Một số phương diện hoằng pháp theo tinh thần kinh Pháp Hoa

Đức Phật là một nhà hoằng pháp vĩ đại mẫu mực trong việc truyền tải giáo lý cho thính chúng qua kinh Pháp Hoa với những nghệ thuật và thẩm mỹ phương tiện đi lại tài tình khôn khéo. Để hoằng pháp hiệu suất cao theo kinh nghiệm tay nghề của Đức Phật giảng thuyết trong kinh Pháp Hoa nên bảo vệ những yếu tố như sau :

Tài đức của giảng sư

Giảng sư thuyết pháp cần hội đủ hai yếu tố kĩ năng và đức hạnh trên con đường hoằng pháp. Đức hạnh chính là đạo đức, phẩm hạnh, uy nghi phép tắc chuẩn chỉnh của bậc Thích tử thiền môn, giới hạnh tinh nghiêm, nếp sống thanh cao thoát trần, hạnh nguyện làm quyền lợi cho đạo và đời, bậc thầy khả kính mô phạm được mọi người tôn quý. Tài năng chính là thông hiểu tam tạng thánh giáo, sự thưởng thức tu tập tâm linh, hiểu biết tri thức quả đât, trang bị vừa đủ kỹ năng và kiến thức, phương tiện đi lại để truyền giáo hiệu suất cao thích, ứng tương thích với thời đại. Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật dạy rằng : “ Dược Vương ! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào, sau khi Đức Như Lai diệt độ muốn vì hàng bốn chúng mà nói kinh Pháp Hoa này thời phải nói cách thế nào ? – Người thiện nam, thiện nữ đó phải vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, rồi mới nên vì bốn chúng mà rộng nói Kinh này ” [ 1 ]. Giảng sư phải có tâm từ bi to lớn, lòng nhẫn nhục nhu hòa, nắm chắc được chân lý và phương tiện đi lại giáo pháp, phải tự quán chiếu bản thân chỉnh sửa lỗi lầm, trấn áp có chánh niệm ba nghiệp, trau dồi giới đức, đạo lực tu hành, chân tu thực học, có tận tâm dấn thân hành đạo giúp cho Phật pháp được vĩnh cửu quyền lợi chốn nhân gian.

Nhân duyên với giảng sư

Trong đạo tràng thuyết pháp, tuy vị giảng sư tuyên dương chính pháp ngoài tài năng đức độ là yếu tố quan trọng cảm hóa người nghe nhưng chưa đủ để thành tựu một pháp hội mà cần phải có thính chúng đủ duyên lành tham dự pháp hội. Với người không có duyên, dù giảng sư nói bao nhiêu lời cũng là thừa, còn như đã hữu duyên thì chỉ cần xuất hiện, giảng sư cũng có thể đánh thức mọi giác quan của thính chúng. Trong hội Pháp Hoa, “Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh văn cùng Duyên giác không thể đến được, khi Đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ, cả thảy năm nghìn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. Vì sao? Vì bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng thượng mạn, chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà cho đã chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại. Ðức Thế Tôn yên lặng không ngăn cản” [2].

Cái gốc của hoằng pháp Đức hạnh chính là đạo đức, phẩm hạnh, uy nghi phép tắc chuẩn chỉnh của bậc Thích tử thiền môn, giới hạnh tinh nghiêm, nếp sống thanh cao thoát trần, hạnh nguyện làm lợi ích cho đạo và đời, bậc thầy khả kính mô phạm được mọi người tôn quý.

Đức hạnh chính là đạo đức, phẩm hạnh, uy nghi phép tắc chuẩn chỉnh của bậc Thích tử thiền môn, giới hạnh tinh nghiêm, nếp sống thanh cao thoát trần, hạnh nguyện làm lợi ích cho đạo và đời, bậc thầy khả kính mô phạm được mọi người tôn quý.

Phật chỉ độ những người hữu duyên, mặc dầu sẵn sàng chuẩn bị đến giờ tuyên dương giáo pháp vi diệu Pháp Hoa nhưng thính chúng không tin nhận giáo pháp liền tự mình rời khỏi pháp hội, mất đi thời cơ ngàn năm một thuở so với giáo pháp vô thượng tối tôn, Đức Phật tùy duyên không ngăn cản. Vì vậy, khi giảng sư đăng đàn thuyết giảng chính pháp trong pháp hội, ai không đủ duyên nghe pháp, tất cả chúng ta cứ để tùy duyên. Bên cạnh đó, giảng sư trong đời sống hiện tại phải phát Tứ hoằng thệ nguyện, quảng kết hôn lành to lớn với chúng sinh vạn loại để tạo bồ đề quyến thuộc, thính chúng hiện tại và tương lai sát cánh cùng đi sang bến giác.

Thuyết pháp phù hợp với căn cơ, nhu cầu thính chúng

Đệ tử Phật có phúc đức nhân duyên nghiệp báo không đồng nhau, nhiều căn nguyên chủng tính trí tuệ khác nhau, sự thu nhận và hành trì phong phú nhiều mẫu mã nên trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật thuyết pháp phân loại ra thành ba phần khác nhau gồm : pháp thuyết chu, dụ thuyết chu và nhân duyên thuyết chu. Đối với hàng đại đệ tử thượng căn với trí tuệ sâu rộng sáng suốt đồng cảm được chính pháp như tôn giả Xá Lợi Phất thì Đức Phật thuyết pháp trực tiếp để độ đệ tử, hạng trung căn như tôn giả Tu Bồ Đề, Mục Kiền Liên … Thế Tôn thuyết pháp qua những thí dụ để hàng đệ tử thông hiểu, thực hành thực tế quán chiếu chứng đắc quả vị, còn hạng hạ căn thì Thế Tôn nói những nhân duyên thiện lành về kiếp quá khứ chư vị đệ tử từng gieo trồng, nay khuyến hóa liên tục hành trì tu tập để đạt quả vị thánh. Đức Phật tùy theo đối tượng người dùng thính chúng mà phương tiện đi lại thuyết giảng giáo pháp thành tam thừa cho tương thích nhằm mục đích độ thoát toàn bộ chúng sinh nhưng thật ra chỉ có nhất thừa : “ Xá Lợi Phất ! Ðức Như Lai chỉ dùng một Phật Thừa mà vì chúng sanh nói pháp không có những thừa hoặc hai hoặc ba khác ” [ 3 ]. Giảng sư thuyết pháp thành công xuất sắc, việc khám phá đối tượng người dùng nghe pháp, nhu yếu thính chúng là rất là quan trọng. Qua những câu hỏi tiếp xúc làm quen thính chúng, thăm dò đối tượng người dùng sẽ giúp giảng sư có thiện cảm bắt đầu tốt đẹp với thính chúng. Bên cạnh đó, giảng sư nắm được thông tin đối tượng người dùng thuyết giảng như : Trình độ Phật học, thế học, sở trường thích nghi, nhu yếu đối tượng người tiêu dùng nghe pháp, lứa tuổi, … để từ đó có sự kiểm soát và điều chỉnh bài giảng cho tương thích với trong thực tiễn nhằm mục đích đạt tác dụng hoằng pháp tốt nhất. Trong kinh Tương Ưng việc tìm hiểu và khám phá nền tảng nhu yếu đối tượng người dùng trước khi thuyết pháp được Thế Tôn rất là chú trọng : “ Thế Tôn trong khi nhìn đời với Phật nhãn, thấy có hạng chúng sinh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời ; có hạng lợi căn, độn căn ; có hạng tính thuận, tính nghịch ; có hạng dễ dạy, khó dạy ; 1 số ít thấy sự nguy khốn phải tái sinh quốc tế khác và sự nguy khốn của những hành vi lỗi lầm ” [ 4 ]. Một số đặc thù hoằng pháp của Đức Phật Giảng sư thuyết pháp cần hội đủ hai yếu tố tài năng và đức hạnh trên con đường hoằng pháp.

Giảng sư thuyết pháp cần hội đủ hai yếu tố tài năng và đức hạnh trên con đường hoằng pháp.

Thuyết pháp đúng thời

Bản kinh Pháp Hoa với giáo lý tối thượng thừa dành cho Bồ tát tu hành đạt quả vị Phật, khi thời hạn chưa đến căn nguyên chưa đủ thì pháp nói ra không đạt hiệu quả mà ngược lại hoàn toàn có thể làm cho đệ tử thối thất tâm Bồ đề. Trong phẩm thứ 7 kinh Pháp Hoa Phật dạy : “ Ðức Như Lai cũng lại như vậy, nay vì những ông mà làm vị Ðại Ðạo Sư, biết những đường dữ sinh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên bỏ nên vượt qua. Nếu như chúng sinh chỉ nghe một Phật thừa thời chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn thân mật ” [ 5 ]. Vì thế trong những năm đầu thuyết pháp, Đức Phật nói ngũ thừa pháp để độ nhân, thiên, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và đến những năm cuối cuộc sống Ngài khi thời gian đến Thế Tôn mới nói pháp nhất thừa, với tuệ giác quán chiếu Ngài biết nói sớm sẽ không tương thích với căn nguyên thính chúng. Buổi giảng pháp được thành tựu tốt đẹp nhu yếu vị giảng sự phải thuyết pháp đúng thời gian thích hợp như lời Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất : “ Pháp mầu như vậy, những Đức Phật Như Lai đến khi đúng thời mới nói đó như hoa linh thoại đến thời tiết mới hiện một lần. Xá Lợi Phất ! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng ” [ 6 ]. Hoa linh thoại đúng thời gian mới trổ hoa, người nghe pháp được quyền lợi nhất phải chọn thời gian thuyết giảng thích hợp, khi nhân duyên chín mùi người nghe sẽ thú vị liễu ngộ thâm thúy nghĩa lý trong kinh như người đói được ăn, người nghèo được của báu, người mù được sáng, người đi đêm được đèn …

Môi trường thuyết pháp

Giảng sư hoằng pháp phải xem xét văn hóa tín ngưỡng bản địa vùng miền, tôn trọng hài hòa trên tinh thần đoàn kết, phương tiện ứng dụng những lời Phật dạy phù hợp với thực tế… giúp cho quá trình truyền đạo được hanh thông thuận lợi, thính chúng dễ dàng hoan hỷ tiếp thu chính pháp.

Trú xứ cần sẵn sàng chuẩn bị đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh, môi trường tự nhiên thuyết giảng rất đầy đủ những cơ sở vật chất thiết yếu Giao hàng cho pháp sư và thính chúng trong buổi thuyết pháp như : âm thanh, ánh sáng, trang hoàng hội trường, điện, nước, bàn thuyết pháp, chỗ ngồi giảng sư thính chúng, … Trong kinh Pháp Hoa trước khi tuyên dương chính pháp Thế Tôn sẵn sàng chuẩn bị đạo tràng lý tưởng để thuyết giảng : “ Những nước của Phật biến hóa ra đó cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa trái đều có thứ lớp tốt đẹp, dưới cây đều có tòa báu sư tử cao năm do tuần, dùng những thứ báu để trau dồi. Những nước đó cũng không có biển cả sông ngòi và những núi lớn : núi Mục-chơn-lân-đà, núi Thiết-vi, núi Ðại Thiết-vi, núi Tu-di v.v … thông làm một cõi nước Phật, đất báu bằng thẳng, những báu xen lẫn nhau làm màn trùm khắp ở trên, treo những phan lọng, đốt hương báu lớn, những hoa trời báu trải khắp trên đất ” [ 7 ]. Hoằng pháp thời hội nhập Tài năng chính là thông hiểu tam tạng thánh giáo, sự trải nghiệm tu tập tâm linh, hiểu biết tri thức nhân loại, trang bị đầy đủ kỹ năng, phương tiện để truyền giáo hiệu quả thích, ứng phù hợp với thời đại.

Tài năng chính là thông hiểu tam tạng thánh giáo, sự trải nghiệm tu tập tâm linh, hiểu biết tri thức nhân loại, trang bị đầy đủ kỹ năng, phương tiện để truyền giáo hiệu quả thích, ứng phù hợp với thời đại.

Ngày nay trên bước đường hoằng truyền giáo pháp thời đại công nghệ tiên tiến số hóa, thời đại công nghệ thông tin, con người hoàn toàn có thể liên kết với nhau không số lượng giới hạn về mặt khoảng cách. Sứ giả Đức Như Lai với chủ trương đem ánh sáng từ bi trí tuệ, giáo lý Phật đà phổ độ nhân sinh, tất cả chúng ta cần phải trang bị kỹ năng và kiến thức nội ngoại điển, hành trì tu tập lời Phật dạy, trang bị kiến thức và kỹ năng sư phạm thuyết giảng, công cụ phương tiện đi lại truyền giáo thiết yếu tương thích với thời đại để giúp cho chính pháp được lưu thông lan tỏa và triển khai xong chí nguyện hoằng pháp Phật tổ phó thác. Đệ tử Phật luôn tắm mình trong chính pháp, thực hành chính pháp, tâm lý công cuộc hoằng pháp lợi sinh và liên tục hành trình dài tiếp nối con đường Như Lai đã chọn : “ Ta sẽ thuyết pháp một cách tuần tự, ta sẽ thuyết pháp với sự thấy hiểu toàn vẹn pháp môn, ta sẽ thuyết pháp với lòng yêu quý, ta sẽ thuyết pháp không vì danh lợi, ta sẽ thuyết pháp không làm thương tổn cho mình và người ” [ 8 ]. Có như vậy chính pháp mới được lưu truyền, chúng sanh mới được an nhàn, giải thoát.

Chú thích:

[ 1 ] Thích Trí Tịnh ( 2007 ), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb Tôn Giáo, TP. Hà Nội, 2007, tr. 303. [ 2 ] Thích Trí Tịnh, sđd, tr. 64. [ 3 ] Thích Trí Tịnh, sđd, tr. 66. [ 4 ] Thích Minh Châu ( 2013 ), Kinh Tương Ưng Bộ – Tập I, Nxb Tôn Giáo, TP.HN, 2013, tr. 223.

[5] Thích Trí Tịnh, sđd, tr.249.

[ 6 ] Thích Trí Tịnh, sđd, tr. 65. [ 7 ] Thích Trí Tịnh, sđd, tr. 314. [ 8 ] Thích Minh Châu, Kinh Tăng Chi Bộ II, Nxb Tôn Giáo, TP.HN, năm ngoái, tr. 193.

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp