Thích Phổ Tuệ – Wikipedia tiếng Việt

Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (12 tháng 4 năm 1917 — 21 tháng 10 năm 2021) là một tu sĩ Phật giáo người Việt Nam. Hoà thượng là Đệ tam Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ngài là bậc tùng lâm thạch trụ của Phật giáo Việt Nam, là bậc cao tăng có nhiều đóng góp cho Giáo hội.

Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, thế danh là Bùi Văn Chước ( tức Bùi Văn Quý ), sinh ngày 12 tháng 4 năm 1917 tại thôn 5, xã Phùng Thiện, tổng Bồng Hải, nay là thôn Phùng Thiện, xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Tỉnh Ninh Bình. Thân phụ là cụ ông Bùi Quang Oánh, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thinh, song thân của Hoà thượng đều là những Phật tử thuần thành. Hoà thượng sinh trưởng trong mái ấm gia đình có 3 bạn bè, là người con thứ 2 trong mái ấm gia đình. [ 1 ]

Hành trạng Đức Pháp chủ[sửa|sửa mã nguồn]

Xuất gia tu học[sửa|sửa mã nguồn]

Vốn được sinh ra trong mái ấm gia đình có truyền thống lịch sử thâm tín Phật Pháp, vì vậy hạt giống Bồ đề của Ngài sớm nảy nở, năm lên 7 tuổi ( 1923 ) Ngài được song thân cho đến xuất gia với Sư cụ Thích Đàm Cơ, trụ trì chùa Phúc Long ( chùa Quán ), thôn Phú An, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tính Tỉnh Ninh Bình và được Sư cụ cho theo học chữ Nho với cụ đồ Lê Hiệng .

Năm 13 tuổi (1929) Đại lão Hòa thượng được Sư cụ cho đến làm đệ tử Sư tổ Thích Nguyên An,trụ trì chốn tổ Vọng, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Trải qua thời gian tu học, đến năm 16 tuổi (1932) Ngài được Sư tổ cho thụ giới Sa Di tại Giới đàn hạ trường chùa Đống Cao, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

Năm 18 tuổi ( 1934 ) Đại lão Hòa thượng lên tham học và y chỉ vào Sư tổ Thích Quảng Tốn, trụ trì Tổ đình Viên Minh, thôn Khai Thái, xã Tầm Khê, huyện Phú Xuyên, tỉnh HĐ Hà Đông ( nay là xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Thành phố Thành Phố Hà Nội ) .Khi vừa tròn 20 tuổi ( 1936 ), Ngài được thụ Cụ Túc giới và Bồ Tát giới tại Đại giới đàn chùa Bút Tháp, huyện Thuận Thành, tỉnh TP Bắc Ninh do Sư tổ Thích Quảng Tốn làm Đàn đầu Hòa thượng. Khi được truyền giới Bồ tát, Ngài được Hoà thượng Thích Doãn Hài ( Tổ Tế Xuyên ) đặt cho pháp danh Phổ Tuệ .Bên cạnh đó ngài còn có pháp danh là Tục Tuệ do phả hệ chùa Viên Minh nằm trong Kệ phái truyền thừa Thiền tông Lâm Tế Đàng Ngoài của Thiền sư Trí Bản Đột Không truyền

智 慧 清 浄 Trí Huệ Thanh Tịnh

道 德 圓 明 Đạo Đức Viên Minh

真 如 性 海 Chân Như Tánh Hải

寂 照 普 通 Tịch Chiếu Phổ Thông

心 源 廣 Tâm Nguyên Quảng Tục….

Sau khi giới pháp vừa đủ, Ngài khởi đầu hành trình dài tham phương cầu đạo, Ngài đi tham học ở hầu hết những Sơn môn, Tổ đình lớn thời bấy giờ như Sơn môn Tế Xuyên, Sơn môn Hương Tích, Tổ đình Vĩnh Nghiêm …Từ năm 1950 – 1953, Ngài sang học tại chùa Quán Sứ với Hoà thượng Tố Liên, chư tôn đức đồng học với Hoà thượng có HT Thích Trí Tịnh ( Tổ Linh Phong ), HT Thích Thanh Kiểm, HT Thích Thanh Huấn … Ngài là một trong 8 học trò xuất sắc của Hoà thượng Tố Liên và được Hoà thượng gửi ra quốc tế học tập và tu tập .Ban đầu Ngài cũng có dự tính đi học nhưng lại nghĩ tới sư phụ HT Quảng Tốn tuổi cao sức yếu, nặng lòng với thầy tổ nên Ngài đã chọn giải pháp ở lại để hầu thầy, thừa kế chốn tổ Viên Minh chọn nơi thôn dã để ẩn cư tu hành .

Hoạt động Phật sự[sửa|sửa mã nguồn]

Từ năm 1952, triển khai chủ trương toàn nước kháng chiến của Hồ quản trị, Ngài vân du hành đạo tại chùa Linh Ứng, thôn Kim Đới I, xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy, Thành phố Hải Phòng Đất Cảng, đến năm 1957 Ngài lại trở lại hầu thầy phụng Phật tại Tổ đình Viên Minh, xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Thành phố TP.HN .Năm 1961 Sư tổ Thích Quảng Tốn, Trụ trì đời thứ hai Tổ đình Viên Minh viên tịch, Ngài kế đăng làm trụ trì đời thứ ba Tổ đình Viên Minh và làm Trưởng Sơn môn Đa Bảo từ đó cho đến nay .

Từ năm 1958 – 1987, Hoà thượng ẩn tu nơi thôn dã, nghiên cứu phiên dịch kinh điển, sản xuất nông nghiệp và mở mở lớp học cho Tăng ni lân cận đến học Phật pháp tại chùa Viên Minh. Việc dậy học của Ngài thời kỳ này vẫn theo hình thức gia giáo. Học trò của Ngài thời đó có TT. Thích Tiến Đạt, TT Tiến Thông, TT Đức Thường, TT Nguyên Dụng ở Hà Tây, ở Hưng Yên có Thầy Thanh Hiền, sư cô Đàm Mơ… Hà Nam có sư Thanh Minh, Thanh Huy. Khi các lớp Phật học mở ra, các quý thầy lần học xong rời đi thì lại có lớp tăng ni sinh mới đến. Mọi người đến đây học không chỉ học kiến thức Phật học mà muốn trải nghiệm đời sống tu hành bên một bậc cao tăng ẩn mình nơi thôn dã.

Năm 1987, chư tôn Hoà thượng lãnh đạo Phật giáo phía Nam vô tình đọc được cuốn ” Dư Âm Bát Nhã ” do Ngài biên soạn và giật mình nhận ra được sự uyên bác phật pháp nơi Ngài bởi kinh Bát Nhã vốn là một bộ kinh rất là khó để hoàn toàn có thể đồng cảm. Lúc này, chư tôn Hoà thượng phía Nam đã trình làng cuốn sách lên hoà thượng Thích Tâm Tịch và chư tôn đức lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Nước Ta điều tra và nghiên cứu và cũng là để khám phá về tác giả cuốn sách .Ngay sau đó, Đức Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Nước Ta cử ba vị cao tăng là cố Hòa thượng Thích Kim Cương Tử, cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu và Cố Hòa thượng Thích Tâm Thông về Tổ đình Viên Minh mời Ngài lên Thành Phố Hà Nội chủ trì hiệu đính Đại tạng kinh Nước Ta và tham gia những hoạt động giải trí Phật sự của Giáo hội .Đầu tháng 4 âm lịch năm 1993, Hòa thượng Thích Thanh Viên ( Tổ đình Võ Lăng ) – trưởng ban trị sự Phật giáo Tỉnh Hà Tây lúc bấy giờ đến chùa Ráng thỉnh Ngài nhất định phải nhận chức trưởng ban. Tuy nhiên Ngài phủ nhận không nhận. HT Võ Lăng phải ở đó ăn cơm và trình diễn nguyên do đang bệnh nặng, khó trụ được lâu, vì đại cục, thỉnh Hoà thượng nhận lời. Sau khi thuyết phục được, Hòa thượng Võ Lăng đến chùa Trấn Quốc gặp HT Kim Cương Tử xin công văn của Trung ương Giáo hội Phật giáo cử Ngài làm trưởng ban. Cụ Võ Lăng cầm công văn trải qua hội nghị thường trực của tỉnh Hà Tây. Một tuần sau, Cụ Võ Lăng viên tịch, vậy là Ngài làm trưởng ban trị sự Phật giáo Tỉnh Hà Tây từ ngày 16/4 năm 1993. Dẫu không muốn mà Ngài vẫn phải làm .Từ đó Ngài đã đảm nhiệm nhiều chức vụ trong những cấp Giáo hội :

  • Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hà Tây (1993 – 2008)
  • Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học Hà Tây (1993 – 2008).
  • Ủy viên Kiêm soát Hội đông Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. (1992 – 1997)
  • Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự GHPGVN (1997 – 2007)
  • Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội (2003 – 2007).
  • Tổng Biên tập tạp chí Nghiên cứu Phật học (2003 – 2007)
  • Phó Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương GHPGVN.
  • Phó ban Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN (1997 – 2007).
  • Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2002 – 2007).
  • Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2007-2021).

Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ VI ( 2007 ), Ngài được Đại hội suy tôn ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Nước Ta, trở thành Pháp chủ thứ ba của Giáo hội Phật giáo Nước Ta. Từ đó đến nay trải qua những nhiệm kỳ Đại hội Phật giáo toàn nước lần thứ VII ( 2012 ), VIII ( 2017 ) Ngài luôn luôn được Đại hội suy tôn ngôi vị Thiền gia Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Nước Ta cho đến ngày viên tịch .Đồng thời Ngài cũng nhiều năm liền giữ ngôi vị Đường chủ của những trường hạ tại Thành Phố Hà Nội, Hưng Yên … cũng như ngôi Đàn đầu Hòa thượng trong rất nhiều Đại Giới Đàn tại những tỉnh, thành phố phía Bắc .Bên cạnh việc đảm nhiệm những chức vụ Giáo hội, Ngài cũng tích cực tham gia tổ chức triển khai xã hội như : ủy viên ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Hà Tây ; ủy viên ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ( nhiều khoá ) .

Do niên cao, lạp trưởng, Đại lão Hòa thượng đã thu thần viên tịch vào lúc 03h22 phút, ngày 21 tháng 10 năm 2021 tức ngày 16 tháng 9 năm Tân Sửu, tại Tổ đình Viên Minh (chùa Ráng), xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Trụ thế 105 năm, Hạ lạp 85 năm.[2]

Lúc sinh tiền, ngài đã khẩu dụ: “Sau khi tôi theo hầu Phật Tổ thì không được tổ chức tang lễ linh đình, nghi lễ hết sức giản đơn, ngắn ngày theo truyền thống đạo Phật và tổ chức tại chùa Viên Minh. Đề nghị không vòng hoa phúng điếu, không tiểu sử dài dòng, không tiêu tốn thời gian và tổn hại công đức của Tăng Ni và Phật tử. Nếu quý vị tưởng nhớ tới tôi thì niệm danh hiệu Phật và tụng thời kinh tại trụ xứ của mình hồi hướng công đức cho thế giới hoà bình, nhân sinh an lạc”.

Sau khi ngài viên tịch, những ngày tuần lâm chung thất được tổ chức triển khai tại nhiều nơi, đơn cử là tại Tổ đình Viên Minh ( chùa Ráng ) ( nhất tuần, nhị tuần, tam tuần, tứ tuần, thất tuần ), chùa Quán Sứ ( ngũ tuần ) và tổ đình Vĩnh Nghiêm – TP TP HCM ( lục tuần )

Tác phẩm dịch thuật và trước tác[sửa|sửa mã nguồn]

Ngài là bậc cao Tăng thông tuệ am hiểu Tam tạng Thánh giáo, đặc biệt quan trọng Ngài tinh thông kim cổ và là người có những góp phần không nhỏ trong việc biên soạn, dịch thuật và trước tác những tác phẩm về Phật học ở Nước Ta như :

  • Đại Từ điển Phật học
  • Dư Âm Bát Nhã
  • Đề cương kinh Pháp Hoa
  • Kinh Bách Dụ
  • Phật Tổ tam kinh
  • Phật học là tuệ học
  • Kinh Di-đà Viên Trung sao.
  • Bát-nhã Dư âm
  • Luật Tỷ-khiêu-ni lược ký.

Ngoài những tác phẩm biên soạn, dịch thuật và trước tác về Phật học nêu trên, Ngài cũng sáng tác 1 số ít bài thơ Đường luật, theo thể thất ngôn bát cú để sách tiến hàng hậu học như : Mừng khai giảng khóa II, Trường Trung cấp Phật học Hà Tây ; Cỗ tết nhà Chùa và Cảnh chùa Viên Minh .

Chùa to, cảnh lớn, giảng đường đẹp, phòng ốc sang dù sao cũng chỉ là phương tiện. Linh hồn của nó là thầy và trò trong quan hệ tu tập và hành trì.
— Thích Phổ Tuệ, [3]
[…] Sống ở trên đời này được bao nhiêu năm, theo tôi, không phải là thước đo giá trị của đời người. Con rùa nó sống hàng ngàn năm thì đã sao? Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo, ngài Trần Nhân Tông chỉ ở đời có 51 năm, Ngài Pháp Loa có 47 năm mà công nghiệm thì bất khả tư nghì. Tôi trụ thế đến nay đã 91 năm, ở chùa 85 năm, thụ Đại giới được 71 năm, nghiệp là tu hành, nuôi thân thể chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, khi nào chư Phật, chư Tổ cho gọi thì về thôi […]
— Thích Phổ Tuệ, [3]

” Muốn sống lâu trước hết phải thật sạch từ thân đến tâm … Về ý thức, cần tu tâm dưỡng tính, tiết chế mọi ham muốn dục vọng, sống trong niềm tin lục hòa thì sẽ tăng được tuổi thọ. Nhưng dù sao, cũng không hề loại trừ được vô thường của sinh lão bệnh tử, vì đó là quy luật của mọi kiếp nhân sinh. ” [ 4 ]

“Suốt đời tôi chỉ mong được niệm Phật, cầu kinh, không mong cầu danh lợi… Xin các vị đừng gọi tôi là Pháp chủ mà hãy cứ nhìn tôi như một lão tăng thanh bần sống trong ngôi chùa làng là tôi mãn nguyện.”[4]

” Sư là khuôn mẫu, mô phạm của loài người, chí ít là trong một hội đồng người. Nếu không có đạo hạnh, không có trí tuệ thì lấy gì mà dạy người ? Lấy gì làm gương tốt để mọi người noi theo ? ” [ 5 ]

Tôi không ngờ chư vị lại giữ lời đã hứa khả với chúng tôi như vậy! Đã tổ chức lễ đón rước quá lớn. Ngoài sự tưởng tượng của chúng tôi. Chúng tôi đã làm được những gì trong cuộc đời tu hành của mình mà dám nhận cái phúc lớn đó? Phúc là phải do tu mà có. Phúc thì nên tích mà không nên tán. Phúc không tích thêm mà cứ lạm hưởng thì rồi cũng hết. Khi đó phúc trở thành họa. Nay được hưởng như thế này là cái họa cho chúng tôi. Chúng tôi cần làm gì đây để báo đáp sự cung ngưỡng lớn lao như thế này của đại chúng?
— Thích Phổ Tuệ, Phát biểu tại Đại lễ cung nghinh Đức đệ tam Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thích Phổ Tuệ tại Hà Tây

“ Chùa to cảnh lớn dù sao cũng chỉ là phương tiện đi lại, nên không quan trọng trong việc quyết định hành động thành tựu của người tu. Tôi cũng được người ta mời trụ trì một vài ngôi chùa lớn, hoặc những ngôi chùa ở trong nội thành của thành phố TP.HN với lời khuyên rằng : Hòa thượng già rồi, nên ở những ngôi chùa trong thành phố, gần những bệnh viện lớn để tiện theo dõi, chăm nom sức khỏe thể chất. Nhưng tôi khước từ hết ” .

  • Huân chương Hồ Chí Minh tháng 1/2012[6]
  • Huân chương Độc lập hạng nhì
  • Huân chương đại đoàn kết dân tộc
  • Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ
  • Bằng tuyên dương công đức của Giáo hội.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp