trưởng : Bước sang thời kỳ này, Phật tử Nước Ta lại tiếp đón thêm những đoàn truyền giáo của Trung Quốc. Không bao lâu sau đó, Phật Giáo Bắc phương ( Trung Quốc ) đã chiếm lợi thế và đã biến hóa chổ đứng của Phật Giáo Nam Truyền vốn có từ trước. Từ Buddha được dịch thành chữ Phật, và từ đây Phật từ từ sửa chữa thay thế cho chữ Bụt và chữ Bụt chỉ còn số lượng giới hạn trong ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích mà thôi. Trong thời hạn này, từ Nước Trung Hoa có ba tông phái được truyền vào Nước Ta, đó là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông. a. Thiền Tông : Là tông phái hay đúng hơn là một pháp môn tu tập có từ thời Đức Phật Thích Ca tại Ấn Độ ( trong hội Linh Sơn ) rồi truyền xuống cho Tôn giả Ca Diếp, lần lượt cho đến Tổ thứ 28 Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma ( Bodhidharma ). Đến năm 520 Tổ Bồ Đề Đạt Ma, vốn là thái tử thứ ba của vua Kancipura, Nam Ấn, vâng theo lời thầy là Bát Nhã Đa La ( Prajnatara ), Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc để hoằng dương Phật pháp. Tại nơi ây, Thiền Tông đã được hình thành và nhanh gọn hưng thịnh. Thiền hay còn gọi là tĩnh lự, chủ trương tập trung chuyên sâu trí tuệ để tìm ra chân lý. Tu theo pháp môn này yên cầu hành giả phải có nhiều công phu và năng lực trí tuệ, do vậy chỉ phổ cập ở những tầng lớp tri thức và giai cấp thượng lưu, và cũng chính nhờ họ ghi chép lại mà tất cả chúng ta thời nay mới biết được lịch sử dân tộc Thiền Tông ở Nước Ta.
Dòng thiền thứ nhất : được Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi ( Vinitaruci ) sáng lập. Ngài là người Nam Thiên Trúc, sang Trung Hoa học đạo và được tổ thứ ba thiền tông Trung Quốc là Tổ Tăng Xán khuyên nên ” mau đi về phương nam mà tiếp xúc với thiên hạ, không nên ở lâu tại đây “. Ngài từ biệt và đến Nước Ta vào năm 580, ở tại chùa Pháp Vân ( nay là Thuận Thành Hà Bắc ) để hoằng pháp và truyền cho tổ thứ hai là ngài Pháp Hiền ( người Nước Ta ). Đây là dòng thiền có tích cách dân tộc bản địa Nước Ta, vừa biểu lộ được hoạt động và sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật Giáo vừa biểu lộ được đời sống trong thực tiễn và đơn thuần của quần chúng bần hàn Nước Ta. Dòng thiền này truyền được 19 thế hệ.
Dòng thiền thứ hai : là thiền phái Vô Ngôn Thông, do thiền sư Vô Ngôn Thông người Trung Quốc sáng lập tại chùa Kiến Sơ ( Phù Đổng, Hà Bắc ) vào năm 280. Người kế nghiệp ngài là thiền sư Cảm Thành. Đây là thiền phái chịu ảnh hưởng Phật Giáo Nước Trung Hoa sâu đậm, tuy nhiên vẫn rất thân mật với đời sống xã hội, hòa nhập vào đời sống người dân trong khi vẫn duy trì được hoạt động và sinh hoạt tâm linh độc lập của mình. Thiền phái này truyền được 17 thế hệ.
Dòng thiền thứ ba : là thiền phái Thảo Đường, do thiền sư Thảo Đường ( người Trung Quốc ) sáng lập, ngài vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành, được vua Lý Thánh Tông ( 1054 – 1072 ) giải phóng khỏi kiếp sống tù đày và vua cho lập đạo tràng tại chùa Khai Quốc ở ngay kinh thành Thăng Long ( 1069 ) đệ tử theo học rất đông, trong đó có cả chính vua Lý Thánh Tông. Thiền phái này có khuynh hướng thiền tông tri thức và văn chương, do đó không cắm rễ được trong quần chúng mà chỉ ảnh hưởng được tới một số ít tri thức và vua quan có khuynh hướng văn học. Dòng thiền này truyền được 6 đời.
Dòng thiền thứ tư : đó là thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông ( 1258 – 1368 ) khai sáng. Vua Trần Nhân Tông học Phật qua sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng Sĩ, một thiền sư cư sĩ nổi tiếng đời Trần, sau khi xuất gia vào năm 1299 với đạo hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, ngài đã lên tu ở núi Yên Tử ( tỉnh Quãng Ninh ) và tại đây, ngài đã lập ra thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Nước Ta tiên phong, mang đặc thù độc lập Nước Ta với sự tích hợp hòa giải của Phật Giáo A ᮭ Hoa. Lập ra thiền phái Trúc Lâm này, vua Trần Nhân Tông đã thống nhất được những thiền phái sống sót trước đó và hàng loạt Giáo Hội Phật Giáo đời Trần về một mối. Nhìn chung thiền phái Trúc Lâm là một dòng thiền tổng hợp được ba yều tố đặc trưng của xã hội. Trúc Lâm đại diện thay mặt cho quý tộc, Pháp Loa đại diện thay mặt cho nông dân và Huyền Quang đại diện thay mặt cho nho sĩ, tính cách quý tộc, nông dân và nho sĩ là bộc lộ tổng lực trong con người Trúc Lâm. Sự tổng hợp đó, đã tạo nên nét đặc trưng của thiền phái Trúc Lâm mà những thiền phái trước đó không có được, kể từ đó đưa Đạo Phật đi vào xã hội với ý thức nhập thế đơn cử, giáo hội được tổ chức triển khai ngặt nghèo, cũng cố tinh thần đạo pháp và dân tộc bản địa kiến thiết xây dựng phồn vinh cho đất nuớc. Sau thời đại Lý Trần các dòng thiền Nước Ta có vẻ như lu mờ và tàn lụi hẳn, đến cuối thế kỷ thứ XX, tiếp nối đạo mạch Nước Ta, thiền sư Thích thanh Từ đã phục hưng nền thiền tông Nước Ta đó là thời gian đầu những năm 70 tại tu viện Chơn Không ( 1970 – 1986 ) rồi đến Thường Viện Thường Chiếu ( 1974 – 1994 ) và lúc bấy giờ là thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt. Đây hoàn toàn có thể nói là một dòng thiền khác mang tính cách độc lập của người Nước Ta. Thiền sư Thanh Từ đã không theo những dòng thiền nào truyền thống cuội nguồn mà chỉ tổng hợp chỗ thấy, chỗ ngộ và sự ứng dụng của ba thiền sư nổi tiếng là thiền sư Huệ Khả ( tổ thứ 2, Nước Trung Hoa ) thiền sư Huệ Năng ( tổ thứ 6, Nước Trung Hoa ) và thiền sư Trần Nhân Tông ( sơ tổ Trúc Lâm, Nước Ta ) mà lập thành chiêu thức tu tập cho thiền sinh Nước Ta trong thời văn minh. b. Tịnh Độ Tông : Khác với Thiền Tông, Tịnh Độ Tông chủ trương phải dựa vào tha lực tức sự trợ giúp từ bên ngoài. Thật ra, Thiền hay Tịnh Độ cũng chỉ là những pháp môn tu tập thích hợp cho nhiều đối tượng người tiêu dùng khác nhau do Đức Phật truyền giáo ra. Chính Đức Phật Thích Ca đã nhờ vào tự lực của mình để đến giác ngộ thì cần phải giúp sức họ, sự trợ lực hay tha lực này rất quan trọng. Điều này gợi cho Fan Hâm mộ liên tưởng đến một cõi Niết Bàn đơn cử đó là cõi Tịnh Độ hay quốc tế Cực Lạc do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ. Sự giúp sức đó còn cho thấy bản thân của người Fan Hâm mộ cần tiếp tục đi chùa dâng hương, cúng dường, bố thí, làm những điều thiện, tránh những điều ác và liên tục niệm thương hiệu Đức Phật A Di Đà để đạt đến nhất tâm bất loạn và muốn đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn này, hành giả trong lúc niệm Phật phải tưởng tượng, quán tưởng về quốc tế cực lạc để tâm mình hướng tới. Nhờ phương pháp tu tập đơn thuần như vậy nên Tịnh Độ Tông là tông phái phổ cập khắp quốc gia Nước Ta. Đâu đâu ta cũng gặp người dân tụng Kinh A Di Đà và niệm thương hiệu của Đức Phật A Di Đà. Tượng Phật A Di Đà cũng thuộc loại tượng Phật truyền kiếp và phổ cập ở Nước Ta. Điển hình là pho tượng Phật A Di Đà bằng đá, cao gần 2 m, thờ tại chùa Phật Tích, huyện Tiên Du, Tỉnh Thành Phố Bắc Ninh, được tạo tác dưới triều Lý Thánh Tông năm 1057. Đây là một dẫn chứng lưu lại sự ảnh hưởng Tịnh Độ Tông tiên phong ở Nước Ta. c. Mật tông : Là một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh đơn cử và những mật ngữ, mật chú để khai mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật Tông do Phật Đại Nhật chủ xướng và có hai bộ kinh chính là Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương. Mật tông truyền vào Nước Ta không còn độc lập như một tông phái riêng mà nhanh gọn hòa vào tín ngưỡng dân gian, trộn lẫn với những truyền thống cuội nguồn như chẩn tế, cầu đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật tông không có tín hiệu tăng trưởng rõ ràng ở Nước Ta, chỉ tuỳ thuộc vào sự thọ trì của từng chùa và của mỗi cá thể có cơ duyên đến với tông phái này.
Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ thứ XIII, thời kỳ cực thịnh
Đến thế kỷ thứ X thì Nước Ta đã trải qua 1000 năm Bắc thuộc. Như ta đã thấy, Phật Giáo Nước Ta của thế kỷ thứ V chỉ còn ghi lại hai thiền sư là Đạt Ma Đề Bà và Huệ Thắng. Thế kỷ thứ VI ghi lại hai thiền sư Nước Ta : Quán Duyên và Pháp Thiền. Chính trong thế kỷ này mà thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Nước Ta. Ba thế kỷ tiếp theo, thế kỷ VII, VIII và IX là ba thế kỷ thuộc nhà Đường quản lý, đến thế kỷ thứ X thì Nước Ta mới mở màn giành được quyền tự chủ. Chính trong thế kỷ này Đạo Phật mới thực sự hưng thịnh và có những góp phần tích cực cho quốc gia. Năm 971 vua Đinh Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và ban chức tăng thống cho Thiền sư Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, và ngài Khuông Việt Thái Sư, chính thức tiếp đón Phật Giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho chính sự. Cũng chính trong thế kỷ này vua Lê Đại Hành đã mời thiền sư Pháp Thuận và thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm cố vấn chính sự. Các thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã liên tục trợ giúp vua Lý Thái Tổ trong thế kỷ tiếp nối. Phật Giáo Nước Ta trong thời kỳ này tăng trưởng tới mức toàn vẹn và cực thịnh. Do ảnh hưởng tư tuởng của vua Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đầu thế kỷ thứ VIII, ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường sát nhập tạo thành một và đưa tới sự tăng trưởng của thiền phái Trúc Lâm là thiền phái duy nhất dưới đời Trần. Vì vậy đời Trần hoàn toàn có thể gọi là thời đại thống nhất của Phật Giáo những hệ phái trước đó. Tăng sĩ đời Trần không trực tiếp góp phần vào sự nghiệp chính trị như những thiền sư đời Lý, nhưng Phật Giáo là một yếu tố quan trọng để link nhân tâm. Tinh thần Phật Giáo đã kiến cho những nhà chính trị đời Trần áp dụng những chủ trương tầm trung, thân dân và dân chủ. Phật Giáo trong đời Trần là quốc giáo, mọi người dân trong xã hội điều hướng về Phật Giáo. Nhà nho Lê Quát, học trò Đường Chu Văn An, đã lấy làm tức giận vì thấy toàn dân theo Phật : ” Phật chỉ lấy điều họa phúc mà động lòng người, sao mà sâu sa và bền chắc đến như vậy ? Trên từ Vương Công, dưới đến thứ dân, hễ thao tác gì thuộc về việc Phật, thì hết cả gia tài cũng không tiếc. Nếu thời điểm ngày hôm nay đem tiền để làm chùa xây tháp thì hớn hở, vui tươi, như trong tay đã cầm được biên lai để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại. Cho nên trong kinh thành ngoài đến Châu Phủ, đường cùng ngõ ngách, chẳng khiến đã theo, chẳng thề mà tin, hễ chổ nào có nhà thì có chùa Phật ; bỏ đi thì làm lại, hư đi thì sửa lại ” ( 8 ). Có rất nhiều chùa tháp qui mô to lớn hoặc kiến trúc độc lạ đã được kiến thiết xây dựng trong thời Lý Trần như chùa Phật Tích, chùa Đại Lãm, chùa Linh Xứng, chùa Một Cột, chùa Phổ Minh. Khâm phục trước những thành tựu văn hóa truyền thống của Phật Giáo Việt Nam thời Lý Trần mà sách vỡ Trung Quốc truyền tụng nhiều về 4 khu công trình nghệ thuật và thẩm mỹ lớn mà họ gọi là An Nam Tứ Đại Khí ( 9 ). Đó là :
Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm : chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều ( Quảng Ninh ) được thiết kế xây dựng vào khoảng chừng thế kỷ XI, có pho tượng Di Lặc bằng đồng mà theo văn bia mà nay vẫn còn giữ được trong chùa thì tượng cao 6 trượng ( 1 trượng bằng khoảng chừng 4 m ) đặt trong một tòa Phật điện cao 7 trượng. Đứng từ bến đò Đông Triều, cách xa 10 dặm vẫn còn trong thấy nóc chánh điện.
Tháp Bảo Thiên : gồm 12 tầng, cao 20 trượng do vua Lý Thánh Tông cho kiến thiết xây dựng vào năm 1057 trên khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phía Tây Hồ Lục Thủy ( tức Hồ Hoàn Kiếm TP. Hà Nội thời nay ) bằng đá và gạch, riêng tầng thứ 12 đúc bằng đồng. Đây là đệ nhất danh thắng đế đô một thời. Đến năm 1414 tháp bị quân Vương Thông tàn phá, nền tháp còn lại to như quả đồi, có thời dùng làm nơi họp chợ ; đến năm 1791 dỡ ra lấy gạch xây thành còn thấy 4 pho tượng Kim Cương trấn giữ 4 cửa và nhiều tượng chim thú khác. Thời Pháp bị phá huỷ trọn vẹn để thiết kế xây dựng nhà thời thánh lớn trên mảnh đất ấy.
Chuông Quy Điền : Năm 1101, vua Lý Nhân Tông cho xuất hàng vạn cân đồng để đúc quả chuông này và dự tính treo nó tại khuôn viên chùa Diên Hựu ( 10 ) trong lầu chuông bằng đá xanh cao 8 trượng. Nhưng chuông đúc xong to quá ( đường kính 1,5 trượng ( khoảng chừng 6 m ) cao 3 trượng ( khoảng chừng 12 m ), nặng đến vài vạn cân ) không treo nổi lên đành để ở ngoài ruộng.
Vạc Phổ Minh : đúc bằng đồng vào thời vua Trần Nhân Tông ( 1279 – 1293 ) đặt tại chùa Phổ Minh ( làng Tức Mặc, Nam Hà ). Vạc sâu 6 thước, rộng 10 thước nặng trên 7 tấn ( 11 ). Vạc to tới cả hoàn toàn có thể nấu được cả một con bò mộng, trẻ con hoàn toàn có thể chạy nô đùa trên thành miệng vạc. Đến nay vẫn còn 3 trụ đá kê chân vạc trước sân chùa Phổ Minh. Phật Giáo Nước Ta trong thế kỷ XX, thời kỳ phục hưng : Phật Giáo Nước Ta đã trải qua thời cực thịnh nhất dưới hai triều đại Lý Trần, sang đến đời Hậu Lê rồi Nguyễn Triều thì Phật Giáo phải nhường bước cho Nho giáo, lúc ấy đang chiếm vai trò duy nhất. Triều đại nhà Nguyễn truyền đến đời vua Tự Đức thì mất chủ quyền lãnh thổ, nước ta rơi vào vòng đô hộ của Pháp. Phật Giáo Nước Ta vốn đã suy vi nay lại điêu tàn hơn. Trong toàn cảnh đó, Ky Tô giáo đã gia nhập vào Nước Ta và dân tộc bản địa Nước Ta lại tiếp đón thêm một tôn giáo mới của phương Tây. Tuy niềm tin khai phóng dung hợp của Phật Giáo suốt mấy thế kỷ qua không còn được biểu lộ trong chủ trương vương quốc, văn hóa truyền thống và xã hội vào thế kỷ XX nhưng Phật Giáo vẫn là tôn giáo chính của dân tộc bản địa, đóng vai trò hòa giải giữa những thế lực tranh chấp, góp thêm phần thiết kế xây dựng ý thức dân tộc bản địa, bảo vệ nền độc lập của vương quốc. Vào khoảng chừng những năm 1920 – 1930, trong không khí tưng bừng của trào lưu chấn hưng Phật Giáo trên quốc tế, đặt biệt ở Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ và Miến Điện, 1 số ít tăng sĩ và cư sĩ đã phát động trào lưu chấn hưng Phật Giáo tại Nước Ta, từ đó đưa đến sự xây dựng Tổng Hội Phật Giáo Nước Ta tại miền Bắc vào năm 1934 đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, và xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Ở miền Trung, Hội An Nam Phật Học cũng ra đời tại chùa Từ Đàm và cho xuất bản tạp chí Viên Âm vào 1934, đặt biệt hội đã mở những Phật Học Viện cho tăng chúng tu học như phật học đường Báo Quốc và Kim Sơn, Trúc Lâm và Tây Thiên. Ở Tỉnh Bình Định có hội Phật Học Tỉnh Bình Định, ở TP. Đà Nẵng có hội Phật Học Đà Thanh, ra tạp chí Tam Bảo. Tại miền Nam, năm 1920, Hội Lục Hòa được xây dựng để đoàn kết và hoạt động trào lưu chấn hưng Phật Giáo. Hội điều tra và nghiên cứu Phật Học Nam Kỳ sinh ra, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn ; xuất bản tạp chí Từ Bi Âm ( 1932 ). Năm 1933 Liên Đoàn Học Xã sinh ra. Năm 1034, hội Phật Học Lưỡng Xuyên sinh ra, xuất bản tạp chí Du Tân Phật học và mở Phật Học đường Lưỡng Xuyên. Nhờ trào lưu chấn hưng Phật Giáo này mà đội ngũ tăng ni được huấn luyện và đào tạo qua nhiều trường học và tăng trưởng nhiều ở những tỉnh. Chùa chiền được thiết kế xây dựng khắp nơi, nhất là mạng lưới hệ thống chùa phật học ở những thành thị. Nhiều ngôi chùa ở làng xã được trùng tu và có chư tăng ni trụ trì. Bên cạnh đó, trong thời kỳ này, có nhiều hệ phái, tôn phái phật giáo sinh ra, như giáo phái Khất Sĩ Nước Ta, Thiên Thai Giáo Quán Tông, Phật Giáo Hoa Tông .. Một nhu yếu thống nhất Phật Giáo được đặt ta tại Huế, đưa đến việc xây dựng Tổng Hội Phật Giáo Nước Ta đặt trụ sở tại chùa Từ Đàm Huế, hội chủ là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, đây là một tổ chức triển khai thống nhất Phật Giáo ba miền Nam, Trung, Bắc, đồng thời vạch ra một con đường dân tộc bản địa nhân bản, hướng dẫn bước tiến Phật Giáo vào môi trường tự nhiên tư tưởng và văn hóa truyền thống, liên tục thiết kế xây dựng con người và xã hội Nước Ta. Điểm rực rỡ của Phật Giáo Nước Ta trong thế kỷ XX là sự phối hợp của hai giáo phái Nam Tông và Bắc Tông vào năm 1964 để xây dựng Giáo Hội Phật Giáo Nước Ta Thống Nhất. Giáo Hội này hoạt động giải trí cho đến năm 1981 thì ngưng hoạt động giải trí trong nước, nhưng có văn phòng hai Viện Hóa Đạo đặt tại tiểu bang California, Hoa Kỳ, hoạt động giải trí rất mạnh. Đến tháng mười một năm một nghìn chín trăm tám mốt, sau sáu năm quốc gia biến hóa thể chế, một hội nghị với 165 đại biểu của chín tổ chức triển khai giáo hội hệ phái cả nước đã họp tại chùa Quán Sứ TP. Hà Nội đưa đến việc xây dựng Giáo Hội Phật giáo Nước Ta. Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm pháp Chủ Hội Đồng Chứng Minh Trung Ương, Hòa Thượng Thích Trí Thủ làm quản trị Hội Đồng Trị Sự Trung Ương. Giáo hội đặt văn phòng I tại chùa Quán Sứ TP. Hà Nội, văn phỏng II tại chùa Xá Lợi ( 12 ) thành phố Hồ Chí Minh.
III. THỐNG KÊ MỘT SỐ THÀNH QUẢ CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM:
Từ khi gia nhập cho đến nay, Phật Giáo Nước Ta đã trải qua bao thăng trầm, lúc thịnh lúc suy, có lúc thống nhất, có lúc phân tán, do nhiều nguyên do khác nhau, từ đây Phật Giáo Nước Ta đã được thống nhất từ Bắc chí Nam. Các hệ phái phật giáo vẫn được bảo lưu, nét đặc trưng trong pháp môn tu hành vẫn được tôn trọng, mạng lưới hệ thống chùa chiền, tăng ni đã được thống kê, quản trị thống nhất. Theo số thống kê được công bố trong hội nghị thường niên của Giáo Hội Phật giáo Nước Ta ( 13 ) thì số tự viện Phật Giáo và số tăng ni mà giáo hội đã thống kê được ( 14 ) là 14.303 ngôi tự viện, trong đó gồm 13.312 tự viện Bắc tông, 469 tự viện Nam tông nguyên thủy và Khmer, 142 tịnh xá khất sĩ, 95 tịnh thất và 185 niệm Phật đường. Về tăng ni thì có 26.268 vị, có ba Học Viện Phật Giáo, một Trường cao đẳng chuyên khoa phật học, 30 trường cơ bản phật học, một Trường huấn luyện và đào tạo đội ngũ giảng viên hoằng pháp. Ngoài ra giáo hội Phật giáo Nước Ta đã xây dựng được Viện Nghiên Cứu Phật Học tại thành phố Hồ Chí Minh và phân viện điều tra và nghiên cứu tại TP. hà Nội TP. Hà Nội. Và đặc biệt quan trọng là hội đồng phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam cũng đã được xây dựng, tính đến nay hội đồng đã phiên dịch ấn hành 30 tập kinh được dịch từ chữ Hán và chữ Pali, đây là một thành quả đáng kể của Phật giáo Nước Ta. Vì đây là lần đầu trong lịch sử vẻ vang Phật giáo Nước Ta người Phật tử trong xứ sở này có được một bộ đại tạng kinh bằng tiếng Việt.
ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO
TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT
I. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng triết học và đạo lý:
Như đã trình diễn ở phần A, ta thấy rằng Đạo Phật đã gia nhập vào Nước Ta từ những kỷ nguyên Tây lịch, rồi sống sót, tăng trưởng và chan hòa với dân tộc bản địa này cho đến tận thời điểm ngày hôm nay. Nếu thời hạn là thước đo của chân lý thì với bề dày lịch sử dân tộc đó, Đạo Phật đã khẳng định chắc chắn chân giá trị của nó trên mãnh đất này. Trong những nghành xã hội, văn hóa truyền thống chính trị đặt biệt là xét trên góc nhìn mạng lưới hệ thống tư tưởng, thì Đạo Phật đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp thêm phần hình thành một ý niệm sống và hoạt động và sinh hoạt cho con người Nước Ta. Trong phần này sẽ tìm hiểu và khám phá về tư tưởng, đạo lý của Phật Giáo đã ảnh hưởng tác động đến con người Nước Ta như thế nào và người Nước Ta đã tiếp thu những tư tưởng, đạo lý của Phật Giáo ra làm sao. 1. Về tư tưởng : Tư tưởng hay đạo lý cơ bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho toàn bộ những tông phái phật giáo, nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của dân cư Việt. Đạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về quốc tế hiện tại. Duyên khởi nghĩa là sự lệ thuộc lẫn nhau mà sống sót và sống sót. Không những những sự kiện thuộc quốc tế con người như thành, bại, thịnh, suy mà tổng thể những hiện tượng kỳ lạ về quốc tế tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng theo luật duyên khởi mà sinh thành, sống sót và tiêu hoại. Có 4 loại duyên cần được phân biệt : thứ nhất là Nhân Duyên. Có thể gọi là điều kiện kèm theo thân mật nhất, như hạt lúa là nhân duyên của cây lúa. Thứ hai là Tăng Thượng Duyên tức là những điều kiện kèm theo có tư liệu cho nhân duyên ví như phân bón và nước là tăng thượng duyên cho hạt lúa. Thứ ba là Sở Duyên Duyên tức là những điều kiện kèm theo làm đối tượng người tiêu dùng nhận thức, thứ tư là Đẳng Vô Gián Duyên tức là sự liên tục không gián đoạn, thiết yếu cho sự phát sinh trưởng thành và sống sót. Luật nhân quả cần được quán sát và vận dụng theo nguyên tắc duyên sinh mới hoàn toàn có thể gọi là luật nhân quả của Đạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân đơn độc không khi nào có năng lực sinh ra quả, và một nhân khi nào cũng đóng vai trò quả, cho một nhân khác. Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống tín ngưỡng rất là sáng tỏ so với người Nước Ta có hiểu biết, có tâm lý. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là tác dụng tự nhiên bí mật của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích hợp với giới tầm trung mà còn ảnh huởng đến giới tri thức. Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng không ít qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương tầm trung, trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm lý mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành vi sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho con người. Thậm chí trẻ con mười tuổi cũng tự nhiên biết câu : ” ác giả ác báo “. Chúng phát biểu câu rất đúng thực trạng vấn đề xảy ra cho đối phương, hay ” chạy trời không khỏi nắng “. Mặt khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà hoàn toàn có thể làm biến hóa, do đó họ tự biết thay thế sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở đời, đùng một cái những tai ương, biến cố xảy ra cho họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng đường tu nên mới gặp khổ nạn này. Không than trời trách đất, cam chịu và tự nỗ lực tu tỉnh để chuyển hóa dần ác nghiệp kia. Nguyễn Du đã bộc lộ ý này trong truyện Kiều rằng : Cho hay muôn sự tại trời Trời kia đã bắt làm người có thân Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao Hoặc : Có trời mà cũng có ta
Tu là cội phúc, tình là dây oan
Nếu ta nắm vững nguyên tắc nhân quả nghiệp báo như trên, thì tất cả chúng ta hoàn toàn có thể chuyển nghiệp ngay trong hiện kiếp. Cái đích của việc chuyển nghiệp, tái tạo cá thể là đến được trí tuệ tối hậu. Khởi đầu của việc chuyển nghiệp là mở màn biến hóa hành nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp Thân, Khẩu và Y của chính mỗi cá thể. Chứ không ngồi một chỗ tưởng tượng đến những hiệu quả tốt đẹp sẽ đến với mìn. Từ những hành nghiệp thiện, giảm bớt điều ác, từ từ ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một đời sống yên vui cho hiện tại và tương lai. 2. Về đạo lý : Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, ý thức hiếu hòa, hiếu sinh của phật giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần thâm thúy trong tâm hồn của người Việt. Đều này ta thấy rõ qua con người và tư tưởng của Nguyễn Trải ( 1380 – 1442 ), một nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng việt Nam kiệt xuất, ông đã khéo vận dụng đạo lý Từ Bi và biến nó thành đường lối chính trị nhân bản đem lại thành công xuất sắc và rất nổi tiếng trong lịch sử vẻ vang nước Việt. Ông nói điều đó trong Bình Ngô Đại Cáo rằng : Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Bằng cách : Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn Đem chí nhân để thay cường bạo Cho nên khi đại thắng quân xâm lược, so với tù binh nhà Minh, tất cả chúng ta không những không giết hại mà còn cấp cho thuyền bè, lương thực để họ về nước. Thần vũ chẳng giết hại Thuận lòng trời ta mở đất hiều sinh Tinh thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao tục ngữ rất phổ cập trong quần chúng Nước Ta như ” lá lành đùm lá rách nát “, hay Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng Đó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất kể người Nước Ta nào cũng điều thấm nhuần và thuộc nằm lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của dân tộc bản địa Nước Ta. Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng thâm thúy một đạo lý khác của Phật Giáo là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân vương quốc và ân chúng sanh. Đạo lý này được kiến thiết xây dựng theo một trình tự tương thích với bước tăng trưởng của tâm ý về tình cảm của dân tộc bản địa Việt. Tình thương ở mọi người mở màn từ thân đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong những mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào quê nhà quốc gia và lan rộng ra đến quê nhà cao quý so với đời sống của trái đất trên thiên hà này. Đặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là điển hình nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của người Việt. Vì Phật Giáo rất chú trọng đến hiếu hạnh, và được Đức Phật đã thuyết giảng đề tài này trong nhiều kinh khác nhau như Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, kinh Thai Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Đại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan .. nhắc đến công lao dưỡng dục của cha mẹ, Phật dạy : ” muôn việc ở trần gian, không gì hơn công ơn nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ ” ( Kinh Thai Cốt ), hay kinh Nhẫn Nhục dạy : ” cùng tốt điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác không gì hơn bất hiếu “. Bởi Phật Giáo đặc biệt quan trọng chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với nếp sống đạo lý truyền thống lịch sử của dân tộc bản địa Việt. Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa lan rộng ra có cùng một đối tượng người tiêu dùng thực thi là nhắm vào người thân trong gia đình, cha mẹ, quốc gia, nhân dân, chúng sanh, ngoài hành tinh, đó là thiên nhiên và môi trường sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh nữa. Đạo lý Tứ Ân còn có chung cái động cơ thôi thúc là Từ Bi, Hỷ Xã khiến cho ta sống hòa giải với xã hội, với vạn vật thiên nhiên để tiến đến niềm hạnh phúc chân thực và miên trường. Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật Giáo Nước Ta hình thành được một truyền thống đặc trưng rất riêng không liên quan gì đến nhau của nó tại Nước Ta, góp thêm phần làm phong phú và đa dạng và đa dạng hóa nền văn hóa truyền thống ý thức của dân tộc bản địa Việt.
II. Ảnh hưởng Phật Giáo qua quá trình hội nhập văn hóa Việt Nam
Phật Pháp là bất định pháp, luôn luôn uyển chuyển theo thực trạng và căn nguyên của chúng sanh để triển khai xong sứ mạng cứu khổ của mình. Với niềm tin nhập thế tùy duyên không bao giờ thay đổi mà Đạo Phật đã tạo cho mình một sức sống vô biên, vượt qua những ngăn cách của địa lý, văn hóa truyền thống, tôn giáo, ý thức hệ, thời hạn, khoảng trống …. Tinh thần tuỳ duyên là tự biến hóa với thực trạng để hoàn toàn có thể tiếp độ chúng sanh, tính không bao giờ thay đổi là giải thoát ra khỏi mọi đau khổ, sinh tử luân hồi. Tuy nhiên Phật Giáo vẫn luôn luôn hòa nhập với tổng thể những truyền thống cuội nguồn văn hóa truyền thống tín ngưỡng của những nước trên quốc tế. Khi gia nhập vào một vương quốc có một sắc thái sống riêng không liên quan gì đến nhau, đặc trưng, như Nước Trung Hoa, một vương quốc có nền tư tưởng đông phương khổng lồ, khi Phật Giáo truyền vào thì nền văn minh này đã tăng trưởng tới đỉnh điểm của nó, mà trong lịch sử dân tộc triết học gọi là Bách Gia Chu Tử ( 15 ), hàng trăm nhà tư tương đề xướng học thuyết của mình. Nếu lúc đó Nước Trung Hoa có 10 nhà tư tưởng tiêu biểu vượt trội như Âm Dương gia, Nhạc gia, Nho gia, Pháp gia, Danh gia, Đạo Đức gia, Nông gia, Tiểu Thuyết gia .. thì Phật Giáo không dừng lại cái bình bát đi khất thực, một tấm y vàng mà Phật Giáo đã đi vào cuộc sống bằng mười tông phái như Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Hoa Nghiêm Tông, thành Thật Tông, Câu Xá Tông .. Phật Giáo với mười tông phái này sánh vai với mười dòng tư tưởng của địa phương để đi vào cuộc sống, không riêng gì đến với những giới tầm trung mà Phật Giáo còn đã đi thẳng vào cung đình, vào với những vị nguyên thủ vương quốc ( 16 ). Ở Nhật Bản thì sao ? Nhật Bản là một vương quốc được xem là có nhều món ăn niềm tin nhất trên quốc tế. Không phải chỉ là khoái cảm cho vị giác, cho thính giác mà nhất là cho cảm xúc của tâm linh. Ở trong toàn cảnh đó, Phật Giáo đã nhanh gọn đi vào hoa, vào trà để rối ở đầu cuối nâng nó lên thành một tôn giáo. trà đạo hay hoa đạo. Còn ở Nước Ta của tất cả chúng ta thì như thế nào ? Trong quy trình hội nhập văn hóa truyền thống sự ảnh hưởng của Phật Giáo đã tác động ảnh hưởng và đã tạo cho Phật Giáo Nước Ta có những nét đặc trưng sau đây : 1. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với những tín ngưỡng truyền thống lịch sử : Khi được truyền vào Nước Ta, Phật Giáo đã tiếp xúc ngay với những tín ngưỡng địa phương, do vậy đã tích hợp ngặt nghèo với những tín ngưỡng này. Biểu tượng chùa Tứ Pháp ( 17 ) thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ những vị thần tự nhiên Mây, Mưa, Sấm, Chớp và thờ Đá. Lối kiến trúc của chùa chiền Nước Ta là tiền Phật hậu Thần cùng với việc thờ trong chùa những vị thần, những vị thánh, những vị thành hoàng thổ địa và vị anh hùng dân tộc bản địa .. Chính vì ý thức khai phóng này mà về sau phát sinh những hậu quả mê tín dị đoan dị đoan bên trong Phật Giáo như xin xăm, bói quẻ, cầu đồng .. những nhà nghiên cứu quốc tế rất kinh ngạc khi thấy Phật Giáo Nước Ta dung nạp thuận tiện những tín ngưỡng đa thần của địa phương trong khi những vương quốc trong vùng thì không có ( 19 ). Có nên gạt bỏ mô hình tín ngưỡng truyền thống lịch sử này ra khỏi Phật Giáo không ? Vẫn là một yếu tố rất tế nhị, tuy nhiên, ta phải thừa nhận rằng niềm tin dung hòa và khai phóng của Phật Giáo Nước Ta là một trong những nét đặc trưng đáng quan tâm. 2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với những tôn giáo khác : Đó là tác dụng của sự phối hợp và kết tinh của Đạo Phật với đạo Nho và đạo Lão, được những nhà vua thời Lý công khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì đặc tính dung hòa và điều hợp này mà Phật Giáo Nước Ta đã trở thành tín ngưởng truyền thống lịch sử của dân tộc bản địa Việt. Nó chẳng phải Phật giáo Ấn Độ hay Nước Trung Hoa, Tiểu Thừa hay Đại Thừa, mà nó là tổng thể những khuynh hướng tâm linh của dân cư Việt. Nó thực ra là cái ” Đồng Qui Nhi Thù Đồ “, cùng về một đích mà đường lối khác nhau, chính ý thức khai phóng của Phật Giáo Nước Ta đã kết tinh lấy Chân, Thiện, Mỹ làm cứu cánh để triển khai. Nho giáo thực thi cứu cánh ấy bằng con đường Thiện, tức là hành vi đạo đức để tới chỗ đồng nhất với Mỹ và Chân. Đạo giáo thực thi cứu cánh ấy bằng con đường Mỹ, tức là tâm ý nghệ thuật và thẩm mỹ để tới chỗ đồng điệu với Thiện và Chân. Phật giáo thực thi cứu cánh ấy bằng con đường trí tuệ giác ngộ để đạt tới chỗ đồng nhất Chân, Thiện, Mỹ. Đó là thực tại Tam Vi Nhất của ý thức tam Giáo Nước Ta. Trong nhiều thế kỷ hình ảnh tam giáo tổ sư với Phật Thích Ca ở giữa, Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên phái đã in sâu vào tâm thức của dân cư Việt. 3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa giữa những tông phái Phật Giáo : Đây là một nét đặc trưng rất riêng không liên quan gì đến nhau của Phật Giáo Nước Ta so với những vương quốc Phật Giáo láng giềng. Chẳng hạn như Xứ sở nụ cười Thái Lan, Tích Lan, Lào, Campuchia chỉ có Phật Giáo Nam Tông, ở Tây Tạng, Nước Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ thuần tuý chỉ có Phật Giáo Bắc Tông. Nhưng ở Nước Ta thì lại dung hòa và điều hợp cả Nam Tông và Bắc Tông. Chính vì ý thức khế lý khế cơ của Phật Giáo cộng với ý thức khai phóng của Phật Giáo Nước Ta mới có được hiệu quả như vậy. Tuy thiền tông chủ trương bất lập văn tự, tuy nhiên ở Nước Ta chính những vị thiền sư xưa lẫn nay đã để lại rất nhiều trước tác có giá trị, đặc biệt quan trọng những thiền viện ở Việt nam điều tụng kinh gõ mõ như những tự viện Tông Tịnh Độ. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì phối hợp với Mật Giáo, có nhiều thiền sư phái này như ngài Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không điều nổi tiếng là giỏi phép thuật trong việc trừ tà, chữa bệnh. Điều rực rỡ ở đây là trong khi khai triển Phật Giáo Nước Ta, những thiền sư Nước Ta đã không theo thiền kiểu mẫu của những thiền sư Ấn Độ và Nước Trung Hoa mà mở lấy một con đường riêng, tương thích với dân tộc bản địa. Và trong khi tiếp đón với hai luồng ảnh hưởng ấy, những thiền sư Nước Ta đã khôn khéo kiểm soát và điều chỉnh tính hai cực, Ấn Độ-Trung Hoa : một bên thì quá ham chuộng sự bay bổng, thần bí, một bên quá thực tiễn duy lý. Khi Phật Giáo vào Nước Trung Hoa đã gây cho những nhà Phật học những cuộc tranh luận sôi sục về giáo pháp. Rồi suốt cả quy trình lịch sử dân tộc của nó là sự phái sinh ra những tôn giáo, là những cuộc đấu tranh tư tưởng kinh hoàng, nổi bật là cuộc đấu tranh giữa phái Thiền Nam Phương của Huệ Năng với Thiền Phái Miền Bắc của Thần Tú vào thời kỳ sơ đường. Còn ở Nước Ta thì khác, trên pháp đàn tư tưởng thời Lý cũng như thời Trần, thời kỳ vàng son của Phật Giáo Nước Ta và những thời kỳ sau này không có những mâu thuẩn trái chiều mà toàn bộ điều quy về một mục tiêu chính là tu hành giải thoát. Phải chăng sự thống nhất về ý thức tư tưởng, dung hòa giữa những tông phái và đoàn kết dân tộc bản địa đã uốn nắn Phật Giáo Nước Ta theo con đường dung hòa thống nhất đó ? 4. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với những thế hệ chính trị xã hội : Phật giáo tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng Phật Giáo Nước Ta có chủ trương nhập thế, ý thức nhập thế sinh động này điển hình nổi bật nhất là những thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Trong những thời này những vị cao tăng có tri thức, có giới hạnh điều được mời tham gia triều chính hoặc làm cố vấn trong những việc quan trọng của vương quốc. Ta thấy có nhiều nguyên do khiến những thiền sư Nước Ta tham gia vào chính vì sự, thứ nhất : họ là những người có học, có ý thức về vương quốc, sống thân mật nên đồng cảm được nổi đau khổ của một dân tộc bản địa bị nhiều cuộc đô hộ của ngoại bang. Thứ hai : những thiền sư không có ý tranh ngôi vị ngoài đời nên được những vua tin yêu và thứ ba : những thiền sư không cố chấp vào thuyết trung quân ( chỉ biết giúp vua mà thôi ) như những nho gia nên họ hoàn toàn có thể cộng tác với bất kể vị vua mào đem lại niềm hạnh phúc cho dân chúng. Thời vua Đinh Tiên Hoàng đã phong cho thiền sư Ngô Chân Lưu làm Tăng Thống, thời Tiền Lê có ngài Vạn Hạnh, ngài Đỗ Pháp Thuận, ngài Khuông Việt cũng tham gia triều chính. Trong đó đặc biệt quan trọng thiền sư Vạn Hạnh đã có công thiết kế xây dựng triều đại nhà Lý khi đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, chấm hết chính sách tàn ác của Lê Long Đỉnh, ông vua Ngọa Triều còn có biệt danh kẻ róc mía trên đầu sư. Thời nhà Trần có những thiền sư Đa Bảo, thiền sư Viên Thông .. điều được những vua tin dùng trong bàn luận quốc sự như những cố vấn triều đình. Đến thế kỷ 20, phật tử Nước Ta rất nhiệt huyết tham gia những hoạt động giải trí xã hội như cuộc hoạt động đòi ân xá cho Phan Bội Châu. Đến thời Diệm, Thiệu ( 1959 – 1975 ) cũng thế, những tăng sĩ và cư sĩ miền Nam tham gia tích cực cho trào lưu đấu tranh đòi tự do và độc lâp cho dân tộc bản địa, điển hình nổi bật là những cuộc đối thoại chính trị giữa những tăng sĩ Phật Giáo và chính quyền sở tại. Đến cuối thế kỷ 20, ta thấy ý thức nhập thế này cũng không ngừng phát huy, đó là sự xuất hiện của những thiền sư Nước Ta ( 20 ) trong QH của nước nhà. 5. Ảnh hưởng Phật Giáo trong đời sống người tầm trung và giới tri thức Nước Ta : Cũng như toàn bộ dân tộc bản địa nào trên quốc tế từ Đông sang Tây, từ Nam đến Bắc, lúc sơ khởi người Nước Ta tín ngưỡng và tôn thờ toàn bộ những sức mạnh hữu hình hay vô hình dung mà họ cho là hoàn toàn có thể giúp sức họ hoặc làm hại đến họ như mây, mưa, sấm, sét, lửa, gió .. Trong toàn cảnh tín ngưỡng đa thần này, Phật Giáo đã Open và nhanh gọn quá thân qua hình ảnh của bộ tượng Tứ Pháp ở chùa Dâu, ngôi chùa Phật Giáo tiên phong của Nước Ta ở Luy Lâu ( Hà Bắc thời nay ), đó là bộ tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điễn, một hình ảnh sôi động và thân thiện với người dân nông thôn trong việc cầu xin phước lộc, cầu đảo, cầu siêu, cầu xin tất cả荊 những gì mà đời sống con người yên cầu. Người Phật tử trong thời kỳ sơ khai này ý niệm rằng Phật là đấng cứu thế, hoàn toàn có thể ban cho con người mọi điều tốt đẹp. Trong buổi đầu của Phật Giáo ở Nước Ta mang dáng dấp của Phật Giáo Tiểu Thừa và Mật Giáo, thế cho nên đã thuận tiện gắn với phù chú, cầu xin phước lộc hơn là tôi luyện trí tuệ và thiền định. Vả lại, tính đời trội hơn tính đạo, trong quần chúng đa phần là phụ nữ đến với Phật Giáo, đó là hạng người đau khổ nhất trong xã hội cũ. Đến thời nhà Lý, có nhiều thiền sư từ Trung Quốc sang và thiết lập nhiều thiền phái, trào lưu học và tu phật tăng trưởng mạnh ở trong giới tri thức, cung đình, đô thị, nhưng trong giới tầm trung vẫn sống sót nhất định một Phật Giáo dân gian với những ảnh hưởng cảm tính vốn có từ trước. Được vua triều Lý, Trần ủng hộ, hoạt động giải trí của Phật Giáo xuất hiện ở khắp hang cùng ngõ ngách, làng nào cũng có chùa có tháp, người ta học chữ, học kinh, hội hè, trình diễn rối nước, họp chợ ngay ở trước chùa Chùa làng đã từng một thời đóng vai trò TT văn hóa truyền thống niềm tin của hội đồng làng xã Nước Ta, chùa không những là nơi giảng đạo cầu kinh, thờ cúng Phật mà còn là nơi hội họp ,. di dưỡng ý thức, thăm quan vãn cảnh. Bởi vì, kiến trúc của chùa Nước Ta thường hòa hợp với cảnh trí vạn vật thiên nhiên, tạo thành một kiến trúc hòa giải với ngoại cảnh. Khung cảnh ấy tương thích với những giờ phút nghỉ ngơi sau giờ lao động nhọc nhằn và dinh dưỡng niềm tin của tuổi già. Đến thế kỷ mười lăm, Nho Giáo thay chân Phật Giáo trong lãnh vực thượng tầng xã hội, Phật Giáo từ giã cung đình nhưng vẫn vững vàng trong làng xã. Ngôi đình Open tiếp thu 1 số ít kiến trúc và nghệ thuật và thẩm mỹ Phật Giáo, đồng thời trở thành TT hành chính của làng xã ⮍ Cửa chùa chỉ còn Open cho đàn bà, con gái kêu van, nguyện cầu khi chồng bị bắt phu, con bị bắt nợ, ốm đau bệnh tật, mất mùa đói rét .. xin Phật gia hộ. Bồ Tát Quan Âm hay Phật Bà được ưu thích hơn xưa. Nhờ vậy mà ngày này tất cả chúng ta chiêm ngưỡng và thưởng thức được pho tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt trong chùa Bút Tháp ( tỉnh Hà Bắc ) tạc vào năm 1656. Tượng rất đẹp nhưng được tạo vào thời gian Phật Giáo không còn tôn sùng như quốc giáo nữa, chứng tỏ Phật Giáo đã ăn sâu vào tâm tư nguyện vọng và văn hóa truyền thống nghê thuật dân gian. Nhìn chung không khó khăn vất vả gì khi ta phăng tìm dấu ấn Phật Giáo trong ý niệm dân gian và ta hoàn toàn có thể phát hiện rằng nếu không có sự hiện hữu của Phật Giáo ở Nước Ta thì ta sẽ mất đi hơn một nữa di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh mà lúc bấy giờ ta tự hào, sẽ không có chùa Hương rộn ràng, sinh động sầm uất trong ngày trẩy hội đầu xuân, không có chùa Tây Phương vời vợi, không có chùa Yên Tử mây mù, không có chùa Keo bề thế, không có chùa Thiên Mụ soi mình trên dòng sông Hương. Và cũng không có những chuyện dân gian đầy tính nhân bản như truyện Từ Thức, truyện Tấm Cám, truyện Quan Âm Thị Kính …. Sẽ không có những tiệc tùng tưng bừng như hội Lim, hội Chùa Hương …. và trong tâm tư nguyện vọng truyền thống lịch sử cũng vắng tư tưởng bố thí vị tha, lòng hưởng thiện và niềm tin vững chãi vào một tương lai sáng sủa, vắng niềm tin sáng sủa ngây thơ của dân cư Việt. Quả thật vậy, Đạo Phật đã xuất hiện ảnh hưởng khắp mọi giai tầng trong ở xã hội Nước Ta, không những trong giới tầm trung mà còn ở trong giới tri thức nữa. Phật Giáo thiền tông ở Nước Ta tăng trưởng mạnh và ảnh hưởng sâu rộng trong giới tri thức, cung đình từ đinh ( 968 – 980 ), tiền Lê ( 980 – 1009 ) đến thời Lý ( 1010 – 1225 ) đã mang được trong mình một ý thức Nước Ta, đó là sự sinh ra của một thiền phái mới, phái Thảo Đường do Lý Thánh Tông một vị vua anh kiệt đứng đầu. Nhưng thiền tông Nước Ta tăng trưởng rực sáng nhất là ở quy trình tiến độ nhà Trần ( 1226 – 1400 ) với những tư tưởng vừa thăng trầm vừa phóng khoáng của những thiền sư thời Trần đã được đúc rút trong những tác phẩm Khóa Hư Lục của Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang đã làm cho bình diện học thuật Nước Ta lúc bấy giờ bổng bừng sáng hẳn lên. Đặc biệt sự Open thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, do người Nước Ta sáng lập ra, bộc lộ được khá đầy đủ mọi đặc trưng, độc lạ của người Việt và nó đã để lại dấu ấn rực rỡ trong lịch sử vẻ vang văn hóa truyền thống Nước Ta cho tới ngày này. Phật Giáo không những ảnh hưởng trong đới sống của người tầm trung và giới tri thức mà còn ảnh hưởng qua gốc độ nhân văn và xã hội
III. Ảnh hưởng Phật Giáo qua gốc độ nhân văn và xã hội:
1. Ảnh hưởng Phật Giáo qua ngôn từ : Trong đời sống thường nhật cũng như trong văn học Nước Ta ta thấy có nhiều từ ngữ chịu ảnh hưởng không ít của Phật Giáo được nhiều người dùng đến kể cả những người ít học. Tuy nhiên không phải ai cũng biết những từ ngữ này được phát xuất từ Phật Giáo, ví dụ điển hình như khi ta thấy ai bị hoạn nạn, đau khổ tỏ lòng thương xót, người ta bảo ” tội nghiệp quá “. Hai chữ tội nghiệp là từ ngữ trình độ của Phật Giáo. Theo Đạo Phật tội nghiệp là tội của nghiệp, do nghiệp tạo ra từ trước, dẫn tới tai nạn đáng tiếc hay sự cố lúc bấy giờ, theo giáo lý nhà Phật thì không có một hiện tượng kỳ lạ hay sự cố tai nạn đáng tiếc nào xảy ra là ngẫu nhiên hay vô tình, mà chỉ là hiệu quả tập thành của nhiều nguyên do tạo ra từ trước. Những nguyên đó ( theo đạo Phật gọi đó là nhân duyên ) khi chín mùi, thì đem lại hiệu quả. Mọi người điều nói tội nghiệp nhưng không phải nhiều người biết được đó là một từ ngữ nói lên một chủ thuyết rất cơ bản của Phật : ” thuyết nhân quả báo ứng ” thuyết này cũng đi sâu vào nhận thức dân gian với những cách như ” ở hiền gặp lành, gieo gió gặp bão ” hay là câu thơ tầm trung : Người trồng cây hạnh người chơi Ta trồng cây đức để đời tương lai Hoặc khi muốn miêu tả một vật gì đó quá nhiều, người ta dùng danh từ ” hằng hà sa số “. Nếu hỏi hằng hà sa số là cái gì chắn chắn ít ai hiểu đúng chuẩn, họ chỉ biết đó là nói rất nhiều, bởi khi xưa Đức Phật thường thuyết pháp gần lưu vực sông Hằng ( Gange ) ở Ấn Độ, vì vậy khi cần miêu tả một số lượng rất nhiều, ngài thí dụ như số cát sông Hằng. Hoặc khi có những tiếng ồn náo, người ta bảo ” om sòm bát nhã “, do khi đến chùa vào những ngày sám hối, chùa thưởng chuyển những hồi trống bát nhã, nhân đó mà phát sanh ra cụm từ trên. Lại có những người rày đây mai đó, ít khi dừng chân ở một chổ, khi người ta hỏi anh đi dâu mãi, họ vấn đáp tôi đi ” ta bà quốc tế “. Ta bà quốc tế là quốc tế của Đức Phật Thích Ca giáo hóa, theo thế giới quan của phật giáo thì quốc tế ta bà to gấp mấy lần quả địa cầu này, hoặc khi những bà nẹ Nước Ta la mắng những con hay quậy phá, những bà nói : ” chúng bay là đồ lục tặc “, tuy nhiên họ không biết từ lục tăc này phát xuất từ đâu ? Đó là từ nhà phật, chỉ cho sáu thằng giặc : sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp của ngoại cảnh luông luôn quấy nhiễu ta. Một từ ngữ có sâu xa như vậy, nhưng khi Phật Giáo truyền bá vào Nước Ta đã bị Việt Nam hóa trở thành lời mắng của những bà mẹ Nước Ta. Thiền sư Toàn Nhật đời Tây Sơn trong cuốn Tam Giáo Nguyên Lưu Ký, có phát biểu rằng : Và như sáu giặc trong mình, Chẳng nên để nó tung hoành khuấy ta ( 21 ) Còn nghiều từ ngữ khác như từ bi, hỷ xã, giác ngộ, sám hối đã được dân cư Nước Ta quen dùng như tiếng mẹ đẻ mà không chút ngượng ngập lạ lùng. Sự ảnh hưởng phật giáo không ngừng ở khoanh vùng phạm vi từ ngữ mà nó còn lan rộng, ăn sâu vào những ca dao dân ca và thơ ca của dân cư Nước Ta nữa. 2. Ảnh hưởng phật giáo qua ca dao và thơ ca ca dao dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, dễ hiểu trong dân gian, được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Không ai biết rõ nguồn gốc cũa những lời ca hát đó ở đâu, chỉ biết rằng nó thường được biểu lộ dưới hình thức câu hát ru em, những câu hò đối đáp giữa những chàng trai cô gái tuổi đôi mươi hay để kết thúc mỗi câu truyện cổ tích mà những cụ già kể cho con cháu nghe mang đặc thù khuyên răng dạy bảo. Ca dao dân ca thông dụng dưới dạng thơ lục bát gồm có nhiều đề tài khác nhau, tư tưởng đạo lý của phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến trong ca dao dân ca dưới đề tài này hay góc nhìn khác để nhắc nhở, khuyên răng dạy bảo, với mục tiêu thiết kế xây dựng một đời sống an vui tương thích với truyền thống cuội nguồn đạo đức của dân tộc bản địa Nước Ta. Sự ảnh hưởng của ngôi chùa : Có thể nói trong tâm hồn của mỗi con người Nước Ta đều có tiềm ẩn không ít triết lý nhà phật và những hình ảnh về ngôi chùa, về phật, trải qua hàng ngàn năm gắn bó mật thiết với làng xã Nước Ta : Đất vua, chùa làng, cảnh sắc Bụt Đất vua, chùa làng là một hình ảnh thân mật với dân, với làng, vơí nước như vậy, nếu ai xúc phạm đến chùa, phật thì cũng hoàn toàn có thể hiểu là xúc phạm đến đạo lý, đến vương quốc. Trên niềm tin đó dân cư Nước Ta quyết một lòng bảo vệ ngôi chùa quê nhà của mình :
Bao giờ cạn nước Đồng Nai Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền
Ở đâu có chùa, có phật, ở đó là thắng cảnh, là niềm tự hào của quê nhà :
Tây Ninh có núi Bà Đen Có sông Vàm Cỏ, có toà Cao Sơn
Ở cố đô huế :
Đông Ba, Gia Hội hai cầu Có chùa Diệu Đế bốn lầu hai chuông
Ở thành cổ Thăng Long :
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ Xem câu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn ( 22 )
Cũng như nhiều dân tộc bản địa khác, người Việt có nhiều tiệc tùng, mà lễ hội chùa là chiếm tỷ suất cao hơn hết :
Nhớ ngày mùng bảy tháng ba Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy AṠngày mùng sáu tháng ba Ăn cơm với cà đi hội của Chùa Tây ( Chùa Tây phương ). Dù ai đi đâu về đâu Hể trông thấy tháp chùa Dâu thì về Dù ai kinh doanh trăm nghề Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu Dù cho cha mẹ đánh treo Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm
Về sự ảnh hưởng của tiếng chuông chùa : Dân gian Nước Ta vốn có cách định thời hạn bằng đêm năm canh, ngày sáu khắc hoặc bằng tiếng gà, tiếng chim nhưng thường khi lại là tiếng chuông, tiếng trống của chùa :
Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông linh Mụ canh gà thọ Xương Trên chùa đã động tiếng chuông Gà Thọ Xương đã gáy, chim trên nguồn đã kêu
Hoặc :
Chiều chiều bìm bịp giao canh Trống chùa đã đánh sao anh chưa vế
Về sự ảnh hưởng ý niệm hiếu hạnh : Là người Nước Ta không hề không hiếu kính cha mẹ, niềm tri ơn và báo ơn ấy đã trở thành bản tính tự nhiên, ăn sâu vào tâm khảm của dân cư Việt. Tinh hoa và ý thức cao đẹp này không phải tự nhiên mà có, mà chính là nhờ ảnh hưởng của cả một nền giáo dục, một tổ chức triển khai văn hóa truyền thống từ ngàn xưa để lại, tương ứng với tư tưởng và phong tục của dân tộc bản địa Việt. Trong toàn bộ những ảnh hưởng, lớn nhất và sâu rộng nhất cũng vẫn là sự ảnh hưởng của Phật Giáo, một tôn giáo, một nền giáo dục đã xuất hiện với dân tộc bản địa từ buổi đầu của công nguyên, mà Phật Giáo là đạo hiếu, lời dạy của phật về việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm xúc suy tư in đậm trong lòng của người Việt, và đã bộc lộ linh động và triền miên ngang qua ca dao dân ca, mà tất cả chúng ta thấy tràn ngập khắp dân gian Nước Ta :
Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con Hay Núi cao biển rộng bát ngát Cù lao chín giữa ghi lòng con ơi
Mến cảnh chùa chiền, phật tượng, nhưng hiếu hạnh của người con vẫn đặt lên trên vì công ơn trời biển của cha mẹ trong suốt quy trình dưỡng dục sinh thành, biết bao nhọ nhằn, khó khăn so với con. Do đó :
Vô chùa thấy phật muốn tu Về nhà thấy mẹ công phu chưa đành.
Cũng vì thương kính cha mẹ, nên người con luôn luôn cầu nguyện phật trời gia hộ cho hai đấng từ thân:
Đêm đêm khấn nguyện phật trời Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Thực ra, hiếu tâm tức thị phật tâm, hiếu hạnh vô phi phật hạnh, làm tròn bổn phận cùa người con so với cha mẹ chính là một trong những pháp tu của nhà phật :
Tu đâu mà bằng tu nhà Thờ cha kính mẹ mới là chân tu Hoặc Đi về lập miếu thờ vua Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha
Về sự ảnh hưởng ý niệm nhân quả : Người Nước Ta thường nhắn nhủ nhau chớ có vì danh lợi phù hoa, làm ác hại người để rồi chuốc lấy đau khổ. Hãy ăn ở cho lương thiện rồi thế nào cũng gặp điều tốt đẹp, như mong muốn và niềm hạnh phúc :
Ai ơi hãy ở cho lành Kiếp này chẳng gặp đề dành kiếp sau.
Các bậc cha mẹ lại càng tu nhân tích đức cho con cháu về sau được nhờ :
Cây xanh thì lá cũng xanh Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Ngang qua những câu ca dao của Nước Ta về hình ảnh của ngôi chùa, về ý niệm hiếu hạnh, ý niệm nhân quả, ta thấy sự ảnh hưởng của phật giáo đã ăn sâu vào đời sống của dân tộc bản địa Nước Ta. Sự ảnh hưởng thâm thúy đó không biểu lộ qua ca dao tầm trung mà còn chiếm nhiều trong mô hình thơ ca, văn vần, văn xuôi, nói chung là văn chương bác học trong nền văn học Nước Ta. 3. Ảnh hưởng phật giáo qua những tác phẩm văn học : Bên cạnh ca dao tầm trung, trong những tác phẩm văn học của những nhà thơ, nhà văn tất cả chúng ta cũng thấy có nhiều bài thơ, tác phẩm chịu ảnh hưởng nhiều hay ít của phật giáo. Ở đây tất cả chúng ta không đề cập đến dòng văn học chính thống của phật giáo, tức là tác phẩm do những thiền sư sáng tác trong quy trình tu tập của mình, mà chỉ nói đến những thơ văn Nước Ta chịu sự ảnh hưởng của triết lý phật giáo mà thôi. Cái ảnh hưởng đó có ngay từ khi phật giáo gia nhập vào nước Việt, nghĩa là khi chữ Hán còn phổ cập, nhưng để thấy rõ ràng hơn, ta chỉ đề cập đến sự ảnh hưởng của phật giáo trong thơ văn từ khi người Nước Ta đã viết chữ Nôm, chữ Việt thành thạo nghĩa là khởi đầu thừ thế kỷ thứ 18 trở về sau. Tác phẩm chữ nôm nổi tiếng trong thế kỷ thứ mười tám là Cung Oán Ngâm Khúc của nhà thơ Nước Ta Nguyễn Gia thiều ( 1741 – 1798 ), tác phẩm viết bằng thơ nôm. Thể tuy nhiên thất lục bát, dài 356 câu, là khúc ngâm của người cung nữ bị vua ruồng bỏ, oán than về thân phận mình. Nội dung tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của phật giáo, nhất là triết lý ba pháp ấn Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Khi diễn đạt thân phận con người vốn khổ đau và mang tính vô thường, ông viết :
Gót danh lợi bùn pha sắc xám Mặt phong trần nắng rám mùi dâu Nghĩ thân phù thế mà đau Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
Theo cái nhìn của phật giáo, khi miêu tả nỗi khổ chúng sanh thường được dùng ẩn dụ như khỗ ải ( bể khổ ). Cái khổ ấy từ đâu mà có, vốn từ chỗ lầm chấp, vô minh của con người mà có, từ chỗ mê lầm ấy mà được tưởng tượng bằng mê tân ( bến mê ), Như thế danh từ bể khổ của phật giáo đã giúp ông Nguyễn Gia Thiều miêu tả thấu đáo nỗi khổ đau của kiếp người, cái khổ đau ấy, cái vô thường ấy không những chi phối ở con người mà còn ở cả cây xanh, hoa, lá, quốc tế vô tình, tổng thể chịu chung qui luật khắc nghiệt ấy :
Tiêu điều nhân sự đã xong Sơn hà cũng ảo, côn trùng nhỏ cũng hư Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ Quán tu phong đứng rũ tà huy Phong trần đến cả sơn khê Tang thương đến cả hoa kia cỏ này Tuồng ải hóa đã bầy ra đấy Kiếp phù sinh trông thấy mà dau Trăm năm còn có gì đây Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh lè
Con người và vạn vật đã vô thường và đau khổ như vậy, còn gì nữa để đắp chấp, chạy theo nó mà không tìm một con đường giải thoát khỏi vòng lẫn quẩn ấy ? Ta hãy nghe Ôn Như Hầu đưa ra giải pháp ở đầu cuối và quyết định hành động :
Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật Mối thất tình quyết dứt cho xong, Đa mang chi nữa đèo bồng, Vui vì thế sự mà mong nhân tình. Lấy gió mát trăng thanh mà kết nghĩa, Mượn hoa đàm, đuốc tuệ làm duyên Thoát trần một gót vạn vật thiên nhiên Cái thân ngoại vật là tiên trong đời
Điểm qua một vài đoạn trong cung oán ngân khúc, ta thấy Ôn Như Hầu đã dùng triết lý Tam Pháp Ấn để nhắc nhở người đời. Tuy lời văn đượm màu tang thương và bi đát của con người và cuộc sống, nhưng tổng thể tất cả chúng ta phải thừa nhận rằng cung oán ngâm khúc là tác phẩm tiên phong trong lịch sử vẻ vang văn học dân tộc bản địa việt đã sử dụng lối trình diễn bằng cảm xúc ( 23 ) mà trong đó tư tưởng triết lý Phật Giáo đóng vai trò chủ yếu. Qua thế kỷ thứ mười chín, với thi hào Nguyễn Du ( 2765 – 1820 ) ta có được một án văn bất hủ là Truyện Kiều, là một truyện thơ nôm viết bằng thể lục bát dựa theo tác phẩm Kim Vân Truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân ( Trung Quốc ), gồm 3254 câu thơ. Đây là một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật Giáo, trong đó ta thấy điển hình nổi bật nhất là thuyết về Khổ Đế, một phần quan trọng của giáo lý Tứ Diệu Đế, kế đó là niềm tin về hiếu đạo và thuyết về nhân quả và nghiệp báo. Điều đó có lý, vì lẽ chính Nguyễn Du đã tự nhận mình là một phật tử và từng đọc Kinh Kim Cang Bát Nhã đến cả ngàn lần. Thật vậy, Đoạn Trường Tân Thanh có vẻ như chỉ là để chứng tỏ cho triết lý nhân quả của Phật Giáo. Theo thuyết này, những điều họa phúc mà con người phải gánh chịu ở kiếp này điều có nghiệp nhân ở kiếp trước, khi mới sinh ra ở đời ta phải mang lấy cái nghiệp tức là cái tác dụng của những vô minh ái dục mà ta đã gây tạo từ trước, và cuộc sống của tất cả chúng ta sẽ niềm hạnh phúc hay đau khổ, tai ương hay suôn sẻ đều tùy thuộc vào cái nghiệp thiện hay ác, tốt hay xấu, nặng hay nhẹ mà chính mình đã gây tạo :
Đã mang lấy nghiệp vào thân Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa
Nhưng theo Phật Giáo thì nghiệp không phải là định nghiệp, là bất khả chuyển, do đó ông mới tự tin :
Sư rằng phúc họa đạo trời Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra Có trời mà cũng có ta Tu là cội phúc, tình là dây oan
Trong đoạn trường tân thanh nàng Kiều phải mang một cái nghiệp rất nặng. Vì cái nghiệp ấy mà người con gái đầu xanh chưa tội tình gì mới bước chân vào cuộc sống đã gặp biết bao khổ luyﺠcha và em trai bị tù tội, mối tình đầu tan vỡ, và mở màn từ đó nàng lăn lóc từ nơi này qua nơi khác, có khi tưởng ra khỏi vòng nhưng rồi lại bị hấp dẫn đày đọa, mãi cho đến khi tự vẫn ở sông Tiền Đường, Đạm Tiên mới cho biết rằng nàng đã qua khỏi bước đoạn trường và sắp được sống một cuộc sống sung sướng sáng lạn :
Chị sao phận mỏng mảnh đức dầy, Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai ? Tâm thần đã thấu đến trời Bán thân là hiếu, cứu người là nhân. Một niềm vì nước vì dân Âm công cất một đồng cân đã già. Đoạn trường sổ rút tên ra Đoạn trường thơ đã đem về trả nhau Còn duyên tận hưởng về sau Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào.
Qua sáng tạo độc đáo phước đức, duyên nghiệp trên của Đoạn Trường Tân Thanh ta thấy cụ Nguyễn Du rõ ràng đã chịu ảnh hưởng sâu xa của Phật Giáo. Nàng Kiều bao nhiêu năm chìm nổi trớ trêu vì một chữ nghiệp, cứ mỗi lần thất bại là một lần ý nghĩa của chữ ấy càng rõ ràng thấm thía so với thân phận của nàng. Sự tin yêu của nàng cũng là sự tin yêu của Nguyễn Du, người đã từng chịu đau khổ và bao phen thất bại nên thức tỉnh và tìm đường trở về vớí Chánh pháp. Ngoài Đoạn Trường Tân Thanh, nguyễn du còn viết văn tế thập Loại chúng sanh còn gọi là Kinh Chiêu Hồn, là một tác phẩm cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm với triết lý Phật Giáo :
Kiếp phù sinh như bào như ảnh Có chữ rằng : vạn cảnh giai không Ai hay lấy Phật làm lòng Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Nếu ở đãu thế kỷ thứ mười chín tất cả chúng ta có Nguyễn Du thì cuối thế kỷ thứ mười chín tất cả chúng ta có Mạnh Chu Trinh ( 1862 – 1905 ) một nhà thơ việt nam người làng Phú Thị, huyện Khoái Châu, tỉnh Hải Hưng, ông đậu tiến sỹ năm 1902. Là một người tài hoa về thơ, giỏi và thích kiến trúc, ông đã từng vẽ kiểu và trùng tu chùa Thiên Trù ở Hương Tích. Cũng trong thời hạn ( giữa những năm 1891 – 1892 ) kiến thiết xây dựng chùa này mà ông đã sáng tác nhiều bài thơ độc lạ về cảnh sắc Hương Tích và tất yếu thơ của ông cũng chịu ảnh hưởng thâm thúy ý thức của Phật Giáo, ví dụ điển hình như bài : ” Hương Sơn Phong Cảnh ” :
Bầu trời cảnh Bụt thú Hương Sơn Ao ước bấy lâu nay Kìa non non, nước nước, mây mây. Đệ nhất động hỏi rằng đây có phải ? Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái, Lững lờ khe yến, cá nghe kinh. Thoảng bên tai một tiếng chầy kình, Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Thật vậy qua những bài thơ này, ta thấy thơ của Chu Mạnh Trinh đã phản chiếu được lòng tin của ông so với giáo lý nhà Phật và qua cái nhìn ông một cảnh vật ở đó thật giải thoát, an nhàn, thanh vắng, và hoàn toàn có thể nói cảnh vật Hương Sơn với ông trở thành một cõi riêng của Phật trong đó không những người Fan Hâm mộ mà cho đến cả chim, cá, khe, động đều thấm nhuần được ánh sáng của Chánh Pháp. Qua đầu thế kỷ thứ hai mươi, tất cả chúng ta có một nhà thơ đáng yêu, tuy không phải là Fan Hâm mộ Phật Giáo, nhưng nhiều lúc văn thơ của ông cũng đã ảnh hưởng không ít từ ngôn từ, tư tưởng nhà Phật, đó là thi sĩ Hàn Mạc Tử ( 1912 – 1940 ), xin đơn cử một bài thơ của ông :
Thơ tôi thơm huyền dịu Mọc lên Đạo Từ Bi Khi xưa ta là chim Phượng Hoàng Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất Bay từ Đao Lợi, đến trời Đâu Suất Họp tinh khí muôn năm thành Chánh quả Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu Não nề lòng viễn khách giữa lúc mơ Trời từ bi cảm động ứa sương mờ Sao gió lại bay hồn trong kẻ lá
Những chữ trời từ bi, chín từng trời, Đao Lợi, Đâu Suất, thành chánh quả .. đều là danh từ của nhà Phật. Hay với J. Leiba ( 24 ) một nhà thơ trẻ Nước Ta đầu thế kỷ thứ 20 cũng có những bài ảnh hưởng sâu đậm triết lý nhà Phật :
Phật giáo vô biên độ chúng sanh Bè từ thả với kiếp lênh đênh Trần ai đã đẫm muôn hồ lệ, Xin độ trì đôi lứa tuổi xanh.
* * *
Con dẫu trần tâm đã sạch rồi Lòng từ vương một chút ít không thôi Đoái trông lục hợp sinh tà lụy Bao sợi dây oan buộc kiếp người.
Có thể nói J. Leiba là nhà thơ trẻ nhất thời đó đã quay về với Đạo Phật để tìm lấy sự an nhàn cho tâm hồn cho những ngày cuối đời mình :
Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá Lệ lòng mong cạn chốn am không Cửa thiền một đóng duyên trần dứt Quên hết người quen chốn bụi hồng
Và với Vũ Hoàng Chương ( 1916 – 1976 ) nhà thơ nổi danh khác của Việt nam lại đi xa hơn, mượn ngay những giáo lý của Phật như Nhân Quả, Luân Thường, khổ đau .. để diễn đạt nổi niềm khao khát vượt ra khỏi bờ mê, để đến bến giác :
Ta còn để lại gì không ? Kìa non đá lở, nay sông cát bồi Lang thang thừ độ luân hồi U minh nẻo trước, xa xôi dặm về Trông ra bến hoặc bờ mê Nghìn thu cửa chớp, bốn bề một phương.
Điểm qua 1 số ít thơ văn Việt nam có những ảnh hưởng của Phật Giáo như trên ta thấy tư tưởng, triết học Phật Giáo đã để lại dấu ấn của mình sâu đậm trên forum tư tưởng của Nước Ta. Không chỉ ảnh hưởng trên mặt văn chương xuất bản mà Phật Giáo còn xuất hiện trong nhiều phong tục tập quán ở Nước Ta. 4. Ảnh hưởng Phật Giáo qua phong tục, tập quán : Phong tục tập quán bộc lộ rực rỡ và tính đặc trưng về văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc bản địa. Thông qua việc tìm hiểu và khám phá phong tục tập quán, người ta tìm lại được những giá trị văn hóa truyền thống mang thực chất truyền thống lịch sử của những dân tộc bản địa. Đối với người Nước Ta, những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng phật giáo khá nhiều. Song ở đây người viết chỉ đề cập đến những tập tục phổ cập trong đời sống hằng ngày của người Việt. * Ảnh hưởng phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ phật, phóng sanh và bố thí : Về ăn chay, phần nhiều toàn bộ người Nước Ta đều chịu ảnh hưởng nếp sống văn hóa truyền thống này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ ý niệm từ bi của phật giáo. Vì khi đã quay trở lại với phật pháp, mỗi người phật tử phải thọ giới và trì giới, trong đó giới cơ bản là không sát sanh hại vật, mà trái lại phải thương mến mọi loài. Trong hành vi lời nói và ý nghĩa, người phật tử phải bộc lộ lòng từ bi. Điều không hề có được khi con người còn ăn thịt, còn uống máu chúng sanh. Để đạt được mục tiêu đó, người phật tử phải dùng đến chiêu thức ăn chay. Cố nhiên người xuất gia ăn chay trường, còn phật tử tại gia còn nhiều trở ngại nên chỉ ăn chay kỳ. Thông thường người Nước Ta, cả phật tử lẫn người không phải phật tử cũng theo tục lệ đặc biệt quan trọng này, họ ăn chay mỗi tháng hai ngày, là ngày mùng một và ngày rằm mỗi tháng, có người ăn mỗi tháng bốn ngày là ngày 01, 14, 15 và 30, nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 29, có người ăn mỗi tháng sáu ngày là những ngày mùng 8,14, 15, 23, 29 và 30 ( nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 28, 29 ), có người phát tâm ăn chay mỗi tháng mười ngày là ngày 1,8,14,15,18,23,24, 28 và 30 và mùng 1 ( nếu tháng thiếu thì ăn vào ngày 27,28,29 ) cũng có nhiều người phát nguyện ăn chay suốt cả tháng ( thường là tháng bảy âm lịch ) hoặc ba tháng ( tháng giêng, tháng bảy và tháng mười ) hay cả năm, nhiều lúc có một số ít người đi phát nguyện ăn trường trai giống như những người xuất gia. Về mặt nhà hàng, ăn chay rất tương thích với phong thái nhà hàng siêu thị Á Đông, chú trọng ăn ngũ cốc nhiều hơn thực phẩm động vật hoang dã, vả lại ăn chay giúp cho khung hình được nhẹ nhàng, trí óc được minh mẫn sáng suốt. Gần đây những bác sĩ Soteylo, và bác sĩ Varia Kiplami cho biết trong những thứ thịt có nhiều chất độc, rất nguy hại cho sức khoẻ con người. Và những nhà khoa học đều cho rằng ăn chay rất hợp vệ sinh và không kém phần bổ dưỡng. Trên ý thức đó, nên nguời việt nam dù không phải là Phật Tử cũng thích ăn chay, và tập tục này đã ảnh hưởng sâu rộng trong mọi giai tầng xã hội Nước Ta từ xưa đến nay. Ăn chay và thờ phật là việc song song với nhau của người Nước Ta. Việc thờ phật trong dân gian cũng có nhiều điều mê hoặc. Người phật tử, người mộ đạo thờ phật đã đành, nhiều người không phải là phật tử cũng dùng tượng phật hay tranh vẽ có yếu tố phật giáo để chiêm ngưỡng và thưởng thức và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và trang nghiêm. Theo ý niệm của nhóm người này, phật giáo là một thành tựu về tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc bản địa và quả đât. Cũng xuất phát từ niềm tin từ bi của Phật Giáo tục lệ bố thí và phóng sanh đã ăn sâu vào đời sống hoạt động và sinh hoạt của quần chúng. Đến ngày rằm và mùng một, người Việt thường hay mua chim, cá, rùa .. để đem về chùa chú nguyện rồi đi phóng sanh. Người Việt cũng thích làm phước bố thí và chuẩn bị sẵn sàng trợ giúp kẻ nghèo khó, hoạn nạn, vào những ngày lễ hội lớn họ tập trung chuyên sâu về chùa. Tuy nhiên, trong xã hội văn minh những biểu lộ mang đặc thù hình thức trên này càng bị thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho những đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảng sống gặp khó khăn vất vả đúng với truyền thống cuội nguồn đạo lý của dân tộc bản địa lá làng đùm lá rách nát. b / Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa. Theo đúng truyền thống lịch sử tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, do đó thần thánh, tổ tiên hoàn toàn có thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với những cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập là ngày trong sáng để những vị tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bố tát và ngày sám hối, người Fan Hâm mộ về chùa để tham gia lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân tâm. Quan niệm ngày sóc vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay là xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào ngày rằm và mùng một, họ sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam Bảo và tổ tiên Ông Bà, bộc lộ lòng tôn kính, thương nhớ những người quá cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tánh của họ. Bên cạnh việc đi chùa sám hối vào ngày rằm, mùng một, người Nước Ta còn có tập tục khác là đi viếng chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như ngày rằm tháng giêng, rằm tháng tư ( Phật Đản ) và rằm tháng bảy ( lễ vu lan ). Đây là một tập tục, một nhu yếu không hề thiếu được trong đời sống người Việt. Tuy nhiên, đi viếng chùa cũng tùy thuộc vào mục tiêu và ý niệm của mỗi người. Cánh cửa chùa khi nào cũng rộng mở so với thập phương bá tánh, nhất là những ngày hội lớn của Phật giáo, của dân gian ( tết Nguyên Đán ) hoặc những ngày kỷ niệm lớn của lịch sử vẻ vang dân tộc bản địa, ( giổ tổ Hùng Vương ). Vào những ngày này, phần đông những những tầng lớp nhân dân, những giới trong xã hội đều qui tụ về đây. Trước cánh cửa thiền môn, những khuôn mặt trang nghiêm, vẻ đẹp thanh thoát của hoa huệ, hoa cúc chen lẫn với hương trầm quyện tỏa tạo nên bầu không khí ấm cúng, rất thiêng, bộc lộ tấm lòng tôn kính của họ so với Đức Phật và những bậc Thánh Hiền. Những hình ảnh đó đã góp thêm phần tạo nên truyền thống và nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc bản địa Việt. Trong dòng người sinh động, phần đông đó không phải ai cũng đến đây vì nguyên do tín ngưỡng thuần túy. Một số đông người chỉ đơn thuần muốn đi xem liên hoan hoặc thích chiêm ngưỡng và thưởng thức vẻ đẹp của chùa chiền nhưng khi đã hội nhập vào bầu không khí trang nghiêm họ cũng thấy mình trở nên đỉnh đạc và trầm tỉnh hơn, đây là thời cơ giúp họ quay về với Đạo Phật. c / Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi : Đây cũng là hoạt động và sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống người Việt. Về ma chay, theo phong tục của người Nước Ta và Trung Quốc trước kia rất là phiền phức và hao tốn. Tuy nhiên nhờ có sự dẫn dắt của chư tăng thì tang lễ diễn ra đơn thuần và trang nghiêm hơn. Khi trong mái ấm gia đình ( theo Đạo Phật ) có người qua đời, thân quyến đến chùa thỉnh chư tăng về nhà để trợ giúp phần tang lễ ( thường gọi là làm ma chay ). Thông thường những nghi thức trong tang lễ được diễn ra tuần tự như sau : ( 1 ) Nghi thức nhập liệm người chết ; ( 2 ) lễ phát tang ; ( 3 ) lễ tiến linh ( cúng cơm ) ; ( 4 ) khóa lễ kỳ siêu cho hương linh ; ( 5 ) lễ cáo Triều Tổ ( cáo tổ tiên ông Bà trước giờ di quan ) ; ( 6 ) lễ di quan và hạ huyệt ; ( 7 ) Đưa lư hương, long vị, hình vong về nhà hoặc chùa ; ( 8 ) lễ an sàng ; ( 9 ) cúng thất ( tụng kinh cầu siêu và cúng cơm cho hương linh trong bảy tuần gồm 49 ngày, mỗi tuần cúng một lần ) ; ( 10 ) lễ tiểu tường ( giáp năm, sau ngày hương linh mất một năm ) ; ( 11 ) lễ đại tường ( lễ xã tang, sau ngày hương linh qua đời hai năm ). Ở những mái ấm gia đình không theo Đạo Phật nhưng do người quá cố hoặc gia chủ mến chuộng Đạo Phật nên họ thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu siêu cho hương linh và tổ chức triển khai tang lễ giống như những Fan Hâm mộ theo Đạo Phật. Nhìn chung, tập tục ma chay tại Nước Ta chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi thức của Phật giáo. Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng của Phật giáo tỏ ra ít phức tạp hơn so với Thiên Chúa giáo, khổng giáo hay Hồi giáo. Trước khi tiến tới hôn nhân gia đình, nhiều đôi bạn trẻ theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật phù hộ cho mối lương duyên của họ được thuận buồm xuôi gió. Đến ngày cưới hỏi, họ được hướng dẫn về chùa để chư tăng làm lễ ” hằng thuận quy y ” trước khi rước dâu. Đó là một lễ chúc lành ngắn gọn và được chư tăng khuyên dạy 1 số ít nguyên tắc đạo đức Phật giáo, để làm mục tiêu cho đời sống mới. Ngoài những phong tục của người Nước Ta chịu ảnh hưởng Phật giáo đã được kể trên, tất cả chúng ta còn thấy một số ít tập tục khác cũng tương đối thông dụng và có không ít tương quan đến Phật giáo mà tất cả chúng ta phải ghi nhận. d / Các phong tục tạp quán khác. 1 / Tập tục đốt vàng mã : Đây là tập tục rất thông dụng ở Nước Ta mà người Việt đã tiếp đón từ Phật giáo Trung Quốc. Nhiều người ngộ nhận rằng tập tục này xuất gia từ quan điểm nhân quả luân hồi của Phật giáo, do đó nó đã sống sót trong Phật giáo từ xưa cho tới ngày này. Nếu đời này ai ăn ở hiền lành, tu tâm dưỡng tánh thì đời sau sẽ tái sinh trở lại làm người niềm hạnh phúc, sung sướng giàu sang hoặc vãng sanh về quốc tế cực lạc. Còn nếu kiếp này ăn ở tệ bạc, làm nhiều điều ác, sau khi chết sẽ bị đọa xuống âm ti cõi âm ti chịu nhiều đau khổ. Người nhiều tội lỗi hay không có ai thờ cúng, cầu siêu thì ở nơi âm ti bị oan ức, đói lạnh, không hề siêu thoát được hoặc đầu thai được. Cho nên những người thân trong gia đình ở nơi dương thế phải thờ cúng, tụng kinh cầu siêu để người thân trong gia đình của mình dưới cõi âm ti bớt đi phần tội lỗi hoặc được ấm no mà thoát kiếp. Sau khi cúng giỗ, ngày vọng người chết sẽ nhận được những đồ vật, tài lộc đã cúng và đốt đó. Trong những đồ mã và giấy tiền vàng bạc để cúng thường có hình ảnh ( Phật Di Lặc hay Bồ Tát Quan Âm ) hoặc chữ nghĩa ( chú vãng sanh, chữ triện ) có yếu tố của Phật giáo với ý đồ mong sự cứu độ của Chư Phật so với người đã khuất. Ở đây xin nói rõ, tập tục đốt vàng mã là một ” hủ tục ” mang tính mê tín dị đoan dị đoan và vô lý, người Phật tử chân chính không khi nào gật đầu. Chính trên trần gian này, đồng tiền của nước này mang sang nước khác còn khó được gật đầu, huống hố từ nhơn gian, đốt gởi xuống âm ti xài, là chuyện không có cơ sở để an toàn và đáng tin cậy được. Theo Phật dạy chúng sanh tùy nghiệp thiện ác theo đó mà thác sanh nơi cõi lành, cõi dữ. Thân nhân tất cả chúng ta chết cũng theo nghiệp thiện ác mà thọ sanh vào sáu cõi chứ không ngồi chờ việc đốt vàng mã của người thân trong gia đình, vừa trái với đạo lý, vừa phí tổn tài lộc vô ích. Theo Phật giáo thì có rất nhiều cách để biểu lộ lòng thương và lòng chung thủy của người sống so với người chết bằng cách khi có người sắp chết, thân quyến phải phát tâm bố thí, cúng dường, phóng sanh và điều quan trọng là phải thông tin cho người đó biết việc làm của mái ấm gia đình mà hướng tâm đến con người thiện, nhờ đó mà họ sẽ thọ sanh vào cảnh giới an lành. 2 / Tập tục coi ngày giờ : Đây là một tập tục ăn sâu vào tập quán của người Việt nói riêng và cả Châu Á Thái Bình Dương nói chung. Mỗi khi sắp làm một việc gì quan trọng như thiết kế xây dựng nhà cửa, đám chết, đám cưới, xuất hành đầu năm … người ta thường về chùa để nhờ những thầy coi giúp giùm ngày nào tốt thì làm ngày nào xấu thì tránh. Thông thường người ta hay tránh ba ngày : mùng 05, 14, 23, họ cho ba ngày này là xuôi xẻo, là xấu số, cần phải tránh. Theo cái nhìn của Phật giáo thì đây cũng là một mô hình mê tín dị đoan, người Phật tử không nên chạy theo. Đức Phật dạy rằng với người làm điều lành, ngày nào cũng là ngày tốt với người làm việc tốt, ngày nào cũng là ngày lành. Năm tháng so với người làm thiện đều là ngày tốt cả, gieo nhân thiện thì sẽ gặt quả lành. Giáo lý nhân quả của Đạo Phật là cán cân công minh với khổ đau và niềm hạnh phúc của con người chứ không phải là sự phân định của hên xuôi. 3 / Tập tục cúng sao hạn : Tập tục này rất thông dụng và ăn sâu vào tập quán của người Việt và lại có sự tham gia của Phật giáo. Nguyên nhân cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, sau truyền qua Nước Ta rồi vào trong Phật giáo. Thời xưa ta có Tam giáo đồng nguyên ; Phật, Lão và Khổng giáo, đồng quy về mặt nguồn. Chủ trương như nhau, cùng một thiện chí để góp phần cho xã hội, phục hưng đạo đức, đưa đời sống của con người đến ấm no niềm hạnh phúc. Trong toàn cảnh Tam giáo đó, những thầy Phật giáo phải linh động, phải khám phá, học hỏi những cái lưu truyền của đạo bạn để có một cái nhìn hòa đồng, cảm thông và nhất là để kéo Phật tử trở lại với bói quẻ, xem tướng, thì những thầy cũng cúng sao, bói quẻm xin xăm, để cho người Phật tử quay về chùa, thay vì để họ lạy thần linh thì lạy Phật tốt hơn. Bước thứ hai là giảng đạo lý nhân quả, Bát chánh đạo, tạo chánh kiến cho người Phật tử xóa bỏ tà kiến trước đây của họ. Trong phương tiện đi lại này đã có 1 số ít người lạm dụng và dần dà nó trở thành một mô hình hoạt động và sinh hoạt của Phật giáo. Hiểu rõ điều này, người Phật tử nên vô hiệu tập tục mê tín dị đoan này. 4 / Tập tục xin xăm, bỏi quẻ : Xin xăm bói quẻ là một việc cầu may. Cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, một mô hình hoạt động và sinh hoạt khá rầm rộ tại những chùa, đình, miếu vào dịp đầu năm mới hoặc những ngày lễ lớn. Các chùa làng có thờ Quan Thánh Đế Quân thường có song song với việc xin xăm. Người xin xăm trước hết đến lạy Phật rồi sang bàn thờ cúng Quan Thánh, khấn nguyện xin một quẻ xăm, rồi họ lắc ống xăm có 100 thẻ đê lấy một thẻ rớt ra, sau đó họ cầm quẻ xăm đến nhờ thầy trù trì giải đáp giùm vận mạng của mình. Mỗi thẻ ứng với một lá xăm có ghi sẵn trong những điều tiên đoán về việc làm làm ăn, học tập, hôn nhân gia đình, mái ấm gia đình … của mỗi người bốc được quẻ xăm đó. Đây là một tập tục không lành mạnh do tin yêu vào sự may rủi của số phận đã được sắp xếp, an bài từ trước. Như sách xưa co câu ” phước chí tâm linh, hoa lai thần ám “. Nghĩa là người gặp lúc phước đến thì giở quẻ ra đều tốt, khi họa lại thi rút lá xăm nào cũng xấu. Thế là tốt xấu tại mình, không phải tại xăm quẻ. Người Phật tử chân chính cần phải vô hiệu những mô hình mê tín dị đoan này. Phong tục tập quán tại Nước Ta trong quy trình sống sót và tăng trưởng đã chịu nhiều tác động ảnh hưởng của trào lưu văn hóa truyền thống khác nhau. Nhất là từ Trung Quốc. Trong đó Phật giáo đã dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì không ít những tập tục dân gian mà tất cả chúng ta thấy vẫn còn sống sót cho tới ngày này. Tuy nhiên, không phải những tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo là tốt tổng thể, mà trong đó có tập tục cần phải chắc lọc lại để tương thích với chánh pháp. Đó là trách nhiệm nặng nề của những nhà truyền giáo trong thời văn minh. Bên cạnh sự ảnh hưởng trong những phong tục tập quán của dân tộc bản địa. PG còn ảnh hưởng qua những mô hình nghệ thuật và thẩm mỹ như, thẩm mỹ và nghệ thuật tạo hình, thẩm mỹ và nghệ thuật sân khấu cải lương …
IV. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO QUA CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT :
1 / Phật giáo bộc lộ qua thẩm mỹ và nghệ thuật sân khấu ( Hát bội, hát chèo, cải lương và kịch nói ). Nghệ thuật sân khấu cũng là một mô hình văn hóa truyền thống, nhất là những chủng loại này thuộc về di sân mang tính truyền thống của văn hóa truyền thống dân tộc bản địa song song với những phần đã nêu ra ở trên. Tính triết lý ” nhân quả báo ứng ” của Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong những bài ca tuồng, vở diễn tương thích với đạo lý phương đông và nếp sống truyền thống cuội nguồn của dân tộc bản địa. Trước hết, loại hát chèo Open khởi đầu hầu hết ở những tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, lôi cuốn nhiều tinh hoa thẩm mỹ và nghệ thuật dân gian như múa, hát và diễn những vở truyện Nôm truyền thống cuội nguồn. Đáng kể nhất là vở ” Quan Âm Thị Kính ” đã đi vào dạng tuồng tiêu biểu vượt trội chính thống khi nhắc đến môn nghệ thuật và thẩm mỹ này. Còn có những vở ” Trương Viên “, ” Lưu Bình Dương Lễ “, ” Kim Nhan “, ” Chu Mãi Thần ” … đều mang tính thưởng thiện phạt ác và những vở này gọi là tiêu biểu vượt trội nên có tên gọi là ” chèo cổ “. Thứ hai, hát bội khởi đầu đi vào nếp sống cung đình, khác với chèo cổ, nghệ thuật và thẩm mỹ này trở nên một mô hình vui chơi hạng sang dành cho vua chúa và giới thượng lưu, một phía khác là nó dành cho những ai có trình độ chiêm ngưỡng và thưởng thức thẩm mỹ và nghệ thuật, tương đối thì mới hoàn toàn có thể xem và cảm nhận được chủng loại độc lạ này. Có thể nói xuyên suốt thế kỷ thứ 19 là thời đại hoàng kim của thẩm mỹ và nghệ thuật hát bội. Các vở ” San Hậu ” ; ” Tam Nữ Đồ Vương ” ; ” Diễn Võ Đình “, ” Nghiêu Sò Ốc Hến ” … là những vở mang đặc thù dân tộc bản địa chính thống và tiềm ẩn toàn vẹn triết lý ” nhân quả báo ứng ” và hướng thiện một cách cao đẹp. Từ nhạc cổ, nhạc tài tử trở thành hình thái ” ca ra bộ “, để từ đó trở thành nghệ thuật và thẩm mỹ sân khấu cải lương từ đầu những năm hai mươi ( 1922 ) của thế kỷ này ở Nam Bộ. Có thể nói chưa có thẩm mỹ và nghệ thuật dân tộc bản địa nào tăng trưởng nhanh gọn, có sức cuốn can đảm và mạnh mẽ và dung nạp nhiều mãng dân ca như bộ môn cải lương. Chính vì yếu tố phóng khoáng đó, cải lương thuận tiện tiến sâu vào chân lý của Phật giáo, mở ra cánh cửa được sự tích Phật Thích Ca và nhiều điển tích khác của Phật giáo vào gia tài thẩm mỹ và nghệ thuật của mình. Đây là một mô hình nghệ thuật và thẩm mỹ được phần đông bà con lao động Nước Ta nhất là những vùng ngoại ô mến chuộng và ưa thích. Giáo lý ” nhân quả báo ứng, thưởng thiện phạt ác ” … được những soạn giả bộc lộ những vở cải lương và đã được người theo dõi mê hồn chiêm ngưỡng và thưởng thức và đã đứng vững trên forum sân khấu trong suốt mấy chục năm qua. Tiêu biểu như những vở ” Thích Ca Đắc Đạo “, ” Quan Âm Thị Kính “, ” Quan Âm Diệu Thiện “, ” Mục Liên Thanh Đề “, đặc biệt quan trọng gần đây ( đầu thập niên 90 ) có hai vở đáng chú ý quan tâm là ” Thoát Vòng Tục Lụy ” và ‘ Thái Tử A Xà Thế ” của soạn giả Giác Đạo Dương Kinh Thành, là hai vở tuồng chuyên chính tiên phong của Phật giáo Nước Ta, đã được trình diễn nhiều nơi và đã thực thi băng video và băng cassette phát hành thoáng rộng trong và ngoài nước. Ngoài ra còn có những vở chịu ảnh hưởng không ít tư tưởng Phật giáo như những vở ” Phạm Công Cúc Hoa “, ” Tấm Cám “, ” Kim Vân Kiều ” … do sự ảnh hưởng ý thức từ bi hỷ xả của Phật giáo nên luôn luôn những tuồng cải lương ở phần kết thúc đều có hậu. Nhà nghiên cứu và điều tra Sơn Nam từng phát biểu về điều này : ” Nước ta từ xưa vẫn theo truyền thống cuội nguồn Tam giáo, nhất là nhờ ảnh hưởng văn hóa truyền thống Phật giáo mà tiến lên, nhân vật trong vở tuồng dù lố lăng ( … ) điều quan trọng là nhân vật chính, nhân vật phụ ấy phải được xử lý ở màn chót theo ý thức bi trí, dũng, theo luật nhân quả của Phật giáo ( … ). Phật giáo là phép màu dung hòa mọi xích míc, chỉ nẻo cho con người thoát khỏi những cảnh ngộ éo le, khó xử nhất. Nếu thoát khỏi luân lý ấy, cải lương sẽ là cái xác không hồn “. ( 25 ) Sau cùng là kịch nói, đây là mô hình nghệ thuật và thẩm mỹ được gia nhập từ phương Tây sau thế chiến thứ hai ( 1938 – 1945 ), khởi đầu hầu hết trình diễn những vở phóng tác từ những vở tuồng của quốc tế để ship hàng cho Thực Dân và Quan Lại thừa sai. Sau thập niên 60, kịch nói mới có vị trí thật sự trong sân khấu Nước Ta và được người dân hưởng ứng bằng những vở diễn do chính người Nước Ta dàn dựng. Kịch nói chưa có góp phần gì đáng kể cho Phật giáo như những mô hình nghệ thuật và thẩm mỹ khác. Tuy nhiên nội dung cũng hàm chứa nhiều căn ban đạo đức dân tộc bản địa trong đó có ảnh hưởng Phật giáo. Không chỉ trong nghệ thuật và thẩm mỹ sân khấu, diễn xuất người ta mới thấy sự yêu dấu của phần đông quần chúng so với Đạo Phật mà tất cả chúng ta còn thấy được điều này qua nghệ thuật và thẩm mỹ tạo hình. 2 / Ảnh hưởng Phật giáo qua thẩm mỹ và nghệ thuật tạo hình : – Về kiến trúc : Khi Phật giáo truyền vào Nước Ta, cố nhiên đã đem theo những kiểu kiến trúc chùa tháp, lầu chuông gác trống theo quy mô kiến trúc của Ấn Độ, Miến Điện và Trung Quốc. Tuy nhiên theo thời hạn, ý thức khai phóng của Phật giáo phối hợp cung với lối tu duy tổng hợp của dân tộc bản địa Việt đã tạo ra một quy mô kiến trúc rất riêng cho Phật giáo ở Nước Ta. Chùa tháp ở Việt nam thường được thiết kế xây dựng với lối kiến trúc đặc biệt quan trọng, mái chùa khi nào cũng ẩn dấu sau lũy tre làng, dưới gốc cây đa hay ở một nơi có cảnh trí vạn vật thiên nhiên đẹp hoặc thanh vắng. Theo Nguyễ Quân và Phan Cẩm Thương thì kiến trúc Chùa Tháp ở Nước Ta là ” một quần thể kiến trúc có quy mô không lớn, tương ứng với tầm vóc con người, phân bổ lớp kiến trúc theo một trục dọc lê dài gây cảm xúc đi sâu không cùng, đưa tự nhiên xen kẻ trong những thành phần, chú trọng cảnh sắc sông nước, vườn chùa, làm cho khu công trình có đặc thù cởi mở luôn lớn hơn khối thực thể của nó “. ( 26 ) Theo quy mô kiến trúc theo kiểu chữ ” công ” : bái đường và điện Phật được nối nhau bằng nhà thiên hương ; kiêu chữ ” Đinh ” : trước ; kiểu chữ ” Tam ” : có ba nếp nhà song song với nhau, hay kiểu ” Nội công ngoại Quốc ” : phía trước là tiền đường và điện Phật, sau là mảnh sân hình vuông vắn trồng hoa lá cây cảnh, đặt hòn non bộ, phía sau là nhà hậu tổ, hai bên là nhà Đông và nhà Tây ( 27 ). Phật giáo để lại nhiều quần thể kiến trúc độc lạ và danh lam thắng cảnh cho nước Việt, nhiều ngôi chùa nổi tiếng như ở miền Bắc có chùa Một Cột, chùa Tây phương, chùa Hương, ở miền Trung có chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu, chùa Báo Quốc, và ở miền Nam có những chùa Giác Lâm, chùa Vĩnh Tràng … – Về điêu khắc : Ngày nay có dịp du lịch thăm quan viện kho lưu trữ bảo tàng lớn ở Nước Ta, tất cả chúng ta sẽ thấy nhiều cốt tượng, phù điêu của Phật giáo được tọa lạc, đó không những là một niềm tự hào của nền văn hóa truyền thống dân tộc bản địa Việt mà còn là dấu vết chứng tỏ sự ảnh hưởng của Phật giáo xuất hiện trong nghành này. Tiêu biểu ta thấy có những tác phẩm như tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ( 28 ). Chùa Hạ ( Vĩnh Phú, Bắc Việt, cao 3,2 m ), 16 pho tượng tổ gỗ của chùa Tây Phương ( Hà Tây, Bắc Việt ), Bộ tượng Thập Bát La Hán chùa Phước Lâm ( Hội An, Quảng Nam Thành Phố Đà Nẵng ), Bộ tượng Thập Bát ở chùa Tràng ( Mỹ Tho ), tượng Tuyết Sơn chùa Trăm Gian ( Hà Tây ). Tượng Phật Thích Ca, cao 1,07 m bằng đồng là hiện vật Bảo tàng lịch sử dân tộc TPHCM. .. là những tác phẩm thẩm mỹ và nghệ thuật điêu khắc độc lạ của Nước Ta còn có những khu công trình điêu khắc quy mô và mang tính lịch sử vẻ vang như tượng ” Phật Nhập Niết Bàn ” dài 49 m ở núi Trá Cú, Phan Thiết được xây đắp năm 1962, tượng Đức Phật Thích Ca ngồi kiết già cao 11 m tại Vũng Tàu, Khánh Thành ngày 10/3/963 ; tượng ” Kim thân Phật tổ ” cao 24 m ở chùa Long Sơn, TP. Nha Trang được triển khai vào năm 1964. Và về hội họa : Mái chùa cổ kính giữa núi non tĩnh mịch hay những liên hoan viếng chùa ngày đầu xuân hoặc tư tưởng độc lạ của triết học, của thiền học Phật giáo luôn là đề tài gây nhiều cảm hứng cho những nghệ nhân và họa sỹ Nước Ta. Nhiều trang lụa, tranh màu nước, sơn dầu, sơn mài đề cập đến Phật giáo đã được những họa sỹ, nghệ nhân lên tuổi ở Nước Ta biểu lộ một cách sôi động và tinh xảo qua những tác phẩm như ” chùa Thầy ” của Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1938, ” Lễ Chùa ” của Nguyễn Siêu, ” Bức Tăng ” của Đỗ Quang Em, ” Đi Lễ Chùa ” của Nguyên Khắc Vịnh. Đặc biệt từ thập niên tám mươi trở lại đây, có ” Thiền Quán “, ” Quan Âm Thị Hiện ” ; ” Bích Nhãn “, ” Rừng Thiền ” của họa sỹ Phượng Hồng, ” Hồi Đầu Thị Ngạn ” của Huỳnh Tuần Bá ; ” Nhất Hoa Vạn Pháp ” của Văn Quan … Đến đây, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể Tóm lại rằng những tư tưởng và hình ảnh của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong phong tục tập quán, trong văn học và thẩm mỹ và nghệ thuật của người Nước Ta trong lịch sử dân tộc và nó sẽ liên tục tỏa sáng cái tinh hoa độc lạ của mình cho dân tộc bản địa Việt nói riêng và cả quả đât nói chung trong tương lai.
Phần C
NHẬN ĐỊNH VÀ KẾT LUẬN
Phật giáo từ lâu đã xâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc bản địa Nước Ta và đã trở thành thực chất và truyền thống của dân tộc bản địa Nước Ta. Trong bài xã luận của tạp chí Phật giáo Nước Ta đã viết : ” Trong tâm hồn dân tộc bản địa Nước Ta thật đã sẵn có mầm móng tinh thần Phật giáo. Hèn gì mà Đạo Phật với dân tộc bản địa Nước Ta trong gần hai ngàn năm nay, khi nào cũng theo nhau như bóng với hình trong cuộc hoạt động và sinh hoạt toàn thế giới. Đã là viên đá nền tảng cho văn hóa truyền thống dân tộc bản địa, cố nhiên Phật giáo Nước Ta vĩnh viễn phải là một yếu tố bất ly của đời sống tổng lực. Ngày nay những hào nhoáng của một nền văn minh vật chất đã làm mờ mắt 1 số ít đông người, nhưng cơ bản của nền văn hóa truyền thống dân tộc bản địa đang còn bền chặt, khiến cho người Nước Ta dù có bị hấp dẫn phần nào trong một thời hạn, rồi cũng hồi đầu trở lại với cội nguồn yêu dấu ngàn xưa … “. ( 29 ) Thật vậy, Đạo Phật đã ảnh hưởng đến mọi hoạt động và sinh hoạt của người Việt từ triết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật và thẩm mỹ cho đến phong tục tập quán, nếp sống nếp nghỉ … khám phá và nghiên cứu và điều tra về ” Sự ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống người Việt “, tất cả chúng ta càng thấy rõ đánh giá và nhận định trên. Từ ý niệm nhân sinh quan, thế giới quan, đạo lý, thẩm mỹ và nghệ thuật cho đến lời ăn lời nói của quảng đại quần chúng không ít đều chịu ảnh hưởng của triết lý và tư tưởng Phật giáo. Những câu nói đầu lưỡi ” ở hiền gặp lành “, ” tội nghiệp “, ” hằng hà sa số “, ” ta bà quốc tế ” … là điều thông dụng trong quan hệ ứng xử giữa mọi người, những ngày đại lễ Phật giáo, ngày rằm, mùng một hay lễ tết dân tộc bản địa mọi người dân dù bận rộn đến mấy cũng vài lần trong đời đến viếng cảnh chùa để chiêm bái chư Phật, chung vui tiệc tùng hoặc để thân mật, tìm hiểu và khám phá những di tích lịch sử lịch sử vẻ vang văn hóa truyền thống của dân tộc bản địa, Chùa làng một thời đã đóng vai trò TT trong hoạt động và sinh hoạt văn hóa truyền thống ý thức hội đồng làng xã của người Việt và tất cả chúng ta không hề phủ nhận quan điểm trong quyển ” văn hóa truyền thống Nước Ta tổng hợp 1985 – 1995 ” : ” Nếu không có những hoạt động giải trí Phật giáo lịch đại thì tất cả chúng ta sẽ mất đi hơn nửa số di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh mà lúc bấy giờ ta tự hào ” ( 30 ). Tại sao Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn, tình cảm, trong phong tục tập quán và cảnh sắc của dân tộc bản địa Nước Ta như vậy ? Nhìn lại lịch sử vẻ vang và văn hóa truyền thống dân tộc bản địa, ta thấy rằng ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên Phật giáo đã truyền vào Nước Ta và tư tưởng, triết học Phật giáo có nhiều điểm tương thích với tâm tư nguyện vọng, tình cảm, đạo lý dân tộc bản địa nên đã được người Nước Ta nhanh gọn đảm nhiệm và dung hóa. Người Việt vốn hiền lành, hiếu hòa, hiếu sinh, chân thực, yêu thương đồng loại. Đạo Phật thì dạy con người biết ăn ở hiền lành, thấy rõ lẽ phải trái, bỏ ác làm lành, cải tà quy chánh trau dồi đức hạnh và thăng hoa trí tuệ, vì vậy được quảng đại quần chúng đồng ý. Qua quy trình lịch sử dân tộc, trải qua bao cuộc đổi khác thăng trầm của quốc gia, Phật giáo đã khẳng định chắc chắn mình và có một chỗ đứng vững chãi trong lòng của dân tộc bản địa, sống sót và tăng trưởng cùng với dân tộc bản địa. Rõ ràng Phật giáo đã góp phần cho dân tộc bản địa ta nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế tài chính, chính trị, văn hóa truyền thống và xã hội. Lịch sử đã chứng tỏ những quá trình hiểm nghèo của quốc gia trước họa xâm lăng ; nhiều vị thiền sư Phật giáo, đồng bào Phật tử đã chung lưng đấu cật với dân tộc bản địa, chống giặc, bảo vệ giang sơn, tranh đấu cho công minh và tự do. Gương sáng của thiền sư Khuông Việt thiền sư Vạn Hạnh còn kia, công lao lớn của vua Trần Nhân Tông so với quốc gia và dân tộc bản địa còn đó, tiếng chuôntg thức tỉnh của Hòa thượng Thích Quảng Đức vẫn còn vang vọng đâu đây … Phật giáo đã từng đóng một vai trò trong việc củng cố niềm tin đoàn kết của toàn dân và đấu tranh bảo vệ quốc gia. Khi quốc gia tự do, văn hóa truyền thống và dân tộc bản địa có điều kiện kèm theo tăng trưởng, Phật giáo cũng góp thêm phần không nhỏ làm ra những tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc bản địa. Những mái chùa cong vút thân thiện, duyên dáng, những tượng đài Thích Ca, tượng Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay, những bộ tượng La Han với những đường nét tinh xảo, sôi động dưới con mắt thán phục và cung kính của hành khách quốc tế, những tiệc tùng rộn ràng, những áng văn chương trác tuyệt … mãi mãi là niềm tự hào của người Nước Ta. Tuy nhiên, tất cả chúng ta cần phải nhìn nhận rằng chính niềm tin khai phóng, dung hòa và phương tiện đi lại của Phật giáo việt nam đã bị 1 số ít người tận dụng và cố ý hiểu sai lầm đi, biến Phật giáo, chùa chiền thành một nơi xa lánh, tách biệt với xã hội, cúng kiến mê tín dị đoan và bị kẻ xấu tận dụng để xin xăm, bói quẻ, đốt vàng mã, là những hoạt động và sinh hoạt biến dạng vốn không phải của Đạo Phật. Người viết bài này đã hơn một lần cảm thấy hổ thẹn, khi nghe những nhà nghiên cứu tôn giáo quốc tế đề cập đến nhiều mô hình mê tính dị đoan mà họ đã mục kích được khi đến thăm những chùa ở Nước Ta. Do đó, người viết thiết nghĩ, nhìn nhận về tầm ảnh hưởng về vị trí và vai trò Phật giáo trong nền văn hóa truyền thống và lịch sử vẻ vang dân tộc bản địa cần phải dựa trên ý thức khoa học và khách quan để thấy những mặt thiếu sót, lỗi thời, tệ nạn để hoàn toàn có thể hạn chế, vô hiệu cũng như mặt tích cực, có ích để duy trì và tăng trưởng.
Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình để hòa nhập vào trào lưu phát triển với thế giới, Việt Nam cần phải mở cửa để giao lưư với bạn bè quốc tế ngỏ hầu tiếp thu và học tập những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Điều đó sẽ dẫn đến sự du nhập nhiều luồng văn hóa ngoại lai. Trong đó có cái tốt, có cái xấu, làm sao chúng ta có thể phân biệt và tiếp thu cái tốt và giải trừ cái xấu ? Đây là một câu hỏi lớn cho các nhà giáo dục, đạo đức, xã hội, tôn giáo… và nó đã trở thành một vấn đề của quốc gia chứ không phải chỉ là chuyên cá nhân hay riêng tư nữa. Lời giải đáp rõ ràng nhất là nếu chúng ta có một nền văn hóa lành mạnh; đậm đà bản sắc dân tộc với những tư tưởng truyền thống tốt đẹp sẽ giúp chúng ta nhận định, chắc lọc và cũng là liều thuốc tốt nhất giúp chúng ta chống lại những cặn bã văn hóa ngoại nhập hoặc văn hóa mê tín phát sinh từ bản địa. Những yếu tố tích cực của Phật giáo là một phần tư tưởng văn hóa Việt sẽ cùng với văn hóa dân tộc Việt làm nhiệm vụ chọn lọc và phát triển văn hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc trong thời điểm hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách./.
CHÚ THÍCH:
(1) Gồm các tài liệu lịch sử giá trị hiện nay là :
– Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII (nguyên tác chữ Hán của Trần Văn Giáp, Tuệ Sỹ dịch ra Việt ngữ, Tu thư Viện Đại Học Vạn Hạnh xb Sài Gòn 1967).
– Việt Nam Phật giáo sử lược. Thích Mật Thể, Minh Đức, Đà Nẵng, 1970.
– Việt Nam Phật giáo sử luận. Nguyễn Lang, nhà xuất bản văn học, Hà Nội, 1994.
– Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Tài Thư (chủ biên) nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội 1988.
(2) Sách A Corelated History of the far East của Maria Penkala ghi : “C. 240 Buddist introduced into Ceylon by Mahendra, Son of Asoka, Kingdom of Au Lac, The history of the Black river”.
(3) Lịch sử Bang giao Việt Nam và Đông Nam Á, GS TS Phan Lạc Tuyên, viện đào tạo mở rộng khoa Đông Nam Á Học, Thành Phố Hồ Chí Minh, 1993.
(4) Bài “Phải chăng Đồ Sơn là nơi đầu tiên nước ta tiếp xúc với Đạo Phật” trong sách Phật giáo, văn hóa và dân tộc “trang 12, Hà Nội, 1990.
(5) Thiền tuyển Tập Anh, trang 98. Lê Mạnh Thát, bản Ronéo, 1976.
(6) “Những con đường tơ lụa” tạp chí Unesco số tháng 3 năm 1989. Ferdinad Von Richthojen, một nhà địa lý, địa chất người Đức, gọi những con đường thương mại nối liền Đông Tây ấy là Seidenstrassen. Đó là con đường truyền bá tư tưởng, kỹ thuật, tôn giáo, nghệ thuật và đã góp phần vào sự giao phối giữa các nền văn minh.
(7) Lịch sử Phật giáo thế giới, tập II, Tịnh Hải pháp sư, nhà xuất bản Đại Học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1992.
(8) Phật giáo với dân tộc, trang 2, Thích Thanh Từ, thành hội Phật giáo TP. HCM xuất bản, 1992.
(9) Theo Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, trang 483, tiến sĩ Trần Ngọc Thêm, NXB TP. HCM 1996.
(10) Tiền thân chùa Một Cột (Hà Nội) sau này, chùa Diên Hựu xây năm 1049 với quy mô rất to lớn.
(11) Theo tài liệu mới nhất là sách Nam Hà Di tích và thắng cảnh (Sở VHTT Nam Hà, 1994).
(12) Văn phòng II được dời về thiền viện Quảng (số 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3, TP. HCM) từ đầu năm 1993.
(13) Hội nghị tổ chức tại Thiền viện Quảng Đức, TP. Hồ Chí Minh, từ ngày 13 – 16 / 01/ 1994.
(14) Con số có thể cao hơn vì việc thống kê chưa hoàn tất.
(15) Theo Bách Gia Chư Tử, NXB TP. HCM, 1992.
(16) Có các vị như Võ Tắc Thiên, Lương Võ Đế
(17) Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điển.
(18) Sự tích Man Nương kể rằng : “Khi đẽo tới cây, chỗ ngày xưa sư khâu Đà La giấu người con gái, thì chỗ ấy đã hóa thành một phiến đá rất cứng. Búa rìu của thợ đẽo vào bị sứt mẻ hết. Mới lấy phiến lá ném xuống nước, phiến đá ấy phóng ra hào quang… mọi người thấy vậy liền vớt phiến đá lên và rước vào điện Phật mà thờ”. Theo lịch sử Phật giáo Việt Nam, Hà Nội, 1988, trang 49.
(19) Xem bài “Đạo Phật Việt Nam qua cái nhìn của hai Phật tử Đan Mạch”. Thích Nguyên Tạng phỏng vấn ông Ole Felsby và bác sĩ Pia Jeppesen, Báo Giác Ngộ, số 2, tháng 5, 1996. Trang 67 – 96.
(20) Gồm có Thiền sư Thích Minh Châu, TS Thích Thiện Siêu, TS Kim Cương Tử và TS Thích Danh Nhưỡng là Đại biểu Quốc hội của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam khóa VIII & IX.
(21) Theo Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989 – 1995 – NXB văn hóa văn nghệ Trung ương, Hà Nội 1989.
(22) Ngọc Sơn, là đền, nhưng dân gian cũng có khi gọi là chùa, vả chăng trong ý niệm của người Việt Nam, nhiều khi đền và chùa vừa là hai vừa là một.
(23) Theo Từ Điển văn học tập I, trang 167, NXB KHXH, Hà Nội 1983.
(24) J. Leiba (1912 – 1941), ông sinh ra tại Yên Bái nên cha mẹ đã đặt tên cho ông là Lê Văn Bái, khi lấy bút hiệu ông đã xếp lại các thứ tự chữ trong tên thành Leiba và đã thêm chữ J ở đầu. Gọi J. Leiba, chúng ta thấy cái tên chẳng Việt Nam chút nào nhưng thơ của ông mang lại nhiều màu sắc cổ điển của Việt Nam.
(25) “Các tỉnh miền Nam”, trang 117 Sơn Nam, NXb Đông Phố, Sài Gòn, 1974.
(26) Mỹ thuật thời nay, NXB Mỹ thuật, Hà Nội 1989.
(27) Theo “Ngôi chùa và văn hóa làng xã Việt Nam”, luận văn cao học ngữ văn, của Võ Văn Tường trường đại học tổng hợp TP. HCM, 1994 trang 60.
(28) Hiện được tôn trí tại viện Bảo tàng Mỹ thuật, Hà Nội, tượng được dựng từ thế kỷ thứ 16, cao 2,90m.
(29) Tạp chí Phật giáoViệt Nam, quan điểm của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, số ra ngày 15/8/1956.
(30) Văn hóa Việt Nam tổng hợp… 1989 – 1995 – NXB văn hóa văn nghệ Trung ương, Hà Nội 1989.
————————-
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHUYÊN ĐỀ :
1. ĐÀO DUY ANH, (1992), Việt Nam văn hóa sử cương. NXB TP. HCM.
2. TOAN ÁNH, (1969), Nếp cũ-tín ngưỡng Việt Nam, NXB Hoa Đăng, Sài Gòn,.
3. MINH CHI, (1994), Tôn giáo học và tôn giáo vùng Đông Á, trường Đại học tổng hợp, TPHCM XB,.
4. MINH CHI, (1995), Các vấn đề Phật học, Viện Nghiên Cứu Phật Học VN, XB.
5. MINH CHI, (tháng 12/1995), Về sự hội nhập của Phật giáo vào nên văn hóa VN, tạp chí Giao Điểm, Hoa Kỳ,.
6. MINH CHI, (tháng 1/1995), Vai trò của tôn giáo trong sách lược phát triển của đất nước, tập văn thành đạo số 39, ban văn hóa Trung ương XB,.
7. MINH CHÂU VÀ MINH CHI, (1991), Từ điển Phật Học Việt Nam, NXB TP. HCM khoa học xã hội, Hà Nội,.
8. NGUYỄN HIỀN ĐỨC, (1995), Lịch sử Phật giáo đàng trong, NXB TP. HCM,.
9. THÍCH MÃN GIÁC, (1997), Phật học, thiền học và thi ca… Tu thư đại học Vạn Hạnh,.
10. TRẦN VĂN GIÁP, (1968), Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ thứ 13 (tiếng Pháp) Tuệ Sỹ dịch, Vạn Hạnh XB,.
11. NGUYỄN LANG, (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập I, II và III, NXB Hà Nội,.
12. NGUYỄN BÁ LĂNG, (1972), Kiến trúc Phật giáo VN, tập I, Vạn Hạnh XB,.
13. TRẦN HỒNG LIÊN, (1996), Phật giáo Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến 1975, NXB TP. HCM,.
14. THÍCH NHẤT HẠNH, (1965), Đạo Phật Hiện Đại hóa, lá bối XB, Sài Gòn,.
15. THÍCH THIỆN HOA, (1970), 50 năm chấn hưng Phật giáo, tập I, Viện Hóa Đạo XB, Sài Gòn,.
16. THÍCH ĐỨC NHUẬN, (1969), Phật học tinh hoa, một tổng hợp đạo lý, Vạn Hạnh XB, Sài Gòn,.
17. THÍCH ĐỨC NHUẬN, (1969), Trao cho thời đại một nội dung Phật chất, Vạn Hạnh XB, Sài Gòn,.
18. NGUYỄN PHAN QUANG, (1993), Chùa Việt Nam qua ca dao, bản vi tính trong kỷ yếu “Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại”, Viện nghiên cứu Phật học VN, TP. HCM,.
19. LÊ VĂN SIÊU, (1964), Văn minh Việt Nam, Nam chi tùng thư Sài Gòn,.
20. THÍCH NGUYÊN TẠNG, (tháng 5/1996), Đạo Phật Việt Nam qua cái nhìn của hai Phật tử Đan Mạch, Nguyệt San Giác Ngộ, số 2, TP. HCM.
21. NGUYỄN TÀI THƯ, (chủ biên), (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội,.
22. THÍCH MẬT THỂ, (1960), Việt Nam Phật giáo sử lược, Minh Đức XB, Sài Gòn.
23. TRẦN NGỌC THÊM, (1996), Tìm về bản sắc dân tộc VN, NXB TP. HCM,.
24. THÍCH TÂM THIỆN, (1995 ), Tư tưởng Mỹ học Phật giáo, Thành hội Phật giáo TP. HCM xb,.
25. NGUYỄN ĐĂNG THỤC, (1992), Lịch sử tư tưởng VN, Tập I, NXB TP. HCM,.
26. DƯƠNG KINH THÀNH (Giác Đạo), (tháng 01/1995), Bàn về nghệ thuật sân khấu Phật giáo (cải lương), Tập văn Thành Đạo, số 31, TP. HCM.
27. THÍCH THANH TỪ, (1992), Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ 20, Thành hội Phật giáo TP. HCM xb,.
28. THÍCH THANH TỪ, (1992), Bước đầu học Phật, Thành hội Phật giáo TP. HCM xb,.
29. THÍCH THANH TỪ, (1991), Bước đầu học Phật, Thành hội Phật giáo TP. HCM xb,.
30. LÊ MẠNH THÁT, (1982), Nghiên cứu về Mâu Tử, Tập I, Tu thư Đại học Vạn Hạnh,.
31. THÍCH MINH TUỆ, (1993.), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật giáo TP. HCM xb,
32. VÕ VĂN TƯỜNG, (1992), Việt Nam Danh Lam cổ tử, NXB KHXH, Hà Hội,.
33. VÕ VĂN TƯỜNG, (1995), Những ngôi chùa nổi tiếng VN, NXB Thông tin, Hà Nội,.
34. VŨ TAM LANG, (1991), Kiến trúc cổ Việt Nam, NXB KHXH, Hà Hội,.
35. PHAN LẠC TUYÊN, (1993), Lịch sử bang giáo VN và Đông Nam Á, Bộ giáo dục đào tạo TP. HCM xb,.
B. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHUNG :
36. TỪ ĐIỂN VĂN HỌC, Tập I và II, NXB KHXH, Hà Nội 1983-1984.
37. ALAMANACH NHỮNG NỀN VĂN MINH THẾ GIỚI, NXB Văn hóa Thông tin, HN, 1996.
38. TẠP CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM, (từ năm 195 đến năm 1996).
39. TẠP CHÍ VĂN HÓA Á CHÂU, (từ năm 1958 đến năm 1966).
40. TẠP CHÍ VẠN HẠNH (từ năm 1965 đến năm 1966).
41. TẠP CHÍ TỪ QUANG (từ năm 1967 đến năm 1973).
42. TẠP CHÍ HOẰNG PHÁP (từ năm1973 đến năm 1975).
43. TẬP VĂN PHẬT GIÁO (từ năm 1989 đến năm 1975).
44. TẠP CHÍ NGUỒN SÁNG (từ năm 1995 đến năm 1996).
45. TẠP CHÍ VĂN (từ năm 1988 đến năm 1996).
46. TẠP CHÍ UNESCO (từ năm 1988 đến năm 1996).
47. BÁO GIÁC NGỘ (từ năm 1980 đến năm 1996).
48. BÁO TUỔI TRẺ CHỦ NHẬT (từ năm 1988 đến năm 1996).
49. MỸ THUẬT THỜI NAY (từ năm 1988 đến năm 1992).
50. KIẾN THỨC NGÀY NAY (từ năm 1988 đến năm1996).
(Tu Viện Quảng Đức)
Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh