Ý nghĩa Phật xuất gia, thành đạo

0 : 00 / 0 : 00

0 : 00

  • Nam miền Nam

  • Nữ miền Nam

  • Nữ miền Bắc

  • Nam miền Bắc

GNO – Ý nghĩa xuất gia, thành đạo và thuyết pháp giáo hóa của Đức Phật là ba vấn đề chính mà quý thầy cô cần suy nghĩ để khéo vận dụng những lời dạy trong kinh điển Nguyên thủy và Đại thừa.

Quảng cáo Về ý nghĩa xuất gia của Đức Phật xin được nhắc sơ lại, những tầm cỡ đều nói rằng khi còn là thái tử, Phật đã quan sát cuộc sống là biển khổ, nên Ngài có ý niệm cứu khổ chúng sanh. Bằng mọi cách, Ngài đã cố gắng nỗ lực tối đa để giúp mọi người thoát khổ, nhưng cũng không có hiệu quả. Vì vậy, thái tử xuất gia, tầm sư học đạo, vì triết lý đã học rồi, nên muốn tìm thực ra của người tu khổ hạnh. Ngày nay, tất cả chúng ta học triết lý ở trường học, nhưng quá trình hai, thực hành thực tế điều đã học bằng cách tất cả chúng ta phải sống chung với người đã thực hành thực tế.

Ý nghĩa Phật xuất gia, thành đạo ảnh 1

Hiểu biết triết lý là những nhà nghiên cứu, học giả, giáo sư đã có công điều tra và nghiên cứu. Bắt đầu học, tôi cũng học kim chỉ nan và tôn trọng những nhà nghiên cứu là bậc thầy ; nhưng xuất gia, tôi không bằng lòng với thực tiễn, vì nhận thấy có người không học vẫn được quần chúng kính trọng. Kính trọng cái gì. Thực tế tất cả chúng ta thấy có vị không học, nhưng thực tập pháp Phật đạt được hiệu quả tạo thành sức sống tâm linh, tự nhiên được mọi người kính trọng. Chúng ta kính trọng những học giả và những nhà khoa bảng, vì họ có trình độ tri thức, nhưng tất cả chúng ta kính trọng sự tu hành của nhà tu. Học đạo là học với nhà tu. Trước tiên, Thái tử Sĩ Đạt Ta học kim chỉ nan ở hoàng cung, nhưng sau Ngài học với những nhà tu thực hành pháp có tác dụng thực sự. Điều này kinh Nguyên thủy diễn đạt khác kinh Đại thừa, vì pháp môn tu khác nhau, nên sở đắc, sở chứng cũng khác. Kinh Nguyên thủy nói thái tử tìm những nhà tu khổ hạnh, thân cận và thực tập theo, trong đó nổi tiếng là ông Kamala và Uất Đầu Lam Phất được Phật nhắc tới nhiều nhất. Nói chung, Ngài đã tìm đến toàn bộ nhà tu đương thời và học hết. Về điểm này, theo nghiên cứu và điều tra nói rằng Ngài học văn minh của trái đất, thời nay gọi là khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Đó là sự văn minh của loài người theo từng quá trình tăng trưởng khác nhau, mà những loài khác không hề làm được. Vì vậy, Phật xác lập trong tứ sanh lục đạo, chỉ loài người có văn minh, có văn minh và hoàn toàn có thể làm Thánh Hiền, Tiên, Phật, còn những loài khác không có năng lực tốt đẹp này. Về kỹ năng và kiến thức của con người, triết học sinh ra khi con người tâm lý và kiểm chứng trong thực hành thực tế đời sống mới phát hiện những điều mới. Vì vậy, văn minh của loài người phát xuất từ tâm lý, kiểm chứng mà tất cả chúng ta gọi là khoa học tự nhiên. Nhưng vì không ý tưởng được, không kiểm chứng được khiến con người trở thành phụ thuộc vạn vật thiên nhiên, mới đi lệch hướng, trở thành tà kiến, biên kiến, ví dụ điển hình như người ta tưởng tượng ra thần sấm, thần sét, thần cây, thần sông, thần núi … rồi sinh ra sợ hãi, khuất phục trước thần linh. Từ khởi xuất này, tôn giáo phát sinh là đa thần giáo thì đó cũng là văn minh con người. Như vậy, tôn giáo có trước, nhưng vì không hiểu biết, nên tưởng tượng ra đủ loại thần linh chi phối đời sống con người. Đức Phật học đạo cũng tìm những nhà tôn sùng thần linh, nhưng Ngài không bằng lòng nhận thức của họ, mới thực tập phương cách của riêng Ngài để không chịu ràng buộc thần linh. Tuy nhiên, ngày này, bước theo dấu chân Phật, nếu không khéo, tất cả chúng ta lại đi vào vết xe đổ của tôn giáo đa thần, sống chịu ràng buộc thần linh.

Ý nghĩa Phật xuất gia, thành đạo ảnh 2

Mang tư tưởng không phụ thuộc thần linh, thái tử đã gặp được hai nhà hiền triết Kamala và Uất Đầu Lam Phất cũng tự thoát ly sự chi phối của thần linh, vì hai ông này đạt được Ly sanh hỷ lạc, Định sanh hỷ lạc, Ly hỷ diệu lạc và Xả niệm thanh tịnh. Đó là hiệu quả của đời sống tâm linh khả dĩ thái tử đồng ý được, vì tối thiểu họ không phụ thuộc xã hội và không phụ thuộc vạn vật thiên nhiên. Về sau, lý này được lan rộng ra gọi là kiến hoặc và tư hoặc của con người. Chi phối của tình cảm, của xã hội là tư hoặc, gần nhất là tánh tham lam, ghét ganh, thù hận, say đắm … Con người bị kiến hoặc áp đảo, quay quắt trong cuộc sống đời này và khiến họ trôi lăn trong dòng sinh tử không ngừng. Nỗ lực thoát ly sự tác động ảnh hưởng mãnh liệt của kiến hoặc là biểu lộ ý nghĩa xuất gia. Còn người đời thì luôn bị kẹt quyền hạn, danh vọng, vị thế, của cải, thương ghét, oán hận, khổ đau … Chúng ta đi tu không bị xã hội, không bị tình cảm chi phối, nhưng còn bị vạn vật thiên nhiên chi phối là còn phụ thuộc đói khát, nóng lạnh. Vậy tìm hiểu và khám phá xem tại sao tất cả chúng ta có đói khát, nóng, lạnh. Dễ dàng nhận ra rằng vì tất cả chúng ta có thân tứ đại ngũ uẩn mới có cảm xúc đói khát, nóng lạnh. Chúng ta tu, thực tập pháp Phật để thoát ly sự chi phối này và nhận thấy Phật trọn vẹn tự tại, sống ngoài sự chi phối của vạn vật thiên nhiên.

Ông Kamala dạy thái tử thoát ly sự chi phối của đói khát nóng lạnh bằng cách đừng nghĩ tới cuộc sống. Vì tư duy đến cuộc sống thì sẽ bị lệ thuộc cuộc sống. Tôi thực tập cách này, đứng một mình trong đêm tối, hay nhập thiền, quên mình có thân tứ đại, quên cả đói khát.

Pháp tu này mà ông Kamala thực tập có tác dụng, nên nói cho thái tử thì thái tử nhận được liền, hai tư tưởng gặp nhau là ngộ. Điều này dễ hiểu, thí dụ tôi tập trung chuyên sâu tư tưởng, quên đói khát, thì thầy cô nào từng làm như vậy, nên nghe tôi san sẻ ý này là hiểu ngay. Đọc lịch sử dân tộc thiền, tất cả chúng ta thấy vị thiền sư nói, vị khác trực nhận thuận tiện, gọi là khai ngộ ; nhưng người không có tâm trạng đó, không có tâm lý đó, không thể nào khai ngộ được. Nói cách khác, cùng một tần số sẽ thuận tiện tiếp thị quảng cáo sở đắc cho nhau. Hòa thượng Thanh Kiểm kể khi học ở Nhật, lúc đó nước Nhật bại trận, nên đời sống còn đói nghèo. Lúc nào cũng đói, thèm ăn, thậm chí còn khoai lang cũng thèm. Cứ nghĩ đến đói thì càng đói càng muốn ăn đến không chịu được. Hòa thượng mới uống nước lã, lên thiền sàng tĩnh tâm, quên đói. Tôi đã thực tập pháp này, nên nhận ra ý ngài liền. Tôi phát hiện ba thứ đói. Một là tất cả chúng ta đói con mắt, hai là đói cái bụng và ba là đói cái tâm, là nghiệp. Phật muốn giúp tất cả chúng ta phá bỏ cái tâm ham muốn thèm ăn vì nó quan trọng hơn. Nghĩa là Phật đồng ý cho đói cái bụng thôi, không được đói con mắt, đói cái tâm. Kinh nghiệm người trước dạy rằng những loài dã thú nhịn ăn cũng sống được, trong khi tất cả chúng ta là người hơn loài vật, sao không nhịn ăn được. Rùa nhịn ăn một năm không chết. Con gấu tuyết nhịn ăn sáu tháng không sao. Con ốc sên nhịn cả mùa nắng không ăn. Rùa sống nhờ thở. Người tập tu theo rùa là tập thở. Thuở nhỏ, thầy dạy tôi giữ hơi thở nhu nhuyến đến mức dán miếng giấy lên đầu mũi mà hơi thở không làm miếng giấy phập phồng. Tôi thực tập, nhịn thở được một phút. Tập thiền, thứ nhất tập điều tức là điều hòa hơi thở sao cho nhẹ và lê dài. Và điều tức rồi, tất cả chúng ta phát hiện thêm việc siêu thị nhà hàng có liên hệ quan trọng đến khung hình. Ngài Thiên Thai nhắc tất cả chúng ta không ăn quá nhiều, không ăn quá ít, không ăn khi vào thiền và không ăn thức ăn không thích hợp với mình. Ông Kamala, Sa-môn Cù Đàm và Trí Giả đã thực hành pháp nhà hàng siêu thị lợi lạc cho đời tu. Chúng ta học những người trước để vận dụng cho mình không bệnh hoạn, không trở ngại việc tu.

Ý nghĩa Phật xuất gia, thành đạo ảnh 3

Đức Phật đã từng thực tập pháp tu khổ hạnh, không ăn đến mức da bụng dính với xương sống khiến Ngài cảm thấy đau nhức, vì tế bào bị bỏ đói, hành hạ làm thân đau nhức. Trong sử ghi trước khi Niết-bàn, Phật phải xả Báo thân, tức sống với tư duy, tâm tưởng để không bị tác động ảnh hưởng của thân. Thực tế khi tất cả chúng ta chỉ bị đau bụng, nhức răng, đau khớp … mà còn cảm thấy không dễ chịu, nhưng đó là những cái đau li ti không đáng kể so với đau đớn khi lìa xác thân. Vì chưa chết nên tất cả chúng ta không biết sự đau đớn trước khi chết như thế nào, nhưng kinh diễn đạt rằng thân người phải chịu sự hành hạ đau nhức body toàn thân một cách kinh điển, không tưởng tượng nổi. Vì vậy, có người trước khi chết, thân đau đớn quá sức làm tâm họ giao động kinh hoàng dẫn họ đọa lạc vào đường ác. Phật bảo cho thân nhà hàng siêu thị để tất cả chúng ta sống, để tu, không nên ép thân làm nó chết thì lấy gì tu. Ăn ít, thân đói khát không sống sót, nhưng ăn nhiều sẽ sanh bệnh. Các thầy ăn ngọ thường rơi vào thực trạng này, ráng ăn đầy một bụng, vì chiều không ăn, nhưng ăn no như vậy, làm thế nào ngồi thiền được và sẽ khiến hơi thở dồn dập, trong khi Phật dạy hơi thở phải đều và nhẹ. Muốn hơi thở lê dài phải để khung hình nghỉ ngơi, không ăn thì hơi thở mới nhẹ như hơi thở con rùa. Các thiền sư sống chung với dã thú, nên có kinh nghiệm tay nghề dạy mình và nếu thực tập theo đúng lời dạy của những ngài, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể nhịn ăn từ một tuần đến một tháng vẫn sống khỏe. Nhịn ăn cao nhất là Hòa thượng Trí Quang nhịn đến 100 ngày. Về pháp nhịn ăn, mỗi người có cách khác nhau. Chứng Ly sanh hỷ lạc là vào ốc đảo tâm linh để sống. Nếu không có đời sống tâm linh, phụ thuộc vật chất chắc như đinh khổ vô cùng ; nhưng có đời sống tâm linh, mà vật chất thiếu thốn cũng không khổ.

Đức Phật đã theo học với tất cả nhà tu đương thời và theo ngoại đạo thực tập đủ cách, những gì mà họ thất bại giúp Ngài tránh được sai lầm và Ngài làm theo cái được của họ.

Trở về kinh Hoa nghiêm, Thiện Tài cầu học qua 52 thiện tri thức thì những điều này thuộc về siêu hình, chúng ta không biết; vì kinh Hoa nghiêm Phật nói trong thiền định, không có trên thực tế cuộc đời.

Nhưng đối với tôi, 52 thiện tri thức là chính cuộc sống tâm linh của Phật được diễn tả bằng hình ảnh Thiện Tài cầu đạo với họ. Lý này được kinh Pháp hoa ghi rằng Phật có thiên bá ức Hóa thân, hoặc nói việc mình, hoặc chỉ việc người. Có thể hiểu rằng Phật hành đạo có đầy đủ phương tiện, nên Ngài không nói là Ngài, mà nói là Thiện Tài đi cầu đạo.

Đầu tiên, Thiện Tài học với Văn Thù Sư Lợi. Anh em nên suy nghĩ điều này. Học với Văn Thù, nhưng mở đầu phẩm Nhập Pháp giới, kinh Hoa nghiêm, chúng ta thấy Văn Thù Sư Lợi xuất hiện dạy 6.000 Tỳ-kheo tại Đại bảo phường đình. Đến đây, trí tuệ tập thể của chư Tăng được diễn tả bằng hình ảnh Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát.

Ý nghĩa Phật xuất gia, thành đạo ảnh 4

Phật giáo Nguyên thủy không công nhận Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, nhưng tôi hỏi những vị tu Nguyên thủy có công nhận trí tuệ tập thể của chư Tăng hay không. Phật đã dạy rằng những gì Phật chế và chư Tăng tập hợp, san sẻ mà thấy không thích hợp thì được phép bỏ. Điều Phật dạy như vậy đã khẳng định chắc chắn quyết định hành động của tập thể Tăng-già là quan trọng. Tất nhiên, Phật giáo Nguyên thủy không hề phủ nhận lời Phật dạy. Vì vậy, Nguyên thủy công nhận trí tuệ tập thể của chư Tăng, nhưng không công nhận Bồ-tát Văn Thù. Nhưng tôi nói Văn Thù tiêu biểu vượt trội cho trí tuệ tập thể chư Tăng, gọi là Ngũ trí nghiêm thân.

Trên đời này không ai có đủ ngũ trí. Muốn có ngũ trí phải tập hợp chư Tăng. Thể hiện lý này, trong kinh Pháp hoa, Phật Thích Ca muốn mở tháp Đa Bảo, Ngài phải tập trung phân thân, nói cách khác đó là trí tuệ tập thể.

Văn Thù Sư Lợi dạy những Tỳ-kheo xong, ngài nói những thầy liên tục tu, ngài phải đi đến Phước Thành để độ Thiện Tài. Nếu tụng kinh suông sẽ không thấy có gì hay, có tâm lý mới thấy yếu nghĩa quan trọng cho tất cả chúng ta thực tập. Các Tỳ-kheo chuyên tu, không làm quyền lợi cho đời, chỉ quyền lợi cho mình gọi là tự lợi để thoát ly tam giới, thì pháp Tứ Thánh đế, 37 Trợ đạo phẩm là đủ. Thực tập pháp này lên Niết-bàn, nhưng muốn giáo hóa chúng sanh yên cầu phải có phước đức, trí tuệ. Các thầy có trí tuệ, nhưng là trí tuệ thuần lý do thiền định mà có, chưa trải qua thực tiễn đời sống gặt hái được. Các Tỳ-kheo chứng Nhứt thiết trí là thuần lý do thiền định hiểu biết được, nhưng xả định sẽ thấy khác. Thật vậy, trong định, hay trong ốc đảo của quốc tế tâm linh thấy cuộc sống đẹp tuyệt vời, nhưng xả định, trở lại thực tiễn đời sống thấy phức tạp vô cùng. Vì vậy, những Thanh văn tu muốn ở Niết-bàn luôn, không muốn trở ra cuộc sống.

Trí tuệ tập thể cho chúng ta thấy phải đến Phước Thành giáo hóa chúng sanh để trả nợ cơm áo gọi là trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ. Lý này được kinh Pháp hoa khẳng định rằng nếu thực sự đắc La-hán mà không tin việc làm của Bồ-tát đạo để dẫn tới quả vị Phật thì đó không phải là A-la-hán, mà là tăng thượng mạn.

Đắc La-hán phải tin kinh Pháp hoa nghĩa là tin phải thể hiện mẫu người đạo đức, mẫu người tri thức và mẫu người làm lợi ích cuộc đời. Có đầy đủ ba việc làm này mới trọn vẹn tư cách người tu.

Ý nghĩa Phật xuất gia, thành đạo ảnh 5

Có đạo đức thôi chưa đủ, vì đầu óc ngơ ngơ không học, không làm được gì. Hòa thượng Thiện Hoa bảo tôi còn trẻ phải nỗ lực học, vì không học sẽ thua kém người, không làm được. Thử nghĩ tu có đạo đức và được quý trọng, nhưng người hỏi, mình không biết thì khổ tâm lắm. Vì vậy, có đạo đức, được tin yêu, nhưng phải giải đáp được vướng mắc của cuộc sống. Trí tuệ tập thể cho tất cả chúng ta thấy xa rằng tất cả chúng ta đắc La-hán, Phật cũng là La-hán. Nhưng Phật là La-hán còn có khá đầy đủ mười hiệu là Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên, Nhơn sư, Phật, Thế Tôn. Phật giáo Nguyên thủy cũng công nhận Phật có mười hiệu này. Trong khi những La-hán khác chỉ có một hiệu là Ứng cúng và La-hán chỉ có đạo đức, không có trí giác như Phật.

Và trí tuệ tập thể cũng cho thấy Phật giáo muốn tồn tại phải đi lên, không thể chỉ giữ chùa. Có chùa và có Tăng, nhưng Tăng thất học thì nguy hiểm vô cùng. Vì nhận thức như vậy, Tổ Khánh Hòa đã bán chùa để thỉnh kinh dạy chư Tăng học. Căn cứ vào kinh Hoa nghiêm, chư Tăng phải học. Cho nên mẫu người tu, bắt đầu ngũ hạ dĩ tiền tinh chuyên giới luật. Ngũ hạ dĩ hậu thính giáo tham thiền.

Trong phẩm Nhập Pháp giới, Thiện Tài theo Tỳ-kheo Đức Vân rèn luyện đạo đức suốt mười năm. Con người đạo đức là Tỳ-kheo phải có oai nghi, lấy 250 giới nhân cho bốn oai nghi là đi đứng nằm ngồi thành 1.000 oai nghi. Trong mười năm trì giới cho được 1.000 oai nghi nhân cho ba nghiệp thân, khẩu, ý thành 3.000 oai nghi. Tỳ-kheo đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, nhìn ở góc nhìn nào cũng tốt đẹp, nói năng hay yên lặng cũng là hình tượng của Chánh pháp. Rèn luyện xong 3.000 oai nghi như vậy mới thính giáo tham thiền, là học với Hải Vân Tỳ-kheo. Vị này trải qua suốt 12 năm ngồi ở bờ biển quán sát thấy rõ nghiệp lực của toàn bộ chúng sanh. Ý nói bước thứ hai, tất cả chúng ta quan sát cuộc sống, gần là xã hội, xa là quán sát lục đạo tứ sanh .. Tỳ-kheo Hải Vân đứng ngoài cuộc sống quán sát cuộc sống xong rồi, việc này cũng không khó, nhưng việc khó hơn là Tỳ-kheo lao vào vào đời dễ bị cuộc sống làm ô nhiễm. Thật vậy, nhiều thầy cô nghĩ rằng học xong, sẽ thao tác này việc nọ, nhưng tu chưa vững thì làm một thời hạn, tâm bị nhiễm ô trước. Nghĩa là biết buồn giận, lo ngại, thống kê giám sát để xử lý đời sống của chùa sẽ làm tâm ý rối bời, công phu tiêu mất. Vì vậy, Thiện Tài học xong, Hải Vân nhắc rằng chính ngài chưa dám bước vào đời. Muốn vào đời phải học với Thiện Trụ Tỳ-kheo làm được toàn bộ mọi việc, nhưng khi nào cũng thanh thản, vì đã trụ tâm bền vững và kiên cố.

Có thể thấy điều quan trọng khi tâm chúng ta chưa trụ pháp vững mà vào đời sẽ bị chi phối, bị nhiễm ô. Thuở còn là học tăng, tôi thấy Hòa thượng Thiện Hoa đối trước việc khó, việc xấu, hay việc chống đối, ngài đều mỉm cười được. Vì vậy, sau này, mỗi khi tôi gặp chướng ngại thường nhớ đến hình ảnh tự tại giải thoát của Hòa thượng Thiện Hoa là động lực giúp tôi nghĩ mình phải được như bậc thầy của mình, phải là Thiện Trụ Tỳ-kheo.

Thiết nghĩ tâm tất cả chúng ta an trụ pháp Phật vững vàng mới vào đời hành đạo để không bị phiền muộn, vấp ngã, bỏ cuộc con đường tu theo Phật, chắc như đinh phải như vậy.

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp