Agatha Christie – Wikipedia tiếng Việt

Agatha Mary Clarissa, Lady Mallowan, DBE (15 tháng 9 năm 1890 – 12 tháng 1 năm 1976), thường được biết đến với tên Agatha Christie, là một nhà văn trinh thám người Anh. Bà còn viết tiểu thuyết lãng mạn với bút danh Mary Westmacott, nhưng vẫn được nhớ đến hơn cả với bút danh Agatha Christie và hơn 80 tiểu thuyết trinh thám. Với hai nhân vật thám tử nổi tiếng, Hercule Poirot và Bà Marple (Miss Marple), Christie được coi là “Nữ hoàng trinh thám” (Queen of Crime) và là một trong những nhà văn quan trọng và sáng tạo nhất của thể loại này.

Theo Sách kỷ lục Guinness, Agatha Christie là nhà văn có tác phẩm hút khách nhất mọi thời đại của thể loại trinh thám, và đứng thứ hai nếu tính cả những thể loại khác ( chỉ xếp sau William Shakespeare ). Ước tính đã có khoảng chừng 1 tỷ bản in bằng tiếng Anh và khoảng chừng 1 tỷ bản in bằng 103 thứ tiếng khác những tác phẩm của Christie được tiêu thụ [ 1 ]. Một ví dụ cho sự mê hoặc của những tác phẩm của Agatha Christie ở quốc tế là bà cũng là tác giả chạy khách nhất mọi thời đại ở Pháp với 40 triệu bản in bằng tiếng Pháp đã tiêu thụ ( tính cho đến năm 2003 ), trong khi người xếp thứ 2 là nhà văn Pháp Emile Zola chỉ là 22 triệu bản .

Vở kịch The Mousetrap (Cái bẫy chuột) của bà cũng đang giữ kỷ lục vở kịch được công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, ra mắt lần đầu tại rạp Ambassadors Theatre ngày 25 tháng 11 năm 1952 và vẫn tiếp tục được diễn cho đến nay (năm 2007) với trên 20.000 buổi diễn. Năm 1955, Christie là người đầu tiên được nhận giải thưởng Grand Master Award của Hội nhà văn trinh thám Mỹ (Mystery Writers of America). Hầu như tất cả tác phẩm của bà đều đã được chuyển thể thành phim, một số tác phẩm đã được chuyển thể nhiều lần như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông, Án mạng trên sông Nile, Chuyến tàu 16h50, nhiều tác phẩm cũng được chuyển thể thành phim truyền hình hoặc trò chơi điện tử.

Agatha Christie có tên khai sinh là Agatha Mary Clarissa Miller sinh ngày 15 tháng 9 năm 1890 tại Torquay, Devon, bà có cha là người Mỹ và mẹ là người Anh, tuy vậy chưa bao giờ Christie có hoặc tuyên bố là có quốc tịch Hoa Kỳ. Cha bà là ông Frederick Miller, một nhà giao dịch chứng khoán người giàu có, còn mẹ, bà Clara Bohemer có dòng dõi quý tộc Anh. Christie có một người chị, Margaret Frary Miller (1879-1950) và một người anh Louis Montant Miller (1880-1929). Bố của Agatha Christie mất khi bà còn rất nhỏ, bà Clara là người đã khuyến khích Christie viết từ khi còn bé. Lên 16 tuổi, Christie sang Paris để học hát và piano.

Bà có cuộc hôn nhân gia đình tiên phong không niềm hạnh phúc với đại tá Archibald Christie, một phi công của Không quân hoàng gia Anh. Hai người cưới nhau năm 1914, có một con gái, Rosalind Hicks, và ly dị năm 1928 .Trong Chiến tranh quốc tế thứ nhất bà thao tác tại bệnh viện và sau đó là tiệm thuốc, việc làm này đã ảnh hưởng tác động tới những sáng tác của bà sau này khi rất nhiều vụ giết người trong những tác phẩm của Christie được triển khai bằng thuốc độc như thạch tín, ricin và thallium .Ngày 8 tháng 12 năm 1926, khi đang sống ở Sunningdale, Berkshire, bà đùng một cái biến mất 10 ngày khiến dư luận rối loạn. Cuối cùng bà được tìm thấy khi đang ở khách sạn Swan Hydro vùng Harrogate dưới tên của người phụ nữ đã ngoại tình với chồng bà trước đó. Agatha Christie nói rằng bà bị mắc chứng đãng trí vì suy sụp sau cái chết của mẹ bà và sự phản bội của người chồng .Năm 1930, Christie kết hôn với nhà khảo cổ Max Mallowan trẻ hơn bà 14 tuổi .Agatha Christie mất ngày 12 tháng 1 năm 1976 ở tuổi 85, tại Wallingford, Oxfordshire. Đứa con duy nhất của bà, Rosalind Hicks, mất ngày 28 tháng 10 năm 2004 cũng ở tuổi 85, và hiện cháu trai bà, Mathew Prichard đang giữ bản quyền tổng thể tác phẩm của bà ngoại .

Hercule Poirot và Bà Marple[sửa|sửa mã nguồn]

Murder on the Orient ExpressNơi Agatha Christie đã viết

Tiểu thuyết đầu tiên của Agatha Christie, The Mysterious Affair at Styles được xuất bản năm 1920 và lần đầu tiên giới thiệu cho độc giả nhân vật thám tử nổi tiếng Hercule Poirot, người sẽ xuất hiện trong 30 tiểu thuyết và 50 truyện ngắn khác của Christie.

Nhân vật thám tử nổi tiếng nữa của Christie là Bà Marple (Miss Marple) xuất hiện lần đầu trong The Murder at the Vicarage xuất bản năm 1930.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Christie viết hai tiểu thuyết CurtainSleeping Murder, bà dự định đó sẽ là những vụ án cuối cùng của hai thám tử Hercule Poirot và Bà Marple. Hai tác phẩm này được giữ trong nhà băng hơn 30 năm và chỉ được phát hành vào cuối đời của tác giả, khi Christie nhận ra rằng mình không thể viết thêm tiểu thuyết nào nữa.

Cũng giống Arthur Conan Doyle, Christie đã từng trở nên chán ngán với những nhân vật thám tử của mình. Vào cuối thập niên 1930, Christie đã viết trong nhật ký rằng bà nhận thấy Poirot là ” không hề chịu đựng nổi “, tuy nhiên khác với Doyle, Agatha Christie đã chống lại được cảm xúc muốn kết liễu nhân vật thám tử của mình khi anh ta vẫn còn đang nổi tiếng. Bà coi mình là một người làm nghề vui chơi mà việc làm là phát minh sáng tạo ra những thứ công chúng ưa thích, và thứ mà công chúng ưa thích lại chính là nhân vật thám tử Poirot .Trái ngược với Poirot, Christie rất yêu quý nhân vật Bà Marple. Đáng kinh ngạc là số tiểu thuyết có Open Bà Marple lại chưa bằng 50% số tiểu thuyết có Open ông thám tử người Bỉ Poirot .

Poirot là nhân vật hư cấu duy nhất cho đến nay được đăng cáo phó trên tờ The New York Times sau khi tiểu thuyết Curtain xuất bản năm 1975 trong đó Poirot bị bà Christie “giết chết”. Tiếp nối thành công của Curtain, Christie cho xuất bản tiểu thuyết Sleeping Murder vào năm 1976, nhưng bà lại chết trước khi tác phẩm của mình được phát hành. Điều này giải thích một số mâu thuẫn của tác phẩm này với loạt truyện về Bà Marple, có lẽ Christie không còn thời gian để xem lại bản thảo trước khi bà qua đời. Miss Marple được “đối xử” tốt hơn viên thanh tra Poirot khi bà vẫn sống sau khi giải quyết xong vụ án của Sleeping Murder.

11 ngày mất tích bí ẩn của Agatha[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1926, Christie đã mất tích một cách bí ẩn trong 11 ngày. Vụ mất tích của bà thậm chí còn còn lôi cuốn sự chăm sóc của một đồng nghiệp nổi tiếng khác, đó là Sir Conan Doyle, người đã phát minh sáng tạo ra thám tử Sherlock Holmes. [ 2 ]Sự mất tích của bà giống như những thủ đoạn trong những cuốn tiểu thuyết của chính bà vậy. Vào tối ngày 4/12/1926, Christie biến mất không một dấu vết .Ngày 6/12/1926Lúc bấy giờ, “ nữ hoàng truyện trinh thám ” đang ở tuổi 36, và sự biến mất của bà Open trên khắp những mặt báo của The Times. Chiếc xe hơi của bà được tìm thấy trong thực trạng bánh trước bị long ra, bên cạnh một cái hố .Ngày 8/12/1926Sau 3 ngày tìm kiếm, công an cho rằng anh rể của bà đã nhận được 1 lá thư từ bà. Trong thư nói rằng bà sẽ đến một spa chăm sóc sức khỏe và làm đẹp ở Yorkshire để nghỉ ngơi và điều trị. Đến đây, có vẻ như vụ án đã được khép lại. Nhưng không phải như vậy .

Ngày 10/12/1926

Cảnh sát có vẻ như không bị lá thư kia thuyết phục, đã lan rộng ra tìm kiếm. Thậm chí, họ đã sử dụng con chó của Christie trong quy trình tìm kiếm, nhằm mục đích hy vọng nó sẽ phát hiện ra mùi hương của chủ mình ở đâu đó .Tờ báo The Times đã đưa tin : những thám tử cho rằng đó là một vụ tự sát. Cuộc tìm kiếm lại chuyển hướng tập trung chuyên sâu vào một cái ao có tên là “ the Silent Pool ”, mà theo thần thoại cổ xưa địa phương là sâu không đáy .Có một cụ thể được biệt trêu ngươi ở cuối bài báo đã viết : Một người bạn của Christie đã nói rằng ngôi nhà bà sống ở Sunningdale đã khiến bà căng thẳng mệt mỏi. Ngôi nhà ấy nằm trên một con đường đơn độc, không có ánh sáng vào đêm hôm, có tiếng ma ám. Con đường dẫn vào ngôi nhà ấy còn là hiện trường của một vụ giết hại người phụ nữ và một người đàn ông cũng tự tử ở đó .“ Nếu tôi không rời Sunningdale sớm thì Sunningdale sẽ giết tôi mất. ” – Đó là những gì mà Christie nói với người bạn của mình .Ngày 11/12/1926Christie đã mất tích được một tuần. Cảnh sát lúc này đang rất hoảng sợ bởi không có nhân chứng đáng đáng tin cậy nào nhìn thấy bà từ cái đêm bà rời khỏi nhà. Nhưng có một diễn biến quan trọng : Christie đã để lại 3 lá thư : một cho thư ký, một cho anh rể và một cho chồng. Chồng bà đã khước từ bật mý những gì mà bà đã viết .Ngày 12/12/1926Các thám tử lôi kéo sự trợ giúp từ những người lái xe mô tô và những mật thám nghiệp dư. Không cần biết tại sao, công an vẫn tin rằng bà đang ở đâu đó cách không xa nơi chiếc xe hơi của bà được tìm thấy .Trong cùng một bài viết, thư ký cá thể của bà đã tức giận phủ nhận rằng hàng loạt vấn đề là một trò nực cười : “ Như vậy là đã quá đủ với bà Christie rồi. ” Và người thư ký này cũng trao lại bức thư mà Christie đã để lại cho mình, và những gì trong bức thư chỉ là lịch trình thao tác .Cảnh sát mở màn sục sạo. Họ chuyển sang tìm manh mối trên những bản thảo của bà, và lúc bấy giờ bà đang viết “ The Blue Train ” .Ngày 13/12/1926Có khoảng chừng 10.000 – 15.000 người đã tham gia vào cuộc tìm kiếm “ nữ hoàng truyện trinh thám ”, cộng thêm sự tương hỗ của 6 chú chó săn Airedale, nhiều chó săn và chó công an Alsatian. Thậm chí, những tên côn đồ thường thì cũng tham gia và vụ tìm kiếm này .Cùng ngày hôm đó, công an đoán rằng Christie hoàn toàn có thể ở London. Có thể bà đã cải trang thành một người đàn ông. Và cũng có tin đồn thổi rằng bà đã để lại những chiếc phong bì chỉ được mở ra khi người ta tìm thấy xác của bà. Các nhà tâm linh thậm chí còn đã làm lễ tại cái hố nơi phát hiện chiếc xe của bà .Ngày 14/12/1926Tờ The Times cho biết công an đã tìm thấy 1 số ít manh mối quan trọng gần đó, gồm có cả một chai có nhãn chì và thuốc phiện, mảnh bưu thiếp bị xé rách nát, áo khoác lông thú của phụ nữ, một hộp phấn, đầu một ổ bánh mì, một hộp các-tông và hai cuốn sách mần nin thiếu nhi .Cảnh sát có những thông tin dẫn đến quan điểm rằng bà Christie không có dự tính trở về sau khi rời khỏi nhà .Ngày 15/12/1926

Christie được tìm thấy ở một spa tại Yorkshire, sau khi mất tích 11 ngày.

Điều đáng nói là khi được tìm thấy, bà ở trong thực trạng mất trí nhớ. Bà không hề nhớ được mình là ai. Khi nhân viên cấp dưới Giao hàng nhận ra khuôn mặt bà trên báo, Christie vẫn khăng khăng rằng mình đến từ Nam Phi. Mọi thứ trở nên kỳ lạ hơn khi chồng bà đến khách sạn để đón bà nhưng Christie không nhận ra ông, kể cả bức ảnh đứa con nhỏ của bà .Sự biến mất bí ẩn của Agatha Christie đã dấy lên nhiều giả thuyết trên truyền thông online đại chúng bấy giờ. Từ tai nạn đáng tiếc, gài bẫy chồng, trò lừa quảng cáo … cho đến cuộc chạm trán với người ngoài hành tinh, nhưng nguyên do thực sự đến nay vẫn là điều bí ẩn. Không ai biết đúng chuẩn chuyện gì đã xảy ra, còn Christie thì coi đó là một sự kiện không khi nào nên được nhắc lại. [ 2 ]

Tập truyện ngắn[sửa|sửa mã nguồn]

  • 1924, Poirot Investigates (11 truyện ngắn)
  • 1929, Partners in Crime (15 truyện ngắn; về thám tử Tommy và Tuppence)
  • 1930, The Mysterious Mr. Quin (12 truyện ngắn; giới thiệu Sir Harley Quin)
  • 1933, The Hound of Death (12 truyện ngắn)
  • 1933, The Thirteen Problems (13 truyện ngắn; về Bà Marple, còn có tên The Tuesday Club Murders)
  • 1934, Parker Pyne Investigates (12 truyện ngắn; giới thiệu Parker Pyne và Ariadne Oliver, còn có tên Mr. Parker Pyne, Detective)
  • 1934, The Listerdale mystery (12 truyện ngắn)
  • 1937, Murder in the Mews (4 truyện ngắn; về Hercule Poirot, còn có tên Dead Man’s Mirror)
  • 1939, Regatta Mystery and Other Stories (9 truyện ngắn)
  • 1947, The Labours of Hercules (12 truyện ngắn; về Hercule Poirot)
  • 1948, The Witness for the Prosecution and Other Stories (11 truyện ngắn) – Nhân chứng buộc tội (NXB Trẻ – 2021)
  • 1950, Three Blind Mice and Other Stories (9 truyện ngắn)
  • 1951, The Under Dog and Other Stories (9 truyện ngắn)
  • 1960, The Adventure of the Christmas Pudding (6 truyện ngắn)
  • 1961, Double Sin and Other Stories (8 truyện ngắn)
  • 1971, The Golden Ball and Other Stories (15 truyện ngắn)
  • 1974, Poirot’s Early Cases (18 truyện ngắn)
  • 1979, Miss Marple’s Final Cases and Two Other Stories (8 truyện ngắn)
  • 1991, Problem at Pollensa Bay and Other Stories (8 truyện ngắn)
  • 1997, The Harlequin Tea Set (9 truyện ngắn)
  • 1997, While the Light Lasts and Other Stories (9 truyện ngắn)
  • 1997, Death is not the Worst Thing (12 truyện ngắn)

Viết bằng bút danh Mary Westmacott[sửa|sửa mã nguồn]

  • 1930, Giant’s Bread
  • 1934, Unfinished Portrait
  • 1944, Absent in the Spring
  • 1948, The Rose and the Yew Tree
  • 1952, A Daughter’s a Daughter
  • 1956, The Burden
  • 1928, Alibi
  • 1930, Black Coffee
  • 1936, Love from a Stranger
  • 1937, A Daughter’s a Daughter (chưa bao giờ diễn)
  • 1940, Peril at End House
  • 1943, Ten Little Indians
  • 1945, Appointment with Death
  • 1946, Murder on the Nile
  • 1949, Murder at the Vicarage
  • 1951, The Hollow
  • 1952, The Mousetrap
  • 1953, Witness for the Prosecution
  • 1954, Spider’s Web
  • 1956, Towards Zero
  • 1958, Verdict
  • 1958, The Unexpected Guest
  • 1960, Go Back for Murder
  • 1962, Rule of Three
  • 1972, Fiddler’s Three
  • 1973, Aknaton (viết năm 1937)
  • 1977, A Murder is Announced
  • 1981, Cards on the Table
  • 1992, Problem at Pollensa Bay
  • 1993, Murder is Easy
  • 2005, And Then There Were None

Kịch truyền thanh[sửa|sửa mã nguồn]

  • 1937, Yellow Iris
  • 1947, Three Blind Mice
  • 1948, Butter In a Lordly Dish
  • 1960, Personal Call

Kịch truyền hình[sửa|sửa mã nguồn]

  • 1937, Wasp’s Nest

Tác phẩm khác[sửa|sửa mã nguồn]

  • 1946, “Come Tell Me How You Live”
  • 1977, “Agatha Christie: An Autobiography”

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh