Những ngôn ngữ Đức Phật sử dụng khi thuyết pháp là gì?

Đây không phải một chuyên khảo luận về đề tài ngôn ngữ thời đức Phật, chỉ là ghi lại vài tâm lý bất chợt, nên không hề cung ứng nhu yếu tìm hiểu và khám phá Phật pháp đa diện của những bậc thức giả muốn điều tra và nghiên cứu sâu rộng .>> Phật tử hoàn toàn có thể đọc loạt bài về Đức Phật Nếu muốn yên cầu chứng tỏ đa diện, dẫn chứng đơn cử, luận bàn cụ thể, thì bài viết này không hề thỏa mãn nhu cầu nhu yếu đó.

1. Thổ ngữ Magādhi

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Bài liên quan

Những câu chuyện ám hại Đức PhậtThời bấy giờ, khi Thế Tôn trụ thế, trong bảy chúng đệ tử của ngài có nhiều sắc dân khác nhau, nên lúc chưa nhập vào Bát Niết-bàn [ 1 ], ngài đã công bố, diễn thuyết Pháp tạng bằng nhiều loại thổ ngữ khác nhau của Ấn-độ. Ngôn ngữ được Ngài sử dụng nhiều nhất là Magādhi, vì đây là ngôn ngữ của sắc dân chính Magadha và đa phần là đệ tử của Ngài. Cho nên, trong những hội nghị kết tập tầm cỡ một, hai và ba, đa số đều sử dụng ngôn ngữ Magādhi để kết tập. Bước đầu truyền bá và khẩu truyền tầm cỡ, Tăng già thời đức Phật đa số sử dụng ngôn ngữ Magādhi này. Như thế, tầm cỡ Nguyên thủy khởi đầu bằng tiếng Magādhi vào thời đại vua Aśoka ( A-dục ) và hoàn hảo bằng truyền tụng mà không phải bằng văn bản.

2. Ngôn ngữ Pāli

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Hệ thống kinh tạng này truyền đến xứ Avanti ( A-bàn-đề quốc ), trên bờ phía bắc sông Narmada, thì tại đây hai loại ngôn ngữ Magādhi và Avanti đã phối hợp với nhau tạo thành ngôn ngữ Pāli phôi thai. Và tầm cỡ nguyên thủy bằng Magādhi đã được dịch ra ngôn ngữ Pāli phôi thai này tại xứ Ujjayini ( Ô-xa-diễn-ni ), thủ phủ của Avanti. Từ nơi xứ avanti, Ngài Mahinda – hoàng tử của vua Aśoka là học trò của Ngài Kātyāyana ( Ca-chiên-diên ) mang tạng kinh khẩu dịch bằng Pāli phôi thai này đi thuyền dọc theo vịnh Oman đến truyền bá tại Sri Lanka ( Tích Lan ).

3. Ngôn ngữ Sanskrit

Bài liên quan

Các nhà khoa học nói gì về Đức Phật?Cũng từ thủ phủ Ujjayini của xứ Avanti, kinh tạng khẩu truyền bằng tiếng Magādhi lại được truyền lên phương Bắc, tiếp giáp với Ngũ Hà nơi thổ ngữ Prakrit, đây là loại thổ ngữ cổ của tiếng Sanskrit.

Tại vùng Ngũ Hà này, một số kinh điển được dịch ra bằng tiếng Prakrit. Ngày nay, các nhà khảo cổ học, sử học đã phát hiện ra nhiều đoạn phiến được ghi lại bằng ngôn ngữ này trên lá bối.

Kinh tạng nguyên thủy bằng ngôn ngữ Magādhi lại truyền tụng đến vùng Kashmir, là nơi quê nhà của cổ ngữ Veda ( Phệ-đà ). Ngày nay, ở Kashmir, người ta phát hiện nhiều văn bản gồm có cả tiếng Phạn trộn lẫn với Magādhi được cho phép ta có cơ sở phỏng đoán điều này. Dầu thần thoại cổ xưa cho rằng những người con của Vua Aśoka, sống 100 năm trước Tây lịch, đã đem những tầm cỡ bắt nguồn từ hệ Magādhi này, truyền bá đến những vùng thuộc Trung đông và Trung Á … điều chắc như đinh nhất mà ta hoàn toàn có thể nói là lúc bấy giờ ta có trên thủ bản kinh tạng chép bằng tiếng Sanskrit, lần lượt được những nhà Phật học người Anh, Nhật, Đức và Pháp tìm thấy ở Népal, Trung Á, Kotan và Kucha ( quê nhà ngài Kumārajīva ). Các luận sư thuộc Hữu bộ đã lập địa thế căn cứ hoằng pháp tại đây vào thời vua Aśoka, khoảng chừng thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Tại Kashmir, tiếng Sanskrit cổ ngữ, có lai tạp 1 số ít thổ ngữ khác, đã được gạn lọc và tiêu chuẩn thành Sanskrit thuần chủng.

4. Hình thành hai tạng kinh Agāma và Pāli

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Bài liên quan

Đức Phật dạy về 3 loại hạnh phúcCác Tăng sĩ đã sử dụng loại Sanskrit thuần chủng này để phiên dịch và san định lại tầm cỡ, gọi là Agāma [ 3 ] ( kinh Tạng A-hàm ). Tuy nhiên, lúc bấy giờ những nhà nghiên cứu đã phát hiện ra nhiều bản kinh tạng nguyên thủy bằng tiếng Sanskrit tạp chủng. Còn tạng kinh nguyên thủy Pāli, tuy đã được truyền từ xứ Avanti đến Sri Lanka bởi Ngài Mahinda thời vua Aśoka, nhưng phải đợi đến thời Ngài Buddhaghoṣa ( Phật Âm ) sinh ra vào khoảng chừng thế kỷ thứ V, Tây lịch mới san định và tổng tập lài thành văn bản Pāli hoàn hảo và ca tụng là Nikāya [ 4 ]. Tóm lại, những yếu tố Ngôn ngữ thời đức Phật, phản ánh không chỉ một nền văn hoá mà cả một tiến trình lịch sử vẻ vang, một bức tranh sinh động về đời sống thời Thế Tôn. Chú thích :

[1] Hay Bát-niết-bàn giới般涅槃界, Skt. Parinirvāṇa- dhātu, (Tib. ཡོངས་སུ་མྱ་ངན་ལས་འདས་པ་ yongs su mya ngan las ‘das pa), tiếp đầu ngữ: pari (bát 般): hoàn toàn, trọn vẹn.

[ 2 ] Hiện tại, Ấn độ có khoảng chừng 14 hệ ngôn ngữ, với khoảng chừng hơn 45 thứ tiếng khác nhau. Cf. Andrew Simpson ( 2007 ). “ Language and national identity in Asia ”, James W. Tollefson ( 2002 ). “ Language policies in education : critical issues ”. [ 3 ] āgama do động từ căn ā √ gam : nghĩa đen là sự đã đi đến, nên āgama : hàm nghĩa là sự truyền thừa, sự truyền lại. [ 4 ] Nikāya do động từ Ni-kāya : thân, bộ phận, phần, hiệp tập thành bộ loại.

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp