Những điều Phật tử cần biết về sám hối, tụng Kinh, niệm Phật

Sám hối, tụng kinh, niệm Phật là những phương pháp sơ đẳng nhưng vô cùng thiết yếu cho toàn bộ những người tu Phật. Đây là hình thức có tính cách tín ngưỡng như thờ Phật, lạy Phật, cúng Phật vậy, nhưng ẩn bên trong là ý nghĩa của giáo pháp, tất cả chúng ta không hề không khám phá cho thấu đáo .Phật tử tại gia nên trì Kinh nào để có được hiệu suất cao tốt nhất ?

Sám hối, tụng kinh, niệm Phật của đa phần đại chúng đồ hiện nay đã một phần nào sai lạc mất ý nghĩa cao đẹp của nó; đôi khi bị rơi vào thủ tục hình thức hoặc lấy phương tiện làm cứu cánh, đi xa tôn chỉ của đạo giác ngộ vậy.

Là những người học Phật chân chánh, chúng ta cần phải biết rõ, đâu là hình thức của ngoại đạo tà giáo, nơi nào nhuốm màu mê tín.

Vậy trước khi đi vào nội dung này, tất cả chúng ta cần hiểu qua những sai lầm đáng tiếc ấy để kiểm soát và điều chỉnh cho đúng đắn.

1. Quan niệm sám hối là hết tội

Điều tiên phong tất cả chúng ta cần minh định rằng, từ “ sám hối ” chỉ riêng đạo Phật mới có ; còn trần gian và ngoại đạo tuy lập ngữ tựa như nhưng xô lệch ý nghĩa rất nhiều. Đó là những hình thức tạ lỗi, xin lỗi, chuộc tội hay rửa tội !. – Làm điều gì đó khiếm lễ, sai lầm đáng tiếc so với kẻ khác thì người ta “ xin lỗi ” bằng lời nói, bằng cung cách cúi đầu tự hối hoăc hoàn toàn có thể bằng hiện vật, quà Tặng Kèm … – Phạm tội với triều đình thì người ta “ lập công chuộc tội ”. – Có lỗi với ông bà, cha mẹ, dòng họ, làng nước thì người ta thiết lễ mâm trầu rượu, heo gà, tài lộc hay quả phẩm để “ tạ tội ”. – Thiên chúa giáo ý niệm “ rửa tội ” là hết tội. – Bà-la-môn giáo thì rửa tội bằng cách lấy máu súc vật để tạ tội với thần linh hoặc xuống sông Hằng tắm rửa cho sạch tội. Đôi khi Fan Hâm mộ tôn giáo này lại sắm phẩm vật cúng tế nhiều ngày để mong thần linh xá tội và ban phước. Quan niệm tu hạnh ép xác, hành thân hoại thể với cầu mong diệt trừ hết tội lỗi cũng được tôn giáo này xem trọng. – Lại có người tu Phật với ý niệm : Cứ lạy sám hối cho thật nhiều, nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Lạy sám hối với lòng thành khẩn, nhiệt tâm thì không những bao nhiêu tội lỗi tạo tác trong đời đều được dứt sạch ; mà cho chí những tội lỗi tiền khiên, ngủ ngầm trong nhiều đời kiếp thảy đều diệt vong !. – Cũng có 1 số ít Fan Hâm mộ tu Phật đến trước tượng Phật, Bồ-tát mà sám hối. Không phải họ sám hối một lần, hai lần mà hoàn toàn có thể sám hối cả hàng trăm lần như vậy ; chỉ khi nào thấy Phật, Bồ-tát đến xoa đầu, thấy hào quang chư Phật, thấy hoa sen tịnh độ thì mới thôi, thì mới hết tội … ! Ý nghĩa sám hối không chỉ đơn thuần là chừa bỏ ác xấu mà còn phát triển những hạnh lành nữa vậy.

Ý nghĩa sám hối không chỉ đơn thuần là chừa bỏ ác xấu mà còn phát triển những hạnh lành nữa vậy.

Sám hối là tốt. Sám hối nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Tuy nhiên, tổng thể những ý niệm rửa tội, chuộc tội kể trên là của trần gian và ngoại đạo, không phải là ý nghĩa sám hối của đạo Phật. Còn những người tu Phật mà sám hối với cầu mong rửa sạch tổng thể tội, kể cả tội tiền khiên thì hẳn là không được đúng. Đã gây nhân ác, thì phải bị quả khổ. Nếu do sự cải hối, lánh ác, làm lành thì quả báo ác nghiệp hoàn toàn có thể nhẹ đi chứ không hề diệt mất đi được. Các tội ngủ ngầm dù lâu xa, quá nặng như tội giết cha mẹ ( 1 ), ví như tôn giả Mục Kiền Liên – thì lại càng không hề dù cho ngài đã chứng quả Thánh – vẫn bị trả quả quá khứ. Còn nữa, nếu sám hối mà thấy Phật, Bồ-tát đến xoa đầu, thấy hoa sen tịnh độ, tuy là triệu chứng tốt, là do “ tưởng ” sinh ra nhưng đấy chỉ là ảo giác ! Và nếu thấy hào quang, ánh sáng … thì đơn thuần chỉ là hiện tượng kỳ lạ thông thường khi có sự chú tâm cao độ, sự tập trung chuyên sâu tâm ý đến độ thuần thục, chuyên nhất ! Nó chính là phỉ ( pīti ) ở trong năm thiền chi : tầm ( vitakka ), tứ ( vicāra ), phỉ ( pīti ), lạc ( sukha ), và nhất tâm ( ekaggatā ). Ý nghĩa chữ Kinh trong Phật giáo

2. Quan niệm về tụng kinh siêu độ

– Nếu tụng kinh mà “ siêu độ ” được thì người ta chẳng cần làm lành, lánh ác làm gì ! – Nếu tụng kinh mà “ siêu độ ” được thì người Phật tử chẳng cần phải tu tập bố thí, trì giới, thập thiện … làm gì cho mất thời giờ, tốn công phu, tiền tài vô ích !. – Nếu tụng kinh mà “ siêu độ ” được thì những kẻ làm ăn phạm pháp, bất chánh – vốn lắm tiền nhiều của – hoàn toàn có thể hối lộ cho định luật nhân quả thì kiếp sau sẽ được an vui, sung sướng hết hay sao ? Than ôi ! những ý niệm tụng kinh siêu độ ấy thật là đáng phàn nàn làm thế nào ! Chẳng biết vô tình hay hữu ý, tất cả chúng ta đã nhấn chìm tư tưởng thanh cao, thoát trần của đạo Phật xuống cho vừa tầm với tham vọng dung thường của con người !. Tụng kinh là hai thời khóa công phu của chư Tăng Ni và chúng điệu ở bất kỳ một ngôi chùa, tự viện nào.

Tụng kinh là hai thời khóa công phu của chư Tăng Ni và chúng điệu ở bất kỳ một ngôi chùa, tự viện nào.

Ngoài ra, tất cả chúng ta còn cần phải hiểu rằng, những hình thức về chuông, trống, xướng, tán … đều là phương tiện đi lại của những bộ phái tăng trưởng sau này. Các nước Phật giáo Theravāda đôi nơi có sử dụng chuông ; nhưng mõ, trống, xướng, tán chỉ xuất hiện trong những quốc độ mang ảnh hưởng tác động không ít niềm tin “ nhạc lễ ” của Khổng Nho ! Tinh thần nhạc lễ ấy rất hay, rất tương thích với tâm địa đại chúng, rất khế hợp với tình cảm của con người nhưng đấy chỉ là phương tiện đi lại quyền biến mà thôi. Người Phật tử thật sự có tu giới, tu định, có tham thiền niệm Phật, thì thật sự không cần những phương tiện đi lại bên ngoài ấy ảnh hưởng tác động tương hỗ.

3. Quan niệm “niệm Phật” có thể giải thoát sinh tử, chứng Niết-bàn

Chúng ta đều hiểu rằng, giới định tuệ là con đường tu tập của người xuất gia ; và, bố thí, trì giới, tham thiền là con đường tụ tập của người cư sĩ. Tham thiền là từ gọi chung chỉ cho thiền định, thiền quán. Niệm Phật là một pháp môn của thiền định. Người ta đã gom lại và gọi chung là tham thiền, niệm Phật. Do vậy, bố thí, trì giới và tham thiền niệm Phật, chúng liên hệ hỗ tương thiết cốt với nhau. Là ba yếu tố cần và đủ cho người cư sĩ. Nếu niệm Phật mà không có bố thí, trì giới thì chỉ là xây thành tháp trên cát. Có bố thí, có trì giới mà hiểu và hành niệm Phật một cách sai lầm thì cũng uổng phí cho sự tu tập vậy. Chúng ta cần phải hiểu rằng : – Niệm Phật thật sự rất quyền lợi nếu hiểu đúng và hành đúng. Nó là pháp môn thuận tiện nhất dành cho đại chúng. Các pháp môn khác thuộc thiền định hoặc thiền tuệ thường yên cầu nhiều kỹ năng và kiến thức giáo pháp phong phú và phức tạp hơn hoặc cần có thiền sư đích thực hướng dẫn. Niệm Phật không chỉ có niệm Phật ( Buddho ) mà hoàn toàn có thể niệm cả 9 hồng danh khác nữa, ví dụ Arahaṃ ( Ứng Cúng ), Sammāsambuddho ( Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Giác ) … – Niệm Phật và cả niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên … chỉ đưa đến cận hành định, không hề đạt an chỉ định ! Chưa đạt an chỉ định là chưa đạt sơ thiền ! Chưa đắc định sơ thiền là chưa có định sung mãn. Chưa có định sung mãn, lại chưa tu tập tuệ thì làm thế nào hoàn toàn có thể nói niệm Phật có năng lực giải thoát sinh tử, chứng quả Niết-bàn ! ? Sự hiểu nhầm đáng tiếc này là nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn bộ tất cả chúng ta, của những người tu Phật, học Phật. Mong rằng, là Phật tử, tất cả chúng ta cần trang bị cho mình con mắt Pháp, con mắt Tuệ để thấy cho thật rõ cơ bản giáo pháp. Gần gũi hơn, là phải khám phá thế nào là sám hối, tụng kinh và niệm Phật một cách đúng đắn để đem lại quyền lợi thiết thực, đơn cử cho mình và người. Mong rằng, là Phật tử, chúng ta cần trang bị cho mình con mắt Pháp, con mắt Tuệ để thấy cho thật rõ căn bản giáo pháp.

Mong rằng, là Phật tử, chúng ta cần trang bị cho mình con mắt Pháp, con mắt Tuệ để thấy cho thật rõ căn bản giáo pháp.

Sám hối

Tất cả chúng sanh còn trôi lăn luân hồi, còn xuống lên, chìm nổi giữa dòng sinh tử ái hà ; còn bập bềnh lặn hụp giữa đại dương sinh tử khổ đau ; còn long dong phiêu bồng và vô định trên mọi nẻo vinh quang hư ảo lẫn tối tăm mịt mùng nơi ba cõi, sáu đường thì không một ai có nội tâm được trắng bạch như vỏ ốc. Không một ai được trọn vẹn vô tội, trong sáng. Ai cũng có nhiều nhiễm ô, bụi bặm bụi bờ, dơ bẩn, đen đúa, phiền não. Bụi trần và tội lỗi truyền kiếp, nhiều kiếp phủ dày trong tâm lý tất cả chúng ta như tro xỉ, như bụi than … ! Ngoại trừ những tội lỗi tiền khiên, ngủ ngầm, ẩn kín trong khu rừng già hoang nguyên, âm u, bí hiểm nhiều đời của tự ngã ; tất cả chúng ta không thấy, không biết nên không hề sám hối được. Nhưng những tội lỗi tất cả chúng ta đã làm trong kiếp hiện tại, nếu không phải là ngũ nghịch đại tội, mà chỉ do thân, khẩu, ý bất tịnh đều hoàn toàn có thể sám hối được. Sám hối đúng đắn có công suất và diệu dụng rất thù thắng, thật là khác xa với những ý niệm xô lệch vừa dẫn lược ở trên. 1. Sám hối là gì ? Nguồn gốc của nghĩa sám hối là do từ chữ posatha hay uposatha ( 2 ), chỉ có nghĩa đơn thuần là ngày thọ trì Bát quan trai giới hay là ngày đọc tụng giới bổn của tỳ-khưu Tăng. Theo Phật giáo Nam Tông, Bát quan trai giới mỗi tháng có 8 ngày, nếu tính thêm ngày rước và ngày đưa ( trước và sau ) thì có 12 ngày. – Người Phật tử hoàn toàn có thể nguyện thọ trì mỗi tháng bao nhiêu ngày, 2 ngày hoặc 4 ngày đều được cả. Mỗi lần như vậy, họ nguyện giữ 8 giới trong một ngày, một đêm. Đây là những ngày mà họ hoàn toàn có thể sám hối, nhất là những ngày lệ thường sóc vọng – 14, 30 mỗi tháng. – Tỳ-khưu Tăng thì mỗi tháng hai lần tụng giới bổn. Và dịp này, chính mỗi vị phải sám hối những giới phạm của mình. Có tội sám hối được, có tội không sám hối được ( 3 ). 2. Cách thức sám hối Theo Phật giáo Theravāda thì phương pháp sám hối rất đơn thuần. – Vào những ngày 14 và 30 mỗi tháng, Phật tử đến chùa làm phước, bố thí, xin giới và làm lễ sám hối, nghe pháp … Dịp này, Phật tử tụng kinh Tam Bảo, đối trước điện Phật hoặc đối trước Tăng đọc lời sám hối hoặc tụng bài kinh sám hối. Họ cũng thường xin chư Tăng truyền thọ lại Ngũ giới hoặc Bát quan trai giới. Xin thọ trì giới trở lại, hoàn toàn có thể bất kỳ khi nào, trong những lễ trai tăng, cúng dường, nghe pháp hoặc những lễ chúc phúc an lành … Nếu không đến chùa được thì Phật tử hoàn toàn có thể sám hối và xin giới ngay bàn thờ cúng Phật ở trong nhà rồi nguyện thọ trì giới cho được trong sáng từ nay về sau. – Với hàng xuất gia thì có 227 điều luật, tùy theo nặng nhẹ mà trục xuất, cấm phòng hay sám hối. Những giới hoàn toàn có thể sám hối được đều tương tợ nhau, nghĩa là vị tỳ-khưu phạm giới trình giới tội của mình với vị tỳ-khưu cao hạ. Và sự đối đáp xẩy ra như nhau : Hiền giả đã “ thấy rõ tội ” chưa ? Vị phạm giới đáp : Thưa vâng, bạch tôn giả, con “ đã thấy rõ tội ” rồi ! Sau đó vị sư cao hạ khuyên pháp đệ của mình cố gắng nỗ lực giữ giới cho trong sáng. Cách thức sám hối này rất trong sáng, không mang sắc tố tín ngưỡng, mà trái lại ; tỏ lộ tình cảm đạo lý, giúp người phạm giới sau khi “ thấy tội ” của mình rồi, nguyện chừa bỏ để nỗ lực tu tập cho tốt hơn. Phật dạy không nên có tâm ỷ lại người khác 3. Ý nghĩa sám hối Như vậy, sám hối của Phật giáo điển hình nổi bật hai ý nghĩa chính là : Ăn năn xin chừa bỏ lỗi trước và nguyện cải hối, làm lành lánh dữ từ đây về sau. Sám hối những giới đã phạm : Nếu tội lỗi mà có hình tướng thì dẫu cả hư không vô tận kia cũng không chứa hết tội lỗi của chúng sanh đã tạo tác từ vô thủy đến nay. Quả vậy, tất cả chúng ta đã từ vô lượng kiếp trôi lăn, tội lỗi chất chồng, lớp này lớp kia, truyền nối nhiều đời thật không kể xiết được. Vừa lọt lòng mẹ, tất cả chúng ta đã mang sẵn nhiều chủng nghiệp khác nhau, tạo nên những đậm cá tính khác nhau. Ai ai cũng chứa đầy những giống loại tâm ý, tính tình, năng lực, thói quen, ác tật phức tạp. Những tham, sân, mạn, tật đố, hiềm hận, bạc ơn, phản phúc, bỏn xẻn … đã có khá đầy đủ ở trong mỗi tất cả chúng ta. Các hạt giống này đã có sẵn, do duyên sanh, hiện hành … làm nhân, làm quả tương tục, liên miên, bất tận. Tất cả những “ tiền khiên tội lỗi ” ấy, chúng đã đâm chân mọc rễ nhiều đời, mọi phương cách sám hối đều không hề rửa sạch. Chỉ có tu tuệ quán mới hoàn toàn có thể bứng nhổ được một phần nào. Và cũng hoàn toàn có thể, có một số ít chúng tử xấu ác trong vô thức, tất cả chúng ta không tạo nhân tham sân để cho nó duyên khởi, như ngũ cốc để trong kho lâu ngày thì mầm giống sẽ tự tiêu hoại. Tuy nhiên, những tội lỗi tất cả chúng ta làm trong hiện tại, sau khi sám hối, nguyện ăn năn chừa bỏ, tất cả chúng ta sẽ thấy thân tâm thư thái, nhẹ nhàng, sẽ không còn bị ám ảnh về tội lỗi nữa. Thoát khỏi ám ảnh tội lỗi ( 4 ) là ý nghĩa rất quan trọng, rất có quyền lợi do nhờ sám hối đúng đắn mang lại. Nguyện từ nay về sau xin chừa bỏ : Khi đã xin từ bỏ thì sẽ không còn dám tái phạm, từ nay về sau nỗ lực sống cho tốt hơn, nỗ lực tăng trưởng những hạnh lành, những đức tính thanh cao. Quả vậy, nếu xấu ác là quá nhiều như hư không vô tận không hề chứa hết thì những hạnh lành, những đức tính tốt đẹp, cao quý ở trong tâm tất cả chúng ta có được từ “ vô thỉ dĩ lai ” ( 5 ) cũng nhiều đến vô biên vô lượng. Những đức tính ấy, những thiện pháp thanh lương và cao sáng ấy ví dụ như : Chân thật, nhẫn nại, từ ái, đức tin, tấn, niệm, vô tham, vô sân, tàm, quý … Ý nghĩa sám hối không chỉ đơn thuần là chừa bỏ ác xấu mà còn tăng trưởng những hạnh lành nữa vậy. Phải làm cho những cái xấu ác không có thời cơ nẩy nở, tăng trưởng ; mà tất cả chúng ta phải tạo duyên, điều kiện kèm theo tốt cho những mầm giống thiện nẩy sinh, đâm chồi, ra hoa, kết trái nữa. Mà nếu như vậy thì ý nghĩa, giá trị của sám hối là phải tu tập Tứ chánh cần ở trong 37 trợ đạo phẩm : – Tinh tấn làm cho những ác niệm đã sanh phải tuyệt dứt ( Ác dĩ sanh, sử trừ đoạn ). – Tinh tấn ngăn giữ những ác niệm chưa sanh, đừng cho sanh khởi ( Ác vị sanh, sử bất sanh ). – Tinh tấn làm cho niệm lành chưa sanh, được sanh ( Thiện vị sanh, sử phát sanh ). – Tinh tấn làm cho những niệm lành đã sanh, được tăng trưởng ( Thiện dĩ sanh, sử tăng trưởng ). Nói tóm lại, nhờ sám hối, con người hoàn toàn có thể cải hóa được những cái xấu ác trong lòng mình, hoàn toàn có thể được an vui, thanh thản do si mê đã lỡ tạo tác ác nghiệp, phạm giới trong quá khứ. Ngoài ra, ta còn có thời cơ tăng trưởng những đức tính tốt đem lại niềm hạnh phúc cho mình và người. Chân nghĩa sám hối phải thật sự như những câu Kinh Lời Vàng sau đây : “ Trước kia phóng túng mê mờ, Ngày sau tỉnh niệm hướng bờ giác xa ; Đưa tay vén đám mây qua, Vầng trăng ló dạng nguy nga hạ huyền ”. ( Pháp cú 172 ) “ Hồi đầu làm những hạnh lành, Xóa mờ ác nghiệp đã sanh thuở nào ; Trí nhân chiếu sáng trần lao, Trời quang, mây tạnh, trăng sao đời này ”. ( Pháp cú 173 )

Tụng Kinh

Câu kinh tiếng kệ khi đã khắc sâu vào vô thức rồi thì chính vô thức ấy sẽ tác động ý thức, dẫn dắt ý thức, ảnh hưởng ý thức và chuyển hóa được ý thức.

Câu kinh tiếng kệ khi đã khắc sâu vào vô thức rồi thì chính vô thức ấy sẽ tác động ý thức, dẫn dắt ý thức, ảnh hưởng ý thức và chuyển hóa được ý thức.

Tụng kinh là hai thời khóa công phu của chư Tăng Ni và chúng điệu ở bất kỳ một ngôi chùa, tự viện nào. Hành trì hai khóa lễ kinh tụng là sinh hoạt cần thiết không thể thiếu được, ngoại trừ những tu viện, thiền viện chuyên tu thiền định, thiền quán (thay vì tụng kinh là giờ thiền tọa hay kinh hành).

Người cư sĩ tại gia sau khi thọ quy giới, có tôn trí bàn thờ cúng Phật, thì tụng kinh cũng là một cách tu tập giản dị nhưng lại có quyền lợi thiết thực cho mình và mái ấm gia đình mình vậy. 1. Tụng kinh là gì ? Tụng là đọc. Tụng kinh là đọc lên thành tiếng những bài kinh do Phật thuyết, hoặc bằng Phạn văn hoặc bằng Việt văn – đã dịch thể văn xuôi hay văn vần. Gọi chung là kinh nhưng gồm toàn bộ kệ ngôn hoặc kệ thơ được trích từ những bài kinh ngắn. Đôi khi cũng hoàn toàn có thể là những bài kệ khuyến tu do những người học Phật sáng tác, tự nhắc nhở mình và đại chúng trên con đường giác ngộ, giải thoát. 2. Phải tụng kinh như thế nào ? Tụng kinh không nên đọc quá to, quá nhanh, cũng không nên đọc quá nhỏ, mà nên tụng chậm rãi, khoan thai, bình hòa, an tịnh … Khi tụng, phải trọn vẹn chú tâm vào lời kinh, lời kệ ; phải trọn vẹn tự chủ, không thay đổi, chánh niệm. Không nên kéo dài hơi ê, a … ngân nga như ngâm thơ. Chỉ cần giữ uyển chuyển vần điệu, không nên chú trọng quá đến hình thức “ nhạc lễ ” của Trung Quốc. Nói tóm lại là phải giữ cho được niềm tin trong sáng, thanh thoát và giản dị và đơn giản của đạo Giác Ngộ. 3. Lợi ích của tụng kinh Tụng kinh là pháp môn tu tập tương đối thuận tiện, không những dành cho đại chúng, những kẻ sơ cơ mà người học Phật lâu năm cũng không nên xem thường. Tụng kinh có những quyền lợi sau đây : Thấy được lý kinh : Cứ tụng đi tụng lại mãi những câu kinh, với nghĩa lý đôi khi không hiểu hết, nhưng chợt trong một lúc nào đó, ta trực nhận ra một vài ý nghĩa rất sâu xa ở bên trong. Đôi khi lại từ thường ngữ, thường nghĩa của kinh, ta lãnh hội được pháp ngữ, pháp nghĩa của kinh nữa vậy. Huân tập vào vô thức những hạt giống lành : Nếu không trực nhận được những nghĩa lý sâu xa, vi diệu của kinh thì vô thức ta cũng có dịp ghi nhận và khắc sâu câu kinh, tiếng kệ ấy. Có nhiều người tụng kinh nhiều, vô thức họ đã thuộc làu nên hoàn toàn có thể tụng kinh cả trong giấc ngủ. Có trường hợp nằm thấy mộng dữ – kinh hoàng, ghê sợ – hoàn toàn có thể tụng kinh ngay trong giấc mộng ấy, tức khắc được an lành, bảo đảm an toàn. Câu kinh tiếng kệ khi đã khắc sâu vào vô thức rồi thì chính vô thức ấy sẽ ảnh hưởng tác động ý thức, dẫn dắt ý thức, tác động ảnh hưởng ý thức và chuyển hóa được ý thức. Và rồi đến một lúc nào đó, vô thức đã được huân tập bởi lời kinh tiếng kệ ấy, sẽ thay tâm đổi tánh con người. Biến một con người xấu ra tốt, biến người độc ác, hung ác thành người hiền lành, từ ái ; biến người bộp chộp, nóng nảy thành người trầm tĩnh, không thay đổi … Hạnh phúc theo lời Phật dạy Đối trị với tạp niệm, phiền não : Tâm ý chúng sanh giống như con vượn chuyền cành, con khỉ nhảy nhót lung tung, con ngựa bất kham ham thích dong ruổi ( tâm viên, ý mã ). Tâm ý ấy luôn lăng xăng, phóng dật, buông lung … đúng như mấy câu Kinh Lời Vàng : “ Tâm ta khinh động không an tâm, Kiếm tìm dục lạc chạy quàng, chạy xiêng ”. “ Khó thay trì nhiếp tâm người, Chập chờn, giao động vạn đời không yên ”. Rõ ràng là tâm ý ấy không khi nào yên được, bình lặng được, nó luôn lăng xăng, loay hoay tìm kiếm đối tượng người dùng ngoại trần ưa thích. Đau khổ từ đó xuất hiện mà phiền não cũng từ đó mà dấy sinh. Khi tụng kinh với tâm biết an trú, chánh niệm – thì phiền não, tạp niệm không có thời cơ xen vào mà nó sẽ tự động hóa lắng dứt vậy. Ba nghiệp thân khẩu ý trọn lành : Khi tụng kinh thì : – Thân không sát sanh, trộm cắp, tà hạnh. – Khẩu không nói dối, hai lưỡi, độc ác, ỷ ngữ. – Ý không tham, sân và tà kiến. Như vậy cả 10 nghiệp lành đều được trọn hảo, tốt đẹp, thanh tịnh. Tạo năng lượng tương hỗ cho thường nghiệp và tập quán nghiệp : Thường nghiệp hay tập quán nghiệp là những nghiệp thường làm trong đời sống hàng ngày mà thành thói quen, thành tập quán. Là một trong những nghiệp quan trọng quyết định hành động tâm thức tái sinh. Ví như người đồ tể do thói quen giết vật, lúc lâm chung thường thấy cảnh đâm giết, máu đổ. Ví như người hay lễ lạy, cúng hoa, tụng kinh, chiêm bái xá-lợi Phật … lúc lâm chung thấy bảo tháp, đức Phật, cảnh giới đẹp tươi, huy hoàng. Tụng kinh lâu ngày thành thói quen tốt, tập quán nghiệp tốt sẽ quyết định hành động, tương hỗ cho kiết sanh thức tìm kiếm cảnh giới thanh lương, cao sáng, an lành. Cảm hóa được mái ấm gia đình và mọi người xung quanh : Nhờ câu kinh, tiếng kệ hàng ngày mà trong mái ấm gia đình và mọi người chung quanh bớt những câu truyện vô ích, phù phiếm, những chuyện “ ngồi lê đôi mách ”, “ đâm bị thóc, thọc bị gạo ”, những chuyện nhạt nhẽo vô duyên – đôi lúc chúng là nguyên do của bất hòa và phiền não. Gia đình và mọi người xung quanh như được bao trùm bởi những năng nượng tốt đẹp, không khí hướng thượng, thanh cao và thoáng mát. Được nhiều quả báu tốt đẹp : Người tụng kinh thường hưởng được những quả báu tốt đẹp cho đời này và đời sau : – Miệng thơm tho. – Phiền não lắng dịu. – Có uy tín trong mái ấm gia đình và ngoài xã hội. – Tâm hồn luôn định tịnh, thoáng mát. – Nhân sanh nhàn cảnh … Nói tóm lại, với những quyền lợi như vậy, người Phật tử tại gia dù trăm công nghìn chuyện, nhưng cũng phải nỗ lực công phu. Không tiếp tục hàng ngày được thì cũng nên giữ mỗi tháng 2 ngày, 4 ngày … hoặc vào những ngày Bát quan trai giới. Pháp môn này dễ triển khai nhưng công suất của nó không thua kém những pháp môn thiền định khác.

Niệm Phật

Pháp môn niệm Phật là một thành trì ngăn giữ hữu hiệu tội lỗi, tàm quý tăng trưởng, tấn, định, đức tin... đều được thêm sức mạnh.

Pháp môn niệm Phật là một thành trì ngăn giữ hữu hiệu tội lỗi, tàm quý tăng trưởng, tấn, định, đức tin… đều được thêm sức mạnh.

Tụng kinh và niệm Phật thường song song với nhau, nhưng chúng có chỗ giống nhau, có chỗ khác nhau. – Tụng kinh vừa hiểu được lý nghĩa của kinh vừa đối trị với loạn tâm – tức là cũng đưa đến định tâm ( với nghĩa tâm không loạn ). – Niệm Phật yên cầu sự tập trung chuyên sâu tâm ý chuyên nhất hơn nên sẽ đưa đến định ( cận hành định ). – Tụng kinh không thuộc đề mục thiền định, nhưng mà niệm Phật thì thuộc 1 trong 40 đề mục thiền định. – Niệm Phật nằm trong “ Thập tùy niệm ” sau đây : Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm Giới, niệm thiên, niệm tịch tịnh ( Niết-bàn ), niệm sự chết, niệm thân ( 32 thể trược ), niệm hơi thở. Lưu ý : Trong 10 niệm nầy, 8 đối tượng người tiêu dùng đầu chỉ đưa đến cận hành định ; niệm 32 thể trược đắc sơ thiền ; niệm hơi thở hoàn toàn có thể đắc đến tứ thiền, và nếu phối hợp với minh sát, hoàn toàn có thể đắc tứ đạo quả. Niệm Phật là niệm như thế nào ? Niệm do từ “ sati ” là ghi nhớ, ghi nhận, chú tâm – thường sử dụng trong những đề mục thiền, có năng lực đạt an chỉ định, tức sơ thiền. Niệm Phật không dùng “ sati ” mà phải sử dụng “ anussati ”, nghĩa là tùy niệm, theo dõi niệm, niệm luôn luôn, niệm liên tục. Niệm Phật nhưng ta phải hiểu là có cả thảy 9 hồng danh sau đây : – Arahaṃ : A-la-hán, Ứng Cúng ; Sammāsambuddho : Chánh Biến Tri ; Vijjācaranasampanno : Minh Hạnh Túc ; Sugato : Thiện Thệ ; Lokavidū : Thế Gian Giải ; Anuttaro purisadammasārathi : Vô thượng Điều Ngự Trượng Phu ; Satthādevamanussānaṃ : Thiên Nhơn Sư ; Buddho : Phật ; Bhagava : Thế Tôn Trong 9 hồng danh này, tùy theo tâm cảm, sở trường thích nghi, người tu Phật lựa chọn cho mình một hồng ân thích hợp làm đề mục tùy niệm cho mình. Như vậy, khi đã lựa chọn rồi thì mình phải sẵn sàng chuẩn bị tu tập như một hành giả đang khởi sự tu tập thiền định vậy. Họa, phước trong nhà Phật Có bao nhiêu cách niệm ? Ví dụ : Hành giả chọn “ Arahaṃ ”, sau đó hoàn toàn có thể niệm theo nhiều cách sau đây : Danh niệm : Là đọc cái tên lên. Đọc “ Arahaṃ, Arahaṃ ” … liên tục, không gián đoạn. Cách niệm này là quá trình sơ khởi giúp hành giả xua đuổi tạp niệm và an trú tâm. Tâm niệm : Là niệm thầm, niệm trong tâm ( không thành lời còn được gọi là mặc niệm ) “ Arahaṃ, Arahaṃ ” … một cách liên tục, không gián đoạn. Mục đích cũng tương tự danh niệm nhưng tâm được an trú sâu hơn.

Ân đức niệm: Là niệm ân đức, đức tánh của vị A-la-hán. Đấy là 3 đức tánh sau:

Vô sanh : Bậc đã trọn vẹn thanh tịnh, đã diệt tận nhiễm ô, không còn dấy khởi sanh niệm phiền não, không còn trôi lăn, chìm đắm trong 3 cõi, 6 đường nữa. Ứng cúng : Bậc ấy đã dứt sạch tổng thể mọi lỗi lầm, thân khẩu ý của ngài đều được trọn lành, xứng danh cho chư thiên và trái đất tán thán, cung kính, cúng dường. Sát tặc : Bậc ấy đã tàn phá toàn bộ căm xe sinh tử, đã thắng lợi tổng thể giặc phiền não … Ân đức niệm này thuộc về “ tưởng niệm ”, giúp cho hành giả tăng trưởng đức tin, lìa triền cái, bớt tham đắm, tâm lắng dịu tham sân phiền não, được an nhàn và thanh tịnh. Lợi ích của niệm Phật : “ Danh niệm ” hoặc “ tâm niệm ” ( mặc niệm ) tuy là đề mục thiền định nhưng cốt ý để đối trị tạp niệm, thất niệm, loạn niệm ; tuy tâm được an trú nhưng cao nhất chỉ đạt cận hành định chứ không hề đạt an chỉ định ( tức định sơ thiền ). Sở dĩ như vậy, là vì muốn đắc định Sắc Giới, đối tượng người dùng phải là sắc pháp ( ví dụ đất, nước, lửa … ). Trong trường hợp ấy, hành giả lần lượt đoạn trừ 5 triền cái do 5 thiền chi phát sanh : Tầm ( vitakka ) ® Hôn trầm, thụy miên Tứ ( vicāra ) ® Nghi Phỉ ( pīti ) ® Sân Lạc ( sukha ) ® Trạo cử Nhất tâm ( ekaggatā ) ® Dục Sau lạc ( sukha ), tức là sau an tĩnh nội tâm, đối tượng người dùng sắc pháp ấy, ví dụ bát đất do tưởng sinh, nó sẽ tròn sáng như mặt trăng giữa khung trời không mây ; hành giả trú vào “ quang tướng ” ấy để đi vào cận hành định rồi an chỉ định. Cận hành định thuộc thiện Dục Giới tâm, còn an chỉ định đã vào cõi Sắc Giới. Còn những đối tượng người dùng như 8 tùy niệm ở trên không hề gom thành “ nhất điểm tròn sáng ” được nên trong thời điểm tạm thời lắng dịu tham sân, phiền não, nội tâm an nhàn, tĩnh chỉ của cận hành định. Ân đức niệm, cũng tương tợ vậy, do quá nhiều đức tính chi phối nên cũng không hề gom thành nhất điểm nên chỉ đạt cận hành định. Tuy nhiên, pháp môn niệm Phật là một thành trì ngăn giữ hữu hiệu tội lỗi, tàm quý tăng trưởng, tấn, định, đức tin … đều được thêm sức mạnh. Ngoài ra, giữa cuộc sống, trong những lúc tương giao, ứng xử ; người có pháp môn niệm Phật thuận tiện vượt qua nghịch cảnh, thuận tiện đối trị với những phiền não từ xung quanh mang đến. Kết luận. Sám hối, tụng kinh, niệm Phật mới nghe qua tưởng là tầm thường, nhưng nếu học hiểu và thực hành thực tế cho thấu đáo thì chúng thường mang đến hiệu quả tức thời, hữu hiệu. Lại nữa, một pháp môn dẫu có sơ cơ, đại chúng ; nhưng nếu hiểu toàn vẹn lý nghĩa, biết cách vận dụng, ứng dụng, chăm chuyên hành trì thì quyền lợi của nó rất thù thắng vậy. Thật đúng như câu thơ : “ Ai ơi ! niệm Phật tụng kinh, Nghe ra thì dễ, thực hành thực tế khó thay ; Chuyên tâm tụng niệm hằng ngày, Phúc lành trổ quả đầy cây, đầy lòng ”. Giới thiệu một bài kệ tụng sám hối :

 KỆ SÁM NGUYỆN

Đệ tử chúng con Trước đài Tam Bảo Kính lạy Đức Phật Vô lượng Pháp Bảo Cùng Thánh, Hiền Tăng Chúng con đã bao đời bao kiếp trôi lăn Giữa dòng sanh tử Vô minh sai sử Ái dục trầm luân Đã bao đời bao kiếp mê lầm Tham lam, nóng giận Ngã mạn, kiêu căng Ham ngủ, ham ăn Tình ái trói trăn Buộc ràng, khổ luỵ Đã bao kiếp đảo điên, mộng mị Khát dục, hoang mê Chẳng biết nẻo về Lầm than ba cõi Mịt mờ sáu nẻo Khổ báo không rời Nay nhờ ơn Phật sinh ra Duyên lành mới biết Từ lâu mê muội Làm những việc ác Giết hại sinh linh Làm khổ hữu tình Chẳng lòng thương xót Lại có lúc trộm tài, cướp của Tà mạng nuôi thân Nuôi cháu con mình Hoặc nuôi quyến thuộc Đã bao kiếp trăng hoa dâm dục Lừa vợ con người Sang đoạt chồng người Hoặc lời giả dối Đâm thọc hai đầu Ác khẩu hại nhau Ngọt ngào đường mật Lại có lúc quở Trời, trách Phật Chửi mẹ, mắng cha Chè rượu say sưa Cố tật không chừa Tâm cuồng, trí loạn Phá xóm, hại làng Nằm bờ, té bụi Đệ tử đã từ lâu u tối Ác nghiệp khôn ngăn Nay nhờ oai Phật vô biên Chí thành, tâm sám Đã muôn kiếp long dong vất vưởng Ham muốn đầy lòng Hỷ nộ vô chừng Gây nên nghiệp chướng Vì si mê, tối tăm xui khiến Chẳng rõ chánh, tà Làm bạn quỷ ma Chẳng tin nhân quả Không tin phước tội Đời này, đời sau Rơi vào ác đạo Quả báo ê chề Khổ não trăm bề Như thân bèo dạt Tợ kiếp mây trôi Luân hồi vô định Khổ tà kiến làm thế nào kể xiết Nghiệp si mê biết lấy chi cân Nay nhờ oai Phật vô biên Chí thành, tâm sám Ngày hôm nay con xin quy mạng Phát nguyện lời thề Tránh xa điều dữ Chăm thao tác lành Giữ năm giới cấm Sống theo thập thiện Bỏ chỗ tối tìm về chỗ sáng Lợi lạc quần sanh Lợi lạc cho mình Rất nhiều đời kiếp Pháp chư Phật quang minh, bất diệt Chỉ nẻo trần gian Ngưỡng cầu Tam Bảo vô biên Mở lòng thương xót Từ bi gia hộ Đệ tử chúng con Trí tuệ sáng suốt Thấy rõ đạo lý Ít bệnh, ít não Tinh tiến tu hành Ngưỡng cầu Tam Bảo vô biên Mở lòng thương xót Từ bi gia hộ Cha mẹ, tôn trưởng Ba cõi, bốn loài Đều được an vui Hằng nương phúc quả Nguyện chúng Tăng Lục Hòa, Tứ Nhiếp Giác ngộ, đức tài Trí bi gồm đủ Để tiếp thị, hoằng dương Pháp Bảo Khắp cả trời, người An vui tu học Chúng sanh vạn loài Thoát vòng sanh tử ( lạy ). Ghi chú : ( 1 ) Thuộc “ ngũ nghịch đại tội ” : Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm Phật ngã xuống và Chia rẽ Tăng ( phá hoà hợp Tăng ). 5 tội này có quả báo âm ti.

(2) Tàu âm là bố-tát.

( 3 ) Trong Tứ thanh tịnh giới : Có tội bị trục xuất không cho ở chung với Tăng ( bất cộng trụ ) ; có tội bị phạt cấm phòng ( Tăng tàn ) và có tội như tác ác, ưng đối trị … sám hối được. ( 4 ) Tâm sở hối ( kukkucca ) : Là trạng thái tâm hối hận, ray rứt, không an tâm, nóng nảy, lo ngại, bồn chồn, sợ hãi … nên thuộc về tâm sở bất thiện. Ngược lại là ăn năn sám hối ; sau khi ăn năn sám hối, tâm ta trở nên lắng dịu, nhẹ nhõm, thư thái … nên thuốc về tâm sở thiện ( khinh an : kāyalahutā cittalahutā ). ( 5 ) Vô thỉ dĩ lai : Vô thỉ là không có đầu, lai là lại – ý nói “ từ khởi thủy rất lâu xưa đến nay ”.

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp