Aphrodite – Wikipedia tiếng Việt

Aphrodite (Việt hóa: Aphrôđit/Aphrôđitê/Aphrôđitơ, tiếng Hy Lạp cổ: Ἀφροδίτη, chuyển tự Aphrodítē, phát âm tiếng Hy Lạp Attica: [a.pʰro.dǐː.tɛː], tiếng Hy Lạp Koine [a.ɸroˈdi.te̝], tiếng Hy Lạp hiện đại: [a.froˈði.ti]) là nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với tình yêu, dục vọng, sắc đẹp, niềm vui, đam mê và phồn thực. Hình tượng của bà sau này được hỗn dung với nữ thần Venus của La Mã. Những biểu trưng chính của Aphrodite bao gồm hương đào, hoa hồng, chim bồ câu, chim sẻ và thiên nga. Tục thờ cúng Aphrodite bắt nguồn từ tục thờ cúng nữ thần Astarte của người Phoenicia và có cùng nguồn gốc với nữ thần Đông Semit tên là Ishtar, căn nguyên chính là tục thờ nữ thần Inanna của người Sumer cổ. Cythera, Síp, Corinth và Athens xưa kia là những trung tâm chính sùng bái Aphrodite. Cứ đến hạ chí hằng năm, người Hy Lạp lại tổ chức lễ hội Aphrodisia để tôn vinh Aphrodite. Tại vùng Laconia, bà được tôn thờ như một nữ thần chiến binh. Ngoài ra, bà còn là nữ thần bảo trợ của mại dâm và “mại dâm thiêng liêng” (một khái niệm văn hóa Hy La cổ đại), điều mà thường bị coi là “đồi trụy” theo chuẩn mực đạo đức ngày nay.

Theo tác phẩm Theogonía của Hēsíodos, Aphrodite sinh ra ngoài khơi Cythera từ bọt biển (ἀφρός, aphrós) tạo ra bởi bộ phận sinh dục của thần Uranus, bị chính con trai mình là Cronus cắt đứt rồi ném xuống biển. Tuy nhiên, sử thi Iliad của Hómēros lại kể rằng bà là con gái của Zeus và Dione. Trong tác phẩm Yến hội, Platon cho rằng hai câu chuyện này kể về hai vị thần khác nhau: Aphrodite Ourania thuộc về trời và Aphrodite Pandemos thuộc về toàn dân gian. Aphrodite còn có nhiều tính ngữ khác ở từng địa phương. Chẳng hạn như CythereaCypris, bởi tương truyền bà sinh ra ở một trong hai nơi đó.

Trong thần thoại Hy Lạp, Aphrodite kết hôn với Hephaestus, vị thần của thợ rèn và gia công. Tuy vậy, Aphrodite không chung thủy và có rất nhiều tình nhân. Trong sử thi Odýsseia, bà bị bắt gặp ngoại tình với vị thần chiến tranh Ares. Trong bài thánh ca Homeros đầu tiên cho Aphrodite, bà quyến rũ người chăn cừu trần thế Anchises. Aphrodite còn là người mẹ nuôi và người yêu của người chăn cừu phàm trần Adonis, sau này chàng ta bị một con lợn rừng húc chết. Trong thiên sử Iliad, cuộc thi sắc đẹp giữa 3 nữ thần Aphrodite, Athena và Hera đã khơi mào cuộc chiến thành Troia đẫm máu. Aphrodite được coi là biểu tượng của vẻ đẹp phụ nữ trong nghệ thuật phương Tây, một hình tượng rất nổi tiếng trong các tác phẩm văn học phương Tây. Aphrodite là vị thần chính trong nhiều tôn giáo Tân Pagan hiện đại bao gồm Giáo hội Aphrodite, Wicca và Hellenismos.

Nhà thơ Hēsíodos cho rằng danh xưng Aphrodite bắt nguồn từ aphrós (ἀφρός) “bọt biển”, nên cả cụm từ có nghĩa là “trỗi dậy từ bọt”,[5] nhưng giới chuyên gia hiện đại hầu như đều bác bỏ cách giải thích dân gian này. Các nhà nghiên cứu thần thoại cổ điển thời cận đại cho rằng Aphrodite là một từ gốc Hy Lạp hoặc gốc từ một ngôn ngữ Ấn-Âu nào đó, tuy vậy giả thuyết đây vẫn chưa được công nhận chính thức. Danh xưng Aphrodite có lẽ bắt nguồn từ một ngôn ngữ Semit nào đó chứ không phải Hy Lạp, nhưng nguồn cội chính xác của cái tên đó chưa thể được xác định.

Nhiều học giả vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX chấp nhận cách giải nghĩa “bọt” của Hēsíodos và phân tích phần thứ hai của Aphrodite là *-odítē “kẻ lang thang”[7] hoặc *-dítē “sáng”.[8][9] Nhà ngôn học Michael Janda ủng hộ luận điểm của Hēsíodos, cho rằng câu chuyện về sự ra đời từ bọt của Aphrodite là một thần thoại gốc Ấn-Âu. Nhà ngôn học người Ba Lan Krzysztof T. Witczak cho rằng cái tên Aphrodite là một từ ghép Ấn-Âu của *-abʰor“rất” và *-dʰei“tỏa sáng”, có liên hệ với tên của thần Eos. Nhiều học giả khác cho rằng giả thuyết đó sai lầm vì các thuộc tính của Aphrodite hoàn toàn khác biệt so với Eos và vị thần Vệ Đà Ushas.

Một số nhà nghiên cứu tiếp cận vấn đề này theo hướng từ nguyên phi-Hy Lạp. Chẳng hạn như giả thuyết Semit so sánh Aphrodite với danh xưng barīrītu tiếng Assyria, tên gọi của một con quỷ nữ xuất hiện trong vài văn bản Trung Babylon và Hậu Babylon.[15] Hammarström[16] so sánh Aphrodite với từ (e)prϑni “chúa tể” trong tiếng Etrusca, một kính ngữ được vay mượn sang tiếng Hy Lạp thành từ πρύτανιρύτ. Nếu điều này đúng thì cái tên Aphrodite căn nguyên là một kính ngữ mang nghĩa “người phụ nữ”. Hầu hết chuyên gia bác bỏ thuyết này, bởi lẽ Aphrodite đã được vay mượn sẵn sang tiếng Etrusca thành Apru từ lâu rồi (bắt nguồn từ Aphrō của tiếng Hy Lạp). Cuốn Etymologicum Magnum thời Trung Cổ (khoảng năm 1150) cung cấp một cách giải nghĩa nữa, cho rằng Aphrodite bắt nguồn từ habrodíaitos (ἁβροδίαιτος), “cô ấy sống tinh tế”, một từ ghép của habrósdíaita. Sự biến đổi âm b thành ph được giải thích là một đặc điểm “quen thuộc” của tiếng Hy Lạp “hiển nhiên là từ tiếng Macedonia Cổ”.[20]

Nữ thần tình yêu vùng Cận Đông[sửa|sửa mã nguồn]

Hình nhân khỏa thân của Ishtar từ Susa, thiên niên kỷ thứ 2 TCN, diễn đạt bà đội vương miện và nắm chặt hai bầu vú Tượng Aphrodite đầu thế kỷ thứ 5 TCN từ Cyprus, diễn đạt bà đội vương miện hình tròn trụ và tay mang con chim bồ câu

Giáo phái Aphrodite ở Hy Lạp bắt nguồn hoặc chịu ảnh hưởng của giáo phái Astarte ở Phoenicia, chính nó cũng bị ảnh hưởng từ giáo phái thờ nữ thần “Ishtar” của các dân tộc Semit Đông và nữ thần “Inanna” của người Sumer. Nhà địa lý Hy Lạp Pausanias viết rằng những người đầu tiên thành lập giáo phái Aphrodite là dân Assyria, sau đó mới đến người Paphia của Đảo Síp, rồi tới người Phoenicia tại Ascalon. Sau đó, người Phoenicia tiếp tục truyền tụng tôn giáo này sang đảo Kythira.[26]

Aphrodite tiếp nhận mối liên hệ của Inanna-Ishtar với tình dục và sinh sản. Ngoài ra, bà còn được biết đến với danh hiệu Ourania (Οὐρανία), nghĩa là “thuộc về bầu trời”, một danh hiệu tương ứng với vai trò nữ hoàng bầu trời của thần Inanna. Những chân dung nghệ thuật và văn học ban đầu của Aphrodite cực kỳ giống với Inanna-Ishtar. Tương tự như Inanna-Ishtar, Aphrodite là một nữ thần chiến binh Pausanias chép rằng người Sparta thờ phụng bà với cái tên Aphrodite Areia, nghĩa là “hiếu chiến”. Ông còn kể rằng các bức tượng sùng bái cổ xưa nhất của Aphrodite ở Sparta và Kythira cầm vũ khí. Các học giả hiện đại nhận thấy rằng khía cạnh nữ thần chiến binh của Aphrodite xuất hiện trong cơ tầng thần thoại cổ nhất và đó rõ ràng là minh chứng cho giả thuyết bà có nguồn gốc Cận Đông.

Giới học giả cổ xưa thế kỷ XIX không mấy đống ý với quan điểm ​ ​ cho rằng tôn giáo Hy Lạp cổ đại trọn vẹn chịu tác động ảnh hưởng của những nền văn hóa truyền thống Cận Đông, nhưng ngay cả nhà khảo cổ Friedrich Gottlieb Welcker, người từng cho rằng tác động ảnh hưởng của văn hóa truyền thống Cận Đông lên văn hóa truyền thống Hy Lạp chỉ bị số lượng giới hạn ở mặt vật chất, vẫn phải thừa nhận rằng Aphrodite có gốc gác Phoenicia. Ảnh hưởng của văn hóa truyền thống Cận Đông lên tôn giáo Hy Lạp sơ khai nói chung và giáo phái Aphrodite nói riêng được công nhận là khởi đầu từ quy trình tiến độ phương Đông hóa thế kỷ thứ XIII TCN, khi Hy Lạp cổ đại nằm ở rìa của đế quốc Tân Assyria .

Nữ thần bình minh Ấn-Âu[sửa|sửa mã nguồn]

Một số nhà so sánh thần thoại buổi đầu phản đối quan điểm nguồn gốc Cận Đông của nữ thần và cho rằng Aphrodite là một khía cạnh của nữ thần bình minh Hy Lạp Eos và do đó, bà bắt nguồn từ nữ thần bình minh Ấn-Âu nguyên thủy H2éwsōs (từ nguyên tổ tiên của các từ đồng nguyên sau đây: Eos trong tiếng Hy Lạp, Aurora trong tiếng La-tinh, Ushas trong tiếng Phạn). Hầu hết học giả thời nay bác bỏ quan niệm Aphrodite hoàn toàn chính gốc Ấn-Âu, nhưng vị thần Aphrodite ban đầu của người Semit có lẽ đã bị ảnh hưởng bởi nữ thần bình minh Ấn-Âu. Cả Aphrodite và Eos đều được mô tả với vẻ đẹp gợi tình và tính dục mạnh mẽ, đều có mối quan hệ với những người tình trần thế, và đều có liên kết với màu đỏ, trắng và vàng. Nhà nghiên cứu Michael Janda suy đoán rằng từ Aphrodite nguyên là một tính ngữ (epithet) của thần Eos, với ý nghĩa “cô ấy trỗi dậy từ bọt [của đại dương]”, và sự ra đời của Aphrodite trong tác phẩm Theogonía của Hēsíodos là dị bản của một thần thoại Ấn-Âu xa xưa. Câu chuyện Aphrodite trồi lên khỏi đại dương sau khi Cronos đánh bại Ouranos có nét tương đồng với câu chuyện thần sấm Indra đánh bại con quỷ Vrtra và giải phóng Ushas (nữ thần rạng đông của Ấn Độ giáo) trong cuốn Rigveda. Một điểm tương đồng quan trọng khác giữa Aphrodite và nữ thần bình minh Ấn-Âu là mối quan hệ họ hàng gần gũi của họ với thần bầu trời, dễ thấy rằng cả hai vị thần được cho là cha của bà (Zeus và Ouranos) đều là những vị thần bầu trời.

Biến thể và thương hiệu[sửa|sửa mã nguồn]

Aphrodite Ourania vận y phục đứng trên mai Louvre)vận y phục đứng trên mai rùaStockholmHerma Hy Lạp cổ đại của Aphroditus, dạng đàn ông của Aphrodite. Tác phẩm hiện đang nằm trong bộ sưu tầm của Nationalmuseum

Tính ngữ văn hóa phổ biến nhất của Aphrodite là Ourania, nghĩa là “thuộc về bầu trời”, nhưng cái tên này hầu như không xuất hiện trong các tác phẩm văn học, biểu hiện một ý nghĩa văn hóa thuần túy. Một tên gọi khác của Aphrodite là Pandemos (“dành cho tất cả dân gian”). Trong vai trò Aphrodite Pandemos, Aphrodite được liên kết với Peithō (Πείθω), nghĩa là “sự thuyết phục”, và dân chúng có thể cầu phúc để quyến rũ hơn. Platon trong tác phẩm Yến hội cho hay Ourania và Pandemos là những nữ thần riêng biệt. Ông khẳng định rằng Aphrodite Ourania là Aphrodite thuộc về bầu trời, được sinh ra từ bọt biển sau khi Cronus thiến Uranus, và lớn tuổi nhất trong hai nữ thần. Cũng theo Yến hội, Aphrodite Ourania là nguồn cảm hứng của ham muốn tình dục đồng giới nam, cụ thể là eros (tình yêu) ephebos (lời thề ephebos) và thiếu niên ái. Aphrodite Pandemos trẻ nhất trong hai nữ thần: Bà được sinh ra từ Zeus và Dione, là nguồn cảm hứng của ham muốn dị tính luyến ái và tính lăng nhăng tình dục.[52][53]

Đối với những người theo chủ nghĩa Tân Platon và biến thể Cơ đốc của tư tưởng đó sau này, Ourania gắn liền với tình yêu thiêng liêng còn Pandemos gắn liền với tình yêu thể xác. Hình tượng Ourania tựa đôi chân bà trên mai rùa bộc lộ sự tự do trong tình yêu vợ chồng. Tác phẩm điêu khắc chryselephantine của Phidias dành cho dân chúng của thành bang Elis cổ đại có miêu tả hình tượng Aphrodite nêu trên. Tuy vậy, bức tượng của Phidias chỉ còn sót lại trong một nhận xét qua loa của Pausanias. [ 54 ]

Một trong những tên gọi văn học phổ biến nhất của Aphrodite là Philommeidḗs (φιλομμειδής), nghĩa là “tình yêu mỉm cười” nhưng đôi khi bị dịch sai thành “tình yêu tiếng cười”. Tên gọi tính ngữ này xuất hiện xuyên suốt hai sử thi Homeros và Bài thánh ca Homeros đầu tiên cho Aphrodite. Hesiodos từng nhắc đến cái tên này một lần trong tác phẩm Theogonía khi mô tả lúc Aphrodite ra đời, ông giải nghĩa tên này là “tình yêu bộ phận sinh dục” hơn là “tình yêu nụ cười”. Giáo sư văn học Cổ điển Monica Cyrino cho rằng sở dĩ có tên Philommeidḗs là vì trong các miêu tả nghệ thuật về Aphrodite, bà thường nở một nụ cười. Những tính ngữ văn học phổ biến khác của Aphrodite bao gồm CyprisCythereia, do mối liên hệ của bà với đảo Síp và Cythera.

Ở Síp, Aphrodite đôi khi được gọi là Eleemon (“kẻ nhân hậu”). Tại Athens, bà được biết đến với cái tên Aphrodite en kopois (“Aphrodite của các khu vườn”). Tại Cape Colias, một thị trấn dọc bờ biển Attic, bà được tôn sùng với tên Genetyllis “Mẹ”. Người Sparta gọi bà bằng những cái tên như Potnia “Bà chủ”, Enoplios “Vũ trang”, Morpho “Tư dung quyến rũ”, Ambologera “Cô ấy là người trì hoãn tuổi già”. Trên khắp thế giới Hy Lạp, bà được biết đến với những cái tên như Melainis “Kẻ đen”, Skotia “Kẻ đen tối”, Androphonos “Kẻ sát nhân”, Anosia “Tội lỗi”, và Tymborychos “Kẻ đào huyệt”, cho thấy bản chất đen tối hơn, bạo lực hơn của nữ thần.

Thời cổ xưa[sửa|sửa mã nguồn]

Tàn tích của đền thờ Aphrodite tại AphrodisiasLễ hội Aphrodisia được tổ chức triển khai hằng năm trên khắp Hy Lạp để tôn vinh riêng nữ thần Aphrodite, quan trọng nhất là ở hai thành bang Athens và Corinth. Tại Athens, lễ Aphrodisia được tổ chức triển khai vào ngày thứ tư của tháng Hekatombaion để tưởng niệm công lao thống nhất Attica của Aphrodite. Trong buổi lễ, những thầy tế sẽ dùng máu của một con bồ câu để thanh tẩy đền thờ Aphrodite Pandemos bên sườn phía tây nam của Acropolis. Sau đó, những bàn thờ cúng sẽ được xức dầu và những bức tượng của Aphrodite Pandemos và Peitho sẽ được rước tới nơi tắm rửa nghi lễ của chúng. Ở Athens, họ còn tổ chức triển khai một dịp lễ nữa để tôn vinh nữ thần, gọi là lễ Arrhephoria. Trong tín ngưỡng của người Hy Lạp xưa, ngày thứ tư hàng tháng rất thiêng liêng so với Aphrodite .

Pausanias có chép rằng ở Sparta, Aphrodite được tôn thờ với cái tên Aphrodite Areia, nghĩa là “hiếu chiến”. Điều này nhấn mạnh mối quan hệ của Aphrodite với tình nhân của bà là Ares. Pausanias kể thêm rằng, ở Sparta và trên đảo Cythera, một số bức tượng thờ Aphrodite cực kỳ cổ xưa cầm vũ khí, và một số khác còn bị trói buộc trong xiềng xích.

Aphrodite là nữ thần bảo trợ của tất cả các loại mại dâm, từ pornai (gái mại dâm đường phố rẻ tiền, thường làm nô lệ cho giới ma cô giàu có) đến hetairai (gái giải khuây làm thuê đắt tiền, được giáo dục tốt, thường là lao động tự do). Corinth cổ đại rất khét tiếng với những Hetairai, họ có tiếng tăm lành nghề nhưng cũng rất đắt đỏ. Corinth xưa kia từng có một ngôi đền thờ Aphrodite rất lớn nằm trên Acrocorinth, và Corinth xưa kia cũng từng là một trong những trung tâm chính của giáo phái thờ Aphrodite. Tại Corinth cũng như trên các đảo Cyprus, Cythera và Sicily, vẫn còn sót lại rất nhiều văn liệu nhắc đến mối liên hệ của Aphrodite với mại dâm. Tiền thân của Aphrodite là nữ thần Lưỡng Hà Inanna-Ishtar, cũng có liên hệ rất mật thiết với mại dâm.

Thời Hy Lạp hóa và La Mã[sửa|sửa mã nguồn]

Tranh chạm nổi của Aphrodite bị tác động ảnh hưởng bởi La Mã tại Aphrodisias. Có thể thấy bà đang ngồi trên ngai, tay mang một đứa bé, còn chàng chăn cừu Anchises đứng cạnh. Carlos Delgado ; CC-BY-SA .Vào thời kỳ Hy Lạp hóa, người Hy Lạp đã hỗn dung Aphrodite với những nữ thần Ai Cập cổ đại là Hathor và Isis. [ 73 ] Aphrodite trở thành nữ thần bảo trợ của những nữ hoàng triều Ptolemy. Nữ hoàng Arsinoe II còn tự coi mình là hiện thân trần gian của Aphrodite, và bà cũng chính là người lan truyền giáo phái Adonis tới thành Alexandria, nơi mà tôn giáo Aphrodite rất thịnh. Archimedes từng phong cách thiết kế cho vua Ptolemy IV Philopator một con thuyền du ngoạn hai thân khổng lồ gọi là Tessarakonteres, với một ngôi đền hình tròn trụ trên boong tàu cùng với một bức tượng Aphrodite bằng cẩm thạch đứng bên trong. Vào thế kỷ thứ 2 TCN, vua Ptolemy VIII Physcon cùng hai vợ Cleopatra II và Cleopatra III cho xây một ngôi đền thờ Aphrodite Hathor tại Philae. Những bức tượng cỡ nhỏ của Aphrodite để thờ kính cá thể trở nên phổ cập ở Ai Cập khởi đầu từ đầu thời Ptolemy và lê dài cho đến rất lâu sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh của La Mã .

Người La Mã cổ đại coi Aphrodite tương đưong với nữ thần Venus của họ, vốn là nữ thần của sự phì nhiêu nông nghiệp, thảm thực vật và mùa xuân. Theo nhà sử học La Mã Livy, Aphrodite và Venus chính thức được sáp nhập vào thế kỷ thứ 3 TCN, khi tín ngưỡng thờ Venus Erycina du nhập vào La Mã từ thánh địa Aphrodite của Hy Lạp trên núi Eryx ở Sicily. Sau thời điểm này, người La Mã hấp thụ biểu tượng và thần thoại của Aphrodite vào nữ thần Venus của họ. Vì Aphrodite là mẹ của anh hùng thành Troia Aeneas trong thần thoại Hy Lạp và Aeneas là người sáng lập thành Roma trong huyền tích La Mã, Venus được người La Mã tôn là Venus Genetrix hay mẹ của toàn bộ La Mã. Julius Caesar tự nhận mình là hậu duệ trực tiếp của Iulus, con trai của Aeneas, và ông rất ủng hộ sự sùng bái Venus. Hoàng đế Augustus và các đời hoàng đế La Mã sau cũng cứ tiếp nối truyền thống đó.

Chủ nghĩa hỗn dung đã ảnh hưởng tác động rất lớn tới tục tôn thờ Aphrodite của người Hy Lạp. Dưới sự quản lý của La Mã, những giáo phái Aphrodite ở nhiều thành phố Hy Lạp nhấn mạnh vấn đề mối quan hệ của bà với thành Troia và Aeneas. Họ cũng khởi đầu thêm thắt những yếu tố La Mã vào, miêu tả một Aphrodite khắc khổ hơn, quân phiệt hơn và chăm sóc hơn đến cỗ máy hành chính. Bà được nhiều quan chức La Mã tôn xưng là thần hộ mệnh. Sự Open của Aphrodite trong văn học Hy Lạp lại càng phổ cập, biểu lộ một Aphrodite theo phong thái La Mã .
Aphrodite thường được cho là sinh ra ở Paphos, nằm trên hòn đảo Síp. Đây là nguyên do tại sao nhiều lúc bà được gọi là ” Cypris “, đặc biệt quan trọng là trong những tác phẩm của nữ thi sĩ Sappho. Tuy nhiên, cũng có dị bản kể rằng bà sinh ra ở gần hòn đảo Cythera, do đó bà cũng đôi lúc được gọi là ” Cytherea “. [ 80 ] Cythera là một thương điếm và điểm giao thoa văn hóa truyền thống giữa hai hòn hòn đảo Crete và Peloponesus, [ 81 ] chính vì vậy nên những câu truyện này có lẽ rằng vẫn lưu giữ dấu vết hướng lan truyền giáo phái Aphrodite từ Cận Đông sang đại lục Hy Lạp .

Theo Theogonía của Hēsíodos,[83] Cronus cắt đứt dương vật của Uranus rồi ném nó xuống biển. Bọt từ dương vật Uranus đã tạo ra Aphrodite (Hēsíodos cho hay tên của Aphrodite bắt nguồn từ đây), còn những Titan, Erinyes và Meli nổi lên từ những giọt máu. Hēsíodos kể rằng dương vật của vị thần “trôi dạt trên biển một thời gian dài và bọt trắng nổi lên từ da thịt bất tử; từ đó có một cô gái dần lớn lên.” Phiên bản của Hēsíodos về sự ra đời của Aphrodite sau khi Uranus bị thiến có lẽ bắt nguồn từ Khúc ca của Kumarbi, một bài thơ sử thi của người Hitti cổ đại kể về vị thần Kumarbi lật đổ cha mình là Anu và cắn đứt dương vật của ông ta, khiến ông mang thai và sinh ra những đứa con của Anu, bao gồm Ishtar và anh trai Teshub, thần bão Hitti.

Trong Iliad,[89] Aphrodite là con gái của thần Zeus và Dione. Tên của Dione dường như là dạng giống cái của danh từ Dios/Dion, tức là dạng gián tiếp của tên thần Zeus. Zeus và Dione cùng được thờ phụng ở Dodona phía tây bắc Hy Lạp. Trong Theogonía, Hēsíodos khẳng định Dione là một Oceanid.

Tranh khảm La Mã thế kỷ I của Mars và Venus từ cổ trấn Pompeii

Aphrodite luôn được miêu tả là một người phụ nữ trưởng thành gợi dục, vô cùng ham muốn và không có tuổi thơ. Bà thường được mô tả khỏa thân. Trong Iliad, Aphrodite là vợ chưa cưới của thần chiến tranh Ares và vợ của Hephaestus là nữ thần Charis. Trong Theogonía, Aphrodite chưa lập gia đình và nữ thần Aglaea, trẻ nhất trong ba Charites, mới là vợ của Hephaestus.

Tuy nhiên, trong Cuốn 8 của thiên sử Odyssey, ca sĩ mù Demodocus cho hay Aphrodite là vợ của Hephaestus và kể về việc bà ngoại tình với Ares trong cuộc chiến thành Troia. Thần mặt trời Helios nhìn thấy Aphrodite và Ares ân ái trên giường của Hephaestus bèn báo cho ông để tạo ra một cái lưới vàng. Lần tiếp theo khi Ares và Aphrodite ân ái, tấm lưới bắt được cả hai người họ. Hephaestus mời tất cả các vị thần vào phòng ngủ để cười nhạo những kẻ ngoại tình bị bắt tại trận, nhưng Apollo, Hermes và Poseidon thương cảm cho Ares quá nên Poseidon trả tiền chuộc cho Hephaestus để thả Ares. Nhục nhã, Aphrodite trở về đảo Síp, nơi bà được các Charites chào đón. Câu chuyện này có lẽ bắt nguồn từ một sự tích dân gian Hy Lạp, có nguồn gốc độc lập và không liên quan tới sử thi Odyssey.

Nhiều câu chuyện cổ đã được sáng tác để giải thích cuộc hôn nhân giữa Aphrodite và Hephaestus. Trong câu chuyện nổi tiếng nhất, Zeus phải vội gả Aphrodite cho Hephaestus để ngăn các nam thần tranh giành bà. Trong một dị bản khác, Hephaestus dâng cho thân mẫu Hera một ngai vàng, nhưng khi Hera ngồi lên nó thì không thể đứng dậy được nữa. Hephaestus ra điều kiện rằng ông sẽ không giải phóng bà chừng nào bà còn không đồng ý gả Aphrodite cho ông. Hera đành phải chiều ý vị thần. Hephaestus mừng rỡ khi được kết hôn với nữ thần sắc đẹp, liền tạo ra những món đồ trang sức tuyệt mỹ cho Aphrodite, bao gồm một cái strophion (στρόφιον, yếm Hy Lạp) gọi là κεστὸν ἱμάντα, áo lót có hình dạng bắt chéo (thường được dịch là “dây nịt”), làm lộ ra bộ ngực và làm cho bà càng trở nên không thể cưỡng lại đối với cánh đàn ông. Cái strophion như vậy thường được mô tả trong các bức họa vẽ các nữ thần Cận Đông Ishtar và Atargatis.

Bài thánh ca Homeros đầu tiên cho Aphrodite (Thánh ca 5), ​​có lẽ được sáng tác vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7 TCN, kể về lần Zeus từng trở nên khó chịu với Aphrodite vì khiến các vị thần phải lòng người phàm trần, do vậy ông đã khiến bà phải lòng Anchises, một chàng chăn cừu đẹp mã sống dưới chân núi Ida gần thành Troia. Aphrodite xuất hiện trước Anchises trong hình hài một trinh nữ cao ráo, xinh đẹp. Anchises nhìn thấy cô gái mặc quần áo sáng màu và trang sức lấp lánh, với bộ ngực tỏa ánh hào quang thần thánh, bèn hỏi rằng liệu nàng ta có phải là Aphrodite hay không, và hứa sẽ xây cất một đền thờ cho nàng trên đỉnh núi nếu nàng ban phước cho gia đình anh.

Aphrodite nói dối rằng nàng không phải là nữ thần, mà là con gái của một trong những mái ấm gia đình quý tộc tại Phrygia. Nàng lý giải rằng mình hoàn toàn có thể hiểu ngôn từ Troia vì nàng từng được một nhũ mẫu người Troia nuôi nấng khi còn nhỏ và nói thêm rằng nàng bị Hermes bắt cóc rồi mang tới đây trong lúc đang nhảy múa tại lễ tôn vinh Artemis, nữ thần của trinh tiết. Aphrodite nói với anh rằng nàng vẫn còn trinh tiết và cầu xin anh ta đưa ra mắt cha mẹ. Anchises ngay lập tức ngập tràn trong dục vọng điên cuồng và thề rằng sẽ ân ái với nàng. Anchises vác Aphrodite lên giường trải lông sư tử và gấu. Sau đó, anh lột trần và làm tình với nàng .

Sau khi đã ân ái xong, Aphrodite tiết lộ hình dạng thần thánh thực sự. Anchises sợ hãi, nhưng Aphrodite an ủi anh và hứa rằng nàng sẽ sinh cho anh ta một đứa con trai. Nàng tiên tri rằng con trai của họ sẽ là á thần Aeneas, sau này sẽ được nuôi dưỡng bởi các thần nữ của vùng hoang dã 5 năm trước khi được gửi đến thành Troia để trở thành một nhà quý tộc như cha mình. Câu chuyện về sự thụ thai của Aeneas cũng được đề cập trong Theogonía và trong Quyển II của Iliad’.[113]

aryballos Attic bởi Aison (k. 410 TCN) mô tả cảnh Aphrodite kết thân với BìnhAttic bởi Aison ( 410 TCN ) miêu tả cảnh Aphrodite kết thân với Adonis, người đang ngồi và chơi đàn lia Eros đứng sau chàng

Một phần của bình cưới Attic (k. 430–420 TCN), mô tả cảnh các phụ nữ trèo lên mái nhà mang theo “vườn của Adonis”

Truyền thuyết về Aphrodite và Adonis có lẽ bắt nguồn từ truyền thuyết về Inanna và Dumuzid của người Sumer cổ đại. Danh từ ἌδωἌδως (Adōni, phát âm tiếng Hy Lạp: [ádɔːni]) tiếng Hy Lạp bắt nguồn từ ʼadōn trong tiếng Canaan, nghĩa là “chúa tể”. Adonis được nhắc đến lần đầu tiên trong một bài thơ sáng tác bởi nữ thi sĩ Sappho của Lesbos vào thế kỷ thứ 7 TCN, trong đó có đoạn điệp khúc của các cô gái trẻ hỏi Aphrodite họ có thể làm gì để thương tiếc cái chết của Adonis. Aphrodite trả lời rằng họ phải đập ngực và xé áo dài. Các văn liệu sau đó có nói thêm về câu chuyện với nhiều chi tiết hơn: Adonis là con trai của Myrrha, người bị Aphrodite nguyền rủa với lòng ham muốn vô độ đối với cha mình, Vua Cinyras của Síp, sau khi mẹ của Myrrha khoe khoang rằng con gái mình đẹp hơn cả nữ thần. Bị đuổi ra ngoài sau khi mang thai, Myrrha biến thành cây một dược (Myrrh), nhưng vẫn sinh ra Adonis.

Aphrodite tìm thấy đứa bé và đưa nó xuống âm ti để được Persephone nuôi dưỡng. Bà quay lại khi anh ta trưởng thành và phát hiện ra anh ta rất đẹp trai. Persephone muốn giữ Adonis, dẫn đến một đại chiến giành quyền nuôi con giữa hai nữ thần. Zeus xử lý tranh chấp bằng cách chấp thuận đồng ý cho Adonis dành một phần ba năm của anh ở với Aphrodite, một phần ba với Persephone và một phần ba với bất kể ai anh chọn. Adonis đã chọn dành thời hạn đó với Aphrodite. Sau đó, một ngày nọ, khi Adonis đang đi săn, anh ta bị thương bởi một con lợn rừng và chết trong vòng tay của Aphrodite .

Có chuyện kể Ares là người gửi con lợn rừng bởi ông ghen tị rằng Aphrodite đã dành quá nhiều thời gian với Adonis, có chuyện lại kể Artemis là người gửi con lợn rừng bởi bà muốn trả thù Aphrodite vì đã giết người bầy tớ Hippolytus. Câu chuyện cũng cung cấp một nguyên nhân cho sự liên kết của Aphrodite với những bông hoa nhất định. Được biết rằng, khi bà thương tiếc cái chết của Adonis, Aphrodite đã tạo ra hoa phong quỳ ở bất cứ nơi nào máu của Adonis rơi xuống, và tuyên bố một lễ hội vào ngày mất của anh. Có một dị bản giải thích rằng bông hoa hồng có màu đỏ thực chất là do máu của Aphrodite vì bà đã dùng gai của loài hoa đó để tự làm mình thương. Theo tác phẩm De Dea Syria (Về Nữ thần Syria) của Lucian, hằng năm cứ vào dịp lễ hội Adonis, sông Adonis ở Lebanon (nay là sông Abraham) lại tuôn máu đỏ.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://thevesta.vn
Category: Giải Trí