Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật học

phat imagephat image

Đạo Phật, thầy bổn sư của tôi dậy, đạo Phật là đạo của sự tỉnh thức, của sự giác ngộ. Có thể là giác ngộ toàn phần, như Phật tổ. Có thể là giác ngộ từng phần như Phật tử, vì là giác ngộ từng phần nên chúng ta cần tu học thường xuyên mỗi ngày, mỗi ngày để thêm tinh tấn, mỗi ngày là một giác ngộ, thêm một phần hơn ngày hôm qua. Mong là vậy.

… Pháp môn vô lượng thệ nguyện học ! Phật tử học hoài, càng đi càng xa, càng thấy mình nhỏ bé, cần được khai thị, để đồng cảm, cảm nhận thêm đạo vị. Vì sao ư ? Câu vấn đáp, tôi xin lại được nhắc lại lời thầy bổn sư tôi, là cuộc sống không có gì vĩnh cửu, trước những vô thường đó, tất cả chúng ta có những cảm nhận biến hóa đến từ mọi người xung quanh, đến từ chính mình. Những cảm nhận đến từ cuộc chiến tranh, từ dịch bệnh, từ đói khát thiếu thốn và đến cả từ dư thừa. Một mớ rối loạn lỉnh kỉnh đó, có lúc làm ta trầm cảm, stress ! Do đấy ta càng phải thức tỉnh, theo lời dạy của đạo, là quay về bên trong để tìm thấy vạn vật như nó chính là nó và hơn nữa là để hoàn toàn có thể thấy tâm bình an, nói như thầy tôi là phải tu học Phật pháp. Tu học, thầy bảo là có vạn pháp và « pháp môn vô lượng thệ nguyện học ». May mà tất cả chúng ta có vô lượng pháp môn để tùy duyên mà học mà tu. Chúng ta hoàn toàn có thể bám víu vào từng phần của pháp để tu học. Nhưng thầy tôi cũng dậy là dựa vào từng phần của pháp, cũng có nghĩa là dựa vào tổng thể những pháp. Điều này, tôi rất tâm đắc khi nghe thầy Thích Minh Niệm chứng tỏ là, pháp không đứng riêng không liên quan gì đến nhau mà những pháp đều đứng cùng nhau và nương dựa vào nhau. Điều này thâm thúy, xa vời quá, vì năng lực hạn chế, tôi chỉ hiểu lơ mơ. Nên tôi muốn học về pháp môn mà thầy Minh Niệm giảng là trí tuệ lớn, trí tuệ bát nhã. Hồi tôi còn trẻ, thầy bổn sư có giảng cho chúng tôi về bi trí dũng và luôn nhắc chúng tôi là phải từ bi, là « thương người như thể thương thân … » thầy lặp đi lặp lại nhiều lần và hoàn toàn có thể chúng tôi cũng hiểu gần gần và cũng hành rất gần gần thôi. Rồi nay đã gần nửa thế kỷ qua đi, thầy chúng tôi không còn nữa. Chùa Quan Âm thì vẫn còn đó. Tôi lơ mơ vọng tưởng ý của thầy, pháp một phần đã theo thầy tôi, thầy Thích Thông Bửu. Và pháp cũng vẫn còn ở lại đó, ở trong chúng tôi, và ở đó, nơi chùa Quan Âm. Cuộc đời thầy « Thương hải biến vi tang điền », 50 năm qua đi với nhiều đổi khác, khó mà kể hết nổi. Nhưng tiến lại gần hơn, trong những năm gần đây, nhất là trong những ngày cách ly vì dịch bệnh ( 2019 – 2021 ), vì mắc kẹt ở nhà chúng tôi không lui tới chùa liên tục. Ở nhà luôn luôn, tôi có thời cơ học tu qua mạng, qua youtube, trên internet hay tablette v.v … May có cơ duyên, một ngày, tôi gặp thầy Thích Minh Niệm trên giảng tòa của chùa Huệ Nghiêm ( Hồ Chí Minh ) tôi gặp thầy, sau đó, nhiều lần nữa, như qua những buổi pháp thoại : — Trí tuệ tuyệt đối ( Panna – paramita ) — Sự hiến tặngtuyệt đối ( dana – paramita ) — Sự nhẫn nhục tuyệt đối ( ksanti – paramita ) Rồi tôi cũng suôn sẻ được gặp bài giảng của thầyThích Thái Hòa về giới định tuệ ( con xin tôn kính tri ơn những thầy giảng sư ) A Di Đà Phật ! Một vô tình hơn nữa, có một hôm, rất tùy duyên, tôi gặp thầy Minh Niệm ở chùa Quan Âm ( ở Phú Nhuận ) đương nhiên thầy giảng qua mạng, nhưng rất rõ ràng, rất dễ hiểu … nói vậy mà không biết tôi có hiểu đúng không và có hiểu hết không ? A Di Đà Phật ! Thầy giảng ở chùa của tôi, chùa Quan Âm ngày ấy, vẫn cảnh cũ, những lùm cây và tháp Quan Âm … chùa với sân gạch đỏ, với tháp cao lừng lững, thầy của tôi thì không còn đó … cây bồ đề vẫn xanh tươi ! Nhìn thầy Minh Niệm ngồi thế chỗ thầy Thông Bửu lòng tôi rưng rưng muốn khóc : « Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo / Nền cũ thành tháp bóng tịch dương ». ( thơ Bà Huyện Thanh Quan ). Hồi tưởng là hồi tưởng, ấy phút qua đi. Hồi tưởng vô thường qua đi. Mình quan sát thực tại mà ! Tôi đã như mong muốn được trở lại với thời xưa, thầy Thích Minh Niệm hiện hữu đó, và tôi có suôn sẻ, có phước đức, mà nghe được bài pháp của thầy, thầy nói là thầy đang giảng pháp đại thừa. Tôi thật xúc động với những lời chân truyền của thầy Thích Minh Niệm : Thầy giảng về Trí tuệ lớn, còn gọi là trí tuệ bát nhã hay trí tuệ tuyệt đối, là một độ khó hiểu nhứt trong lục độ. Trí tuệ là cái hiểu biết mà con người ta ai cũng cần phải có không ít. Trí tuệ còn gọi là tuệ giác. Tuệ giác là sự hiểu biết lớn và đứng đắn, là đang đi trên con đường sáng tỏ, trong lành của Phật. Con đường mang tới niềm hạnh phúc và giải thoát. Trái nghĩa của tuệ giác là vô minh, là tâm mê mờ, tâm mê mờ dẫn tới nghiệp quả khổ đau. Viết tới đây, tự nhiên, tôi hồi tưởng tới rất lâu rồi, tôi đã có lần chỉ lên đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mà bạch thầy Thông Bửu là : « Tại sao Phật lại có cây kiếm là sao thưa thầy ? » « Ngài dùng cây kiếm đó để chọc thủng màn vô minh của chúng sanh, chớ không phải cây kiếm đó để tạo nghiệp sát, phải dùng kiếm vì màn vô minh đó rất dầy và trưởng thành, phải đâm thủng để có trí tuệ ! » Lại nói tiếp lời giảng của thầy Minh Niệm : Con người ta cần nhiều trí tuệ. Người hay hành giả có trí tuệ lớn, rất lớn, rất to lớn, lên tới vô cực, gọi là trí tuệ tuyệt đối, còn gọi là trí tuệ ba la mật. Trí tuệ còn gọi là tuệ giác. Nhưng đến khi đến tuệ giác, phải có những quy trình tiến độ như tri giác, trực giác rồi sau mới đến tuệ giác. Tri giác à Trực giác à Tuệ giác. Trực giác là cái biết đến giật mình, dựa qua những kinh nghiệm tay nghề ứng dụng trong đời sống. Tuệ giác : Tuệ giác đến lúc tâm bình an nhất, là hoa trái của chánh niệm đang quản lý và vận hành. Có nghĩa là hành giả thực tập chánh niệm sao cho thuần thục, không cần cố gắng nỗ lực, chánh niệm có ở mỗi lúc mỗi nơi, luôn luôn có, tự nhiên có. Khi không cần tâm lý. Không lý luận. Không nghiên cứu và phân tích. Thì tuệ giác sẽ đến từ tâm bình an. Có nghĩa là tuệ giác sẽ đến khi hành giả không mong cầu, không mắc kẹt trong những ý niệm, phạm trù ( như cao thấp / trên đưới / đến đi v.v … ). Vậy tuệ giác chỉ có khi tâm bình an và yên ổn là không tham sân si. Tuệ giác cần tích hợp quản lý và vận hành của Văn tuệ / Tư tuệ. Là một tích hợp thuần thục của Tu tuệ / Văn tuệ. Là văn bản, là tầm cỡ để tìm hiểu và khám phá để học hỏi để đi tới tuệ giác. Nhưng những văn tuệ này không phải của đức Phật viết. Khi xưa, ngài chỉ thuyết giảng mà không có ghi viết kinh. Các tầm cỡ sau này được chép, được in qua nhiều quốc độ, nhiều thời kỳ như : Kinh Pháp Hoa ; Kinh Kim Cang ; Kinh Hoa Nghiêm ; Kinh A Na Luật Đà, v.v … Đều là người sau ghi chép lại, gồm có liễu nghĩa kinh và bất liễu nghĩa kinh. Nhưng làm thế nào tất cả chúng ta biết rõ những kinh nào là liễu nghĩa kinh nào là bất liễu nghĩa kinh. Có thể có những bản kinh người ta ghi chép còn không đúng suôn sẻ của Phật tổ, bởi có sự số lượng giới hạn và sự bất lực của ngôn từ. Vả lại kinh sách quá nhiều, quá đồ sộ, làm thế nào và trong bao lâu tất cả chúng ta đọc và hiểu được hết tầm cỡ ? Vậy thì cứ đọc và cứ tìm hiểu và khám phá được đến đâu hay đến đó. Song song với tin học văn tuệ, hành giả Phật tử nên tìm kiếm thời cơ nghe giảng pháp nơi những bậc thầy trí tuệ, có nhiều phẩm chất đạo đức qua tu tập và kinh nghiệm tay nghề, để được khai thị. Thầy Minh Niệm bước sang phần II : Tư tuệ là tư duy về tầm cỡ, về cách gật đầu những sáng tạo độc đáo lớn từ những bậc thầy lớn. Thầy giảng là : cũng như tầm cỡ và cũng như những bài pháp thoại, hành giả phải tâm lý với chánh niệm để nắm vững những giáo lý cơ bản để không mất thời hạn. Thí dụ, văn phải Giao hàng tuệ. Văn không ship hàng tuệ là không được khi học Phật qua tầm cỡ, khi pháp thoại, hành giả phải tâm lý, phải gạn lọc, để nắm vững những giáo lý cơ bản, những cốt lõi của giáo điều, để tìm thấy chìa khóa đúng nhất, đi vào Phật pháp mà không mất nhiều thời hạn. Đó là trí tuệ, tư duy về tầm cỡ, tư duy về cách thực hành thực tế để hiểu sâu tầm cỡ và hiểu đúng.

 

Thí dụ, hành giả đi vào tứ niệm xứ. Phật tử hoàn toàn có thể tâm lý về tầm cỡ. Hành giả hoàn toàn có thể tâm lý về những bài pháp thoại : thầy của mình lấy những kinh nghiệm tay nghề ở đâu khai thị cho mình ? Mình hoàn toàn có thể gạn lọc qua tâm lý, qua chánh niệm, qua kinh nghiệm tay nghề tu tập : hành giả được quyền nghi ngờ và sàng lọc. Vì đại nghi cũng là đại ngộ. Người học Phật không ngừng ở những tiếp xúc cơ bản, mà chỉ ngừng ở những tiếp xúc cơ bản, mà chỉ ngừng ở những giáo lý cơ bản nhất để được soi sáng để được khai thị, để đạt tới tuệ giác lớn : Sắc tức thị không / Không tức thị sắc. Giảng đến đây thầy chuyên tâm lắm, mà chúng tôi mở màn lơ mơ ( không hiểu sâu lắm ! ) “ Sắc tức thị không / Không tức thị sắc ”. Thầy Minh Niệm nói đây là giáo lý của bát nhã. Nhưng có lúc phải để giáo lý tầm cỡ qua một bên, phải quay vô trong, tìm thầy ở bên trong là tìm Phật nơi tâm của hành giả. Và mỗi ngày, hằng ngày, niệm bát nhã tâm kinh, thì nên học để sống với bát nhã tâm kinh. Có nghĩa là tu trên những gì đã tiếp thu, cũng tựa như, học kinh Pháp Hoa thì tập tu trên tinh thần kinh Pháp Hoa. Trở lại phương trình : Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Sắc = không, không = sắc. Thọ = không, không = thọ. Tưởng = không, không = tưởng. Hành = không, không = hành. Thức = không, không = thức. Vậy ngũ uẩn là không, thì tìm đâu ra vô ngã ? Tìm ở ngay ngã, trong ngã, có vô ngã. Đi từ tướng thấy vô tướng. Đi từ ngã thấy vô ngã. Và khi bỏ chánh niệm vô, sẽ thấy tuệ giác, đó là trí tuệ bát nhã. Vậy trí tuệ bát nhã là một cái nhìn, một sự quan sát qua những đổi khác của một vật hay một sự kiện. Thí dụ : nhìn một núi tuyết thấy một đồi cỏ xanh ở bên trong ! Trên niềm tin bát nhã tâm kinh, sự hiểu biết gọi là tuệ giác khi đạt tới cái hiểu biết vô thường là khi đạt tới một cái gì không phải là của mình ( vô ngã ) thì mới là hiệu quả, là hoa trái của chánh niệm, của đạo pháp. Tuệ giác phải đến từ Tâm quân bình, Tâm buông xả, Tâm sáng suốt. Tuệ giác lúc này ví như ánh sáng mặt trời, tuệ giác đang thấy phiền não lôi kéo, nhưng thây kệ phiền não, nó là những vô thường, đến rồi đi. Tuệ giác đang an ổn và không hề cố chấp. Và ở đầu cuối, thầy Minh Niệm chốt lại ở một định nghĩa :

Tuệ giác là cái thấy chân thật của chính mình và vạn pháp.

Vạn pháp luôn kết nối, hợp tác và nuôi dưỡng qua lại. Không có pháp nào sống sót riêng không liên quan gì đến nhau. Trong một cái thấy vô ngã thì không có pháp nào sống sót riêng không liên quan gì đến nhau. Thí dụ, một hành giả, một ngã, cứ gọi là một ngã to đùng đi ( vì chưa có chánh niệm ! ) Cũng không hề sinh ra và sống sót một mình, ta do cha mẹ, ông bà nội ngoại sinh ra và nuôi dưỡng, ta do thầy tổ giáo dục, ta sống nhờ cơm gạo, không khí, nước và cả thiên hà này … vậy cái ngã to đùng đó, luôn phải kết nối trong một hợp thể để sống sót, và như thế đó, ta là vô ngã. Trong cái thấy vô ngã, những pháp trùng duyên khởi nhắc lại là : Không có pháp nào sống sót riêng không liên quan gì đến nhau A ảnh hưởng tác động trên B, B tương tác trên A, B lại ảnh hưởng tác động trên A, A tương tác trên B. Sự tác động ảnh hưởng qua lại gọi là tương tác, người nghĩ tới mình thì mình sẽ nghĩ tới người, ta sống là nhờ vạn vật, nhờ quốc tế bát ngát xung quanh ta, đùm bọc qua lại, chứ ta không sống được một mình ( niềm tin vô ngã bộc lộ ). Rồi bởi sự tương tác đó, có sự tâm lý liên hệ, có sự yêu thương, san sẻ và quyết tử. Cho nên trí tuệ phải đưa tới từ bi. Và trí tuệ lớn sẽ đưa tới từ bi lớn. Trí tuệ tuyệt đối đưa tới từ bi tuyệt đối.

Trong trí tuệ tuyệt đối, người ta sẽ nhận ra rằng: Không có con người sai lầm, chỉ có hành động sai lầm.

Không có con người sai lầm đáng tiếc : bản thể. Chỉ có hành vi sai lầm đáng tiếc : hiện tượng kỳ lạ. Hành động là nhất thời, là hiện tượng kỳ lạ, là tích môn. Con người là bản thể, là bản môn. Nhận diện được bản thể và bản môn là trọng điểm của vạn vật, một vạn vật đồng nhất thể, thì mới chính là con Phật, mới gọi là Phật tử. Tích môn, hay hiên tượng hoàn toàn có thể đến rồi đi. Còn bản môn là bản thể, và tuệ giác là cái thấy của bản thể. Của thực chất. Bản chất của tổng thể mọi người, mọi vật là bình đẳng, nghĩa là toàn bộ đều cùng chung, đứng chung trên một dòng sinh mệnh.

Từ ý niệm đó, đạo pháp có thể chứng minh A và B và vạn pháp tương tức với nhau tiến sang một quy luật vô ngã cao hơn là: A = B, có nghĩa là A tương tức B. A và B bình đẳng.

Thầy Thích Minh Niệm đã rất hoan hỉ chốt lại bài giảng bằng hai câu thơ : “ Thanh tủy vô ưu, nhân phong tằng diện Thanh sơn giai bất, vị tuyết bạch đầu ”.

Trong cái thế giới hữu hình của toàn thể con người, hiện tượng là nhất thời, không vĩnh viễn, bạn và tôi, khác nhau, giầu nghèo, sang hèn, sung sướng khổ sở… tất cả đều thấy đó, nhưng còn có một cái vô hình chúng ta ít thấy rõ, đó là luật bình đẳng là chúng ta cùng chung một dòng sinh mệnh. Vậy, chúng ta hãy thương người như thể thương thân, hãy cầu nguyện cho dân tộc Ukraine bớt đau khổ, A Di Đà Phật.

Chúc Thanh

( Paris, 3/2022 )

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp