Chương Một: Học Phật Để Làm Gì ?

LÀM SAO HỌC PHẬT ĐỂ THÀNH PHẬT?
TS. Minh Tâm

CHƯƠNG MỘT

HỌC PHẬT ĐỂ LÀM GÌ ?

Học Phật là để tu thân, sửa mình cho con người sống ra con Người hơn – khác hẳn mọi loài động vật hoang dã. Con Người khác con vật ở chỗ biết dùng Trí tuệ để phát triển đời sống cho ngày càng tốt đẹp; biết dùng Tấm lòng để yêu dấu, chia xẻ, đùm bọc và khoan thứ cho nhau. Bởi vì con người cũng là một động vật hoang dã, lại Open trên trái đất này sau các động vật hoang dã khác hàng triệu năm. Nhưng do một nhân duyên nào đó mà bộ óc con người phát triển hơn các loài động vật hoang dã khác.

Từ bộ óc đơn thuần như loài vật, được đắp thêm lên một lớp vỏ não thật dày bên ngoài có chứa những mạch thần kinh về ngôn từ, văn tự, toán học, nghệ thuật, triết học, khoa học và tư tưởng siêu hình. Vỏ não lại được chia hai làm 2 phần: bên trái và phải, khiến cho con người vừa có trí tuệ vừa có tâm hồn; khác hẳn loài vật chỉ có thuần bản năng. Sự phát triển này kỳ diệu đến độ các nhà tư tưởng thời xưa và nhà khoa học ngày nay phải kinh ngạc mà tán thán: Con người là sinh vật tối linh trong thiên hà.  

Học Phật để biết mà lấy lại quyền làm chủ Vận mạng của chính mình từ thần linh, để biết không có thần thánh nào có quyền ban phước hay giáng họa trên đời sống mình, không còn phải cầu cạnh các thần sông, suối, gốc cây, gộp đá.., để xin được bình an.  

Ta có bình an hay không là do ta có sống tốt với mọi người hay không. Ta có cơm no áo ấm hay không là do ta có hay cứu giúp những kẻ trong cảnh khốn cùng hay không. Ngay một nhà quân sự như Nguyễn Trãi ở mấy thế kỷ trước mà cũng đã nhắc nhở con cháu:

Thương người như thể thương thân, Người ta phải bước khó khăn vất vả đến nhà.

Đồng tiền bát gạo mang ra,

Rằng đây cần kiệm, gọi là làm duyên.

Nay ta ở chốn bình yên,

Còn người cùng khổ, chẳng nên cầm lòng. 

Tiếng rằng : ngày đói tháng Đông, Thương người bớt miệng, bớt lòng mà cho. Miếng khi đói, gói khi no, Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng.

(Nguyễn Trãi – Gia huấn ca)

Đông phương là nơi có nhiều mạng lưới hệ thống tư tưởng vĩ đại phát sinh từ mấy ngàn năm xa xưa để phân phối nhu cầu nhân bản này. Xưa nhất là tư tưởng kinh Dịch rồi đến tư tưởng của Khổng tử và Lão tử, ra đời ở Trung quốc.  

Còn Phật giáo cũng hình thành khoảng thời hạn đó, nhưng ở tận Đông Bắc bán đảo Ấn độ. Đến khoảng đời Tần mới thấy lời dạy của Đức Phật được truyền bá sang Trung thổ; khởi đầu từ các nhà vua. 

Kinh Dịch không rõ của nhà nào sáng lập, nhưng đó là một ngành “bói toán” rất phổ cập kể từ đời Chu Văn Vương, khoảng 500 năm trước Công nguyên.  Hệ thống này cao minh đến nổi Khổng tử – người sáng lập Khổng giáo – còn phải ca tụng: “Nếu ta sống thêm vài năm nữa – lúc ấy ngài đã ngoài 70 tuổi – ta chỉ học Dịch mà thôi!” 

Dịch kinh gồm có 64 quẻ – cũng gọi là 64 quái, để miêu tả về sự quản lý và vận hành của Trời Đất ảnh hưởng tác động đến con người.  Câu mở đầu của Kinh là: “Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng Nghi, thị sinh Tứ Tượng, thị sinh Bát Quái.” (Đạo lý trong trời đất là sự biến hóa không ngừng: Từ 1 khối khí to lớn trong ngoài hành tinh mà phân 2 thành Âm và Dương, rồi từ âm khí và dương khí chia làm 4 phương, rồi 4 phương thành 8 hướng, gọi là bát quái). Bát quái này đổi khác bình phương thành 64 quái, lý giải hết mọi nguyên do thành bại, đắc thất trong đời người.  

Người dân thời đó muốn làm việc gì cũng tin vào quẻ Dịch (đi buôn, đi thi, đi cưới vợ, cất nhà…), ông tướng muốn đem quân đánh trận cũng xem quẻ Dịch, nhà vua muốn du hành phải bói Dịch. (Chẳng hạn, thời Tam Quốc, Khổng Minh 7 lần ra quân đều xem quẻ Dịch, biết trước là sẽ bị bại, nhưng vì muốn đền ơn tri ngộ của Lưu Bị đã từng “tam cố thảo lư” nên vẫn phải ra đi để hao binh tổn tướng.) 

Chính mạng lưới hệ thống tư tưởng Dịch này đã tạo ra thuyết Thiên Mệnh của Khổng tử.  Mọi sự của đời người đều đã do Trời cao sắp đặt, không thể sửa đổi – cũng như thuyết Giai cấp của đạo Bà la môn.

Còn ở Việt nam thì ông cha ta cũng có câu: “Con vua thì được làm vua / Con sải ở chùa thì quét lá đa.” Ngay cả người có quyền cao chức trọng như Ôn như Hầu Nguyễn Gia Thiều còn phải than thở: “Vẽ chi siêu thị nhà hàng sự thường / Cũng còn Tiền định khá thương lọ là” – Cung Oán ngâm khúc.

Về mặt ứng dụng, Khổng giáo dạy “Tu, Tề, Trị, Bình” cho người “trượng phu”.  Trượng phu là tiếng chỉ người nam, thường là con nhà giàu hay nhà quan. Chỉ có tầng lớp này mới được đi học để mai sau thi đỗ, giúp vua trị dân. Còn dân thường và nhà nghèo thì phải chịu dốt nát. Vì vậy, các trượng phu này lúc nhỏ được dạy phải “tu thân” sửa mình, chừa bỏ các thói hư tật xấu, khiến con người trở nên có đạo đức; trên biết kính thờ cha mẹ, dưới thuận thảo với anh em.  

Như vậy, đến tuổi lập mái ấm gia đình có vợ con mới biết “tề gia”; nghĩa là làm sao cho mái ấm gia đình có nề nếp trật tự, không có “cá đối bằng đầu”. Đến khi học đỗ làm quan mới có khả năng “trị quốc” tức cai trị dân trong địa phận của mình. Lúc đó sẽ được gọi là quân tử hay đại nhân.

Khổng tử sống vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, gồm nhiều nước nhỏ như bộ lạc, ở phía Bắc sông Hoàng Hà. Các nước nhỏ này luôn có chiến tranh thôn tính nhau để mở mang bờ cõi.

Vì vậy khi Khổng tử dạy học trò đạo “Tu, Tề, Trị” thì ngài thêm vào “Bình”, để khi kẻ trượng phu này theo lệnh vua đi đánh chiếm bộ lạc của người khác thì biết thế nào là “bình thiên hạ” – nghĩa là làm cho dân bị trị có cảm tưởng là đang an hưởng thái bình và được cai trị tốt hơn chế độ trước!

Vì rất ngưỡng mộ triết lý Dịch nên Khổng tử tin cậy ở Mệnh Trời, và dạy 3 ngàn đệ tử nên biết thuận mệnh. Bởi vì: “Thiên mệnh chi vị Tính, suất Tính chi vị Đạo, tu Đạo chi vị Giáo.” (Sách Trung Dung)- Có nghĩa là: Mệnh Trời là bản tính của con người; làm theo mệnh trời là theo đúng Đạo; ăn ở cho đúng Đạo là người có học vấn.

Theo ý thầy Khổng thì học trò phải “tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri Thiên mệnh” (Sách Luận Ngữ) – nghĩa là 30 tuổi phải có sự nghiệp (thi đỗ làm quan, hoặc mua và bán phát đạt, hoặc làm nông gia giàu có) và có lập trường dứt khoát; 40 tuổi phải biết rõ ràng đúng sai về mọi sự mọi vật, không còn hồ đồ thị phi; 50 tuổi thì phải hiểu rõ: số đã giàu hay nghèo thì phải sao chịu vậy, biết đó là Thiên mệnh – Mệnh trời đã định sẵn cho mình. Và người quân tử thì trên không oán trời, dưới không trách người, nên vui sống với những gì mình có được, mới là thuận Mệnh (Luận Ngữ).

Ưu điểm của giáo lý Khổng học là muốn cho những người làm chủ vận mệnh người khác trong một nước, một địa phương, một mái ấm gia đình (vua, quan, chồng, cha) phải có đạo đức, có lý trí, biết trật tự, kỷ cương; khác với loài vật chỉ biết dùng bản năng và sức mạnh để lấn hiếp, ăn nuốt lẫn nhau.  

Ngài dạy: “Vua phải ra vua, tôi phải ra tôi; cha phải ra cha, con phải ra con; chồng phải ra chồng, vợ phải ra vợ” (Luận Ngữ) -, nghĩa là trong mỗi cương vị, ai cũng phải giữ tròn nghĩa vụ và trách nhiệm và đạo đức của mình.  

Về đạo lý thì ngài dạy Tam Cương – tức là 3 giềng mối hay bổn phận để giữ vững trật tự vương quốc xã hội. Đó là: Quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương – tức bổn phận của vua đối với dân, cha đối với con, chồng đối với vợ. Và Ngũ Thường – là 5 điều đạo đức để làm người, không thể thay đổi trong cách hành sử, giao tiếp với nhau. Đó là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, và Tín.   

Nếu Khổng tử dạy những tư tưởng và lối sống “nhập thế” rất thích hợp cho đa phần người trẻ thời bấy giờ – học Đạo để ra làm quan giúp vua trị nước, thì Lão tử chủ trương “xuất thế”, được đa phần tuổi già – những người cảm thấy mình đã chân mòn gối mỏi, ca tụng.

Trước khi lánh đời, bỏ đi mất tích vào vùng sa mạc, Lão tử đã để lại một tập sách nhỏ gồm 5 ngàn chữ, nhan đề “Đạo Đức Kinh”, dạy hậu thế cách sống Vô Vi ở đời.  Sách cũng định nghĩa Đạo là gì, và con người phải sống sao cho đúng Đạo.

Theo Lão tử, Đạo là vô hình, là không tên, là không thể biết, tạm gọi là Vô Cực.  Những câu mở đầu như sấm sét của Đạo Đức Kinh, là: “Đạo khả đạo phi thường Đạo; Danh khả danh khác thường Danh. Vô danh  thiên địa chi thỉ; Hữu danh vạn vật chi mẫu.” ( Đạo mà gọi được là Đạo, thì không phải là Đạo “thường hằng” đáng được ca tụng.

Danh mà được gọi là danh, thì cũng chỉ là giả Danh không phải thực.  Cho nên Không-tên là cái mở đầu của trời đất; còn những cái có-tên là do con người đặt cho vạn vật về sau.)  

Thêm nữa, “Phàm điều gì vật gì mà ai cũng biết là tốt, thì trong đó đã có cái xấu rồi; ai cũng tưởng là điều lành, thì trong đó đã chứa điều ác rồi” (Đạo đức kinh). Vì vậy, Lão tử chủ trương Vô Vi – đừng làm gì cả; ví như mặt trời rọi xuống trăm hoa, cái nào nở thì nở, không thì thôi.

Lưu ý sự lập Triết ở đây giữa 2 nhà tư tưởng: Lão tử nói về cái Đạo Tuyệt đối, không thể thấy biết; còn Đạo của Khổng tử là Tương đối, trong tầm hiểu biết của con người.  

Thực ra, Đạo của Khổng tử là dạy cách sống trong thực tiễn để vận dụng vào đời:  ”Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi Đạo; nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi Đạo.” (Trung Dung) – Đạo phải không xa với sự hiểu biết của con người, mới là Đạo của con người.  Còn Đạo mà quá tầm hiểu biết của con người, thì không thể gọi là Đạo.  

Và ngài khẳng định, người có học để ra làm quan thì phải biết Đạo: “Đại học chi Đạo, tại minh Minh Đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện.  

Tri chỉ nhi hậu hữu Định, định nhi hậu năng Tĩnh, tĩnh nhi hậu năng An, an nhi hậu năng Lự, lự nhi hậu năng Đắc. Vật hữu bản mạt, Sự hữu chung thỉ; tri sở tiên hậu tắc cận Đạo hỉ.”(Sách Đại học) – (Cái Đạo của người quân tử khi học để ra làm việc nước là trước hết phải tu dưỡng đạo đức con người mình, rồi khi ra cai trị dân thì phải làm cho đời sống của dân mỗi ngày một no ấm và tân tiến hơn, tiến đến mức độ tốt nhất mới ngừng nghỉ.  

Phải có phương án, kế hoạch nâng cấp cải tiến dân sinh để biết đến đâu mới ngừng, thì tâm người làm quan mới Định, Tĩnh, và An. Nhờ tâm an mới có thể tâm lý cho kế hoạch an dân được thành công xuất sắc. Vật gì cũng có gốc ngọn, Việc gì cũng có trước sau.  Biết được trước sau, gốc ngọn là đã gần với Đạo rồi.) 

Như vậy, Khổng tử đã nỗ lực đem Đạo lý dạy cho con người từ vua đến quan để tái lập trật tự trong xã hội loạn lạc thời Chiến quốc. “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản.” (Đại học) – (Từ vua cho đến quan, đều phải lấy sự tu thân sửa mình làm gốc.) Chỉ tiếc là không có vua nào chịu nghe và tín dụng. Mãi đến tuổi già, ngài mới được phong một chức quan nhỏ: giữ kho thóc. Làm được 3 tháng, ngài từ quan, về mở trường dạy học. Ngài dạy được 3 ngàn học trò.  Lúc đó, Khổng tử đã 70, và dần dà nổi danh là ông thầy giỏi nhất của bao thời đại. Trong số học trò này có nhiều người thành đạt, làm quan to ở những nước khác nhau. Nổi tiếng nhất là Trình tử, người đã ra công khai minh bạch triển và mạng lưới hệ thống hóa triết lý Chính trị và Giáo dục đào tạo của thầy, lưu lại hậu thế. (Nên mới có chữ: Cửa Khổng Sân Trình).

Với 3 luồng tư tưởng vĩ đại như vậy – Dịch, Khổng, Lão – người tri thức Trung quốc rất tự hào về nền văn hóa truyền thống và văn minh cao nhất của họ. Họ không dễ gì đảm nhiệm một tư tưởng hay triết lý ngoại lai nào, bởi vì các nước chung quanh đối với họ đều là man, rợ, di, địch; đều phải cúi đầu thần phục, triều cống hàng năm. Việt nam và các chư hầu thời đó cũng rập khuôn theo tư tưởng của đàn anh thiên triều.

Nhưng đến khi Phật giáo đủ cơ duyên

truyền bá

đến Trung quốc, tư tưởng mới lạ và rất nhân bản của Đức Phật đã như một trận mưa thác đổ, rền vang với sấm sét.  Tư tưởng mới lạ và rất nhân bản này đã thức tỉnh bao người tri thức, tắm mát mọi tâm hồn, đồng thời cũng rửa sạch mọi cấu uế giữa người với người. Và làm cho con người thật sự trở nên Người hơn.

Lời dạy đầu tiên rền vang như sư tử hống của đức Phật là Con người có toàn quyền định đoạt số phận mình, theo luật Nhân Quả – không phải do Thần linh áp đặt như đạo Bà la môn đã nói – (Bà la môn có hơn 3 ngàn thần linh), hay Trời cao sắp sẵn như Khổng tử chỉ dạy, hoặc cái Vô Cực mông mênh coi con người như “chó rơm” của một Lão tử bỏ trốn cuộc sống. (Thiên Địa bất nhân, dĩ vạn vật như sô cẩu – Đạo Đức kinh.)

Thời đại bấy giờ là thời đại Thần quyền. Mọi sự việc tương quan đến con người đều do trời đất, thần thánh quyết định hành động. Con người tin cậy như vậy. Bọn vua chúa cũng để dân đen tin cậy như vậy – vì vua là thiên tử, là con Trời – hầu dễ cai trị đám dân ngu, dốt nát và mê tín dị đoan. Trong khung cảnh đó, tầng lớp có quyền thế đối xử tàn bạo với nhau và cả với dân đen – còn hơn thú dữ trên rừng. Tư tưởng của Lão tử về sau lại bại hoại và sanh sôi nẩy nở ra bọn phù thủy, đồng bóng, thầy pháp chuyên gạt người với những trò cầu cúng và trị bệnh bằng bùa chú, âm binh.  Người ta giết trẻ con để tế lễ thần linh, để cầu cho mưa thuận gió hòa, để ruộng đồng tươi tốt.  

Người ta lạy gốc cây, hòn đá, gò mối…để cầu cho nhà đạo yên ổn, sung túc –  một cách u mê, không có đầu óc.  Tất cả sự việc này xảy ra trên khắp Trung thổ thời bấy giờ.  Các nhà trí thức Trung quốc cảm thấy bất lực trước sự tàn bạo ngu xuẩn đó. Và ở Ấn độ cũng vậy.  Cho đến khi Đức Phật ra đời ở Bắc Ấn. Cho đến khi lời dạy của Đức Phật được truyền bá đến Trung thổ và lan ra các nước man, rợ, di, địch chung quanh, kể cả Nhật bản xa xôi ngoài hải đảo.

Đức Phật dạy rằng: Con người và chỉ có con người mới làm chủ vận mệnh mình. Hay dở, nên hư, giàu nghèo, sướng khổ, phước họa …đều do con người tạo ra, theo một định luật tự nhiên gọi là Nhân Quả.  Nhân là nguyên do của sự việc mình làm; Quả là kết quả tự mình phải gánh chịu. Như trồng lúa thì được lúa; bỏ cho cỏ mọc thì cỏ lên.  Ăn ở hiền lành thì ai cũng thương; sống đời bất nghĩa bất nhân thì ai cũng ghét. Không có thần thánh nào can thiệp vào để ban phước hay giáng họa. Không phải khấn nguyện, cầu cúng mà được.

Phật cũng xử lý cả những vấn nạn tri thức mà các triết gia mọi thời đại từ Đông sang Tây đã đặt ra: “Con người từ đâu tới; và sau khi chết thì đi về đâu?”- nhưng không ai có khả năng giải đáp – kể cả Khổng tử.  Khi học trò hỏi thầy: “Chết rồi sẽ đi về đâu?” Tiên sinh đáp: “Chuyện sống còn chưa biết hết, hỏi chi chuyện chết.” (Tử viết: Vị tri sinh, yên tri tử. Luận Ngữ).

Đức Phật dạy rất rõ ràng về yếu tố này: Từ 10 cõi – Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, Trời, Người, A tu la, Súc sinh, Ngạ quỉ, Địa ngục – đã do duyên nghiệp thôi thúc mới có mặt ở cõi người hôm nay. Đến khi chết, tức là mãn hạn ở đây, thì cũng do duyên nghiệp đưa đẩy trở về một trong 10 nơi đã kể.  Nhưng cho rõ hơn, trong 10 cõi đó thì 4 cõi Phật, bồ tát, duyên giác, thanh văn được gọi là 4 cõi Thánh, đến đây là thị hiện theo ý muốn cứu độ chúng sanh; còn 6 cõi thấp kia được gọi là  6 cõi Phàm, do duyên nghiệp đẩy đi không có sự chọn lựa.  

Chẳng hạn những người làm vua, làm quan là người có phước báu rất nhiều từ đời trước. Nhưng làm vua, quan mà tàn bạo, bất nhân với dân, làm cho dân đói khổ như sống trong cảnh trên đe dưới búa, thì khi chết Ác nghiệp sẽ lôi kéo các vua quan này vào cõi âm ti để bị đày đọa, trừng phạt – chớ không có chọn lựa nào khác; cũng như người lúc sống phạm luật thì phải vào tù. Đó chính là tạo nhân xấu thì lãnh quả xấu; cho dầu con cháu có tốn bao nhiêu tiền của để cầu siêu (hay hối lộ thần thánh?) cũng vô ích. 

Điều này đã được dẫn chứng trong kinh: Có một nhóm thầy cúng Bà la môn muốn đi làm tiền dân chúng, mới rêu rao rằng:  Ai có tiền nhiều dâng cúng, sẽ được cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà, cửu huyền thất tổ, thân quyến siêu sinh.  Đức Phật mới hỏi các vị bà la môn: Nếu ta ném một hòn đá xuống giếng sâu, rồi đưa tiền nhờ quí vị cầu nguyện cho hòn đá nổi lên, quí vị có làm được không? Nhóm bà la môn đáp: Không được, hòn đá nặng quá làm sao mà nổi lên được.

Phật lại hỏi:  Nếu ta đổ một thùng dầu xuống mặt giếng đầy, rồi trả tiền nhờ quí vị cầu nguyện cho dầu chìm xuống đáy, quí vị có làm được không?  Đáp: Không được. Dầu vốn nhẹ quá, chúng tôi không thể làm cho chìm được.  Đức Phật quay lại chúng đệ tử và nói: Cũng vậy, khi một người sống đời bạc ác, tội nghiệp quá nặng, thì không thể cầu siêu cho thoát nghiệp đã tạo được.  

Phật cũng dạy: Muốn biết đời trước mình đã làm gì (thì cũng như hỏi: mình từ đâu tới) hãy xem kiếp này mình đang hưởng gì; Muốn biết đời sau mình hưởng gì (thì cũng như hỏi: mình chết rồi đi về đâu) hãy xem kiếp này mình đang làm gì. (Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị; Dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị.) Vậy nếu đời này thấy mình ngu si quá, thì biết kiếp trước mình ở từ trong nhóm súc sinh: hoặc trâu, bò, ngựa, heo…  Nếu đời này thấy mình vừa mưu trí vừa đẹp tươi, thì biết kiếp trước mình từ cõi Trời đến. Còn kiếp sau sẽ ra sao thì tùy sự ăn ở của đời này.

Điều quan trọng thứ nhì, Phật dạy, là mỗi người  đều có Trí tuệ (gốc tiếng Phạn là Buddh), biết phân biệt phải trái, trắng đen. Nhờ vậy có thể sửa đổi bản thân, thay đổi vận mệnh xấu thành ra tốt. Tất cả chỉ là yếu tố Nhân Quả.  Không phải chỉ có  đời trước tạo nghiệp cho đời này; mà chính đời này cũng tạo nghiệp cho đời này.  Cứ ngồi yên mà quán chiếu (tâm lý) sẽ thấy: 20 năm đầu của con người tính từ lúc chào đời là do thọ nghiệp quả của kiếp trước.

Nhưng những năm ấu thơ và trưởng thành này, nều siêng năng ăn học và nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, cũng là nhân duyên tốt cho 20 năm sau – từ 20 tuổi đến 40. Cứ mỗi 20 năm tiếp theo là kết quả được hưởng của 20 năm trước và là nguyên do của 20 năm sau đó.., cho đến ngày nhắm mắt lìa đời. Cuộc sống vui hay khổ, phước báu hay nghiệp chướng đều do chính mình tạo ra – tự làm tự chịu. Đơn giản như vậy. Trí tuệ sáng suốt biết chọn lựa điều tốt điều phải để sống và sửa mình này được gọi là “Phật tính”.  

Đức Phật được tôn vinh là người có Trí tuệ sáng suốt nhất – là người Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thế gian giải, Thiên nhân sư – nên được dân Ấn độ tôn sùng là Buddha. [Người Tàu phát âm tiếng Buddha của Ấn độ thành “Fo”. Khi đạo được truyền từ Trung quốc sang Việt nam, người Việt phát âm “Fo” ra “Phật”.  

Đây là đạo Phật Bắc truyền. Một con đường thứ hai là Nam truyền, khi các nhà sư Ấn Độ đi theo các nhà buôn bằng đường biển tới vịnh Bắc Việt, mang đạo vào kinh đô Luy Lâu của nước Việt lúc bấy giờ. Nghe họ phát âm là “Buddha”, ông cha ta lập lại là “Bụt”. Nên trong các truyện cổ Việt nam từ thời Văn Lang trở đi, ta thấy “ông Bụt” hay Open cứu giúp người bị oan trái hay khổ đau. Vậy Phật hay Bụt là cùng một nghĩa.]

Nhờ trí sáng mà con người biết lựa chọn nguyên do tốt để sống cho có kết quả tốt. Như người nông dân biết chọn lúa giống tốt và siêng năng chăm sóc để cho ruộng trúng mùa; người học trò biết chăm chỉ học tập để đỗ đạt; nhà buôn giữ thành tín để sự làm ăn phát triển; làm con biết hiếu kính cha mẹ để tỏ lòng biết ơn công đức sanh thành; làm quan biết hết lòng lo ngại cho dân để được dân mến thương và xứng đáng với thiên chức. 

Vì trí sáng hay Phật tính ai cũng có, nên Phật mới xác quyết: “Tất cả chúng sanh rồi sẽ thành Phật”. Hoặc: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.” (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa)

Điều quan trọng thứ ba, Phật dạy, là thành Phật để biết yêu thương mình và yêu thương mọi người, tạo cho mình một đời sống an vui và giúp cho người có cuộc sống an vui. (Đó cũng là tiềm năng của Tỳ kheo Pháp Tạng, quyết tâm tu hành thành Phật – tức Phật A Di Đà, để tạo ra cõi Cực lạc, cứu độ chúng sanh). Ta có Trí tuệ để thành Phật, rồi học hỏi thêm lòng Từ Bi để yêu thương và cứu độ người.

Từ là làm cho người vui. Bi là giúp người hết khổ. Nhưng muốn cứu độ mọi người thì trước hết phải cứu độ mình; nghĩa là phải từ bi với chính mình. Đó là ý nghĩa câu “Tự giác, giác tha.” Cũng như người phải học bơi lội cho giỏi trước, rồi mới cứu kẻ chết đuối được. Từ bi với mình là biết yêu thương mình. Thương yêu mình nghĩa là trong đời mình chỉ làm điều đúng chớ không dám làm điều sai lầm, vì biết sợ luật Nhân Quả – Để khi sống, được an vui niềm hạnh phúc; khi chết, sẽ thác sinh về cõi tốt hơn.

Nên người học đạo phải giữ Giới, cũng như người đời thì giữ Luật; vì Giới và Luật được đặt ra để bảo vệ cả hai tránh điều sai quấy, để thân tâm được thanh tịnh và an ổn trong mọi hoạt động và sinh hoạt hàng ngày. Thành ra “Sát, Đạo, Dâm, Vọng” – giết hại sinh vật, trộm cắp của người, tà dâm với vợ con người, gian dối phỉnh gạt người vì quyền lợi riêng mình – là giới và luật cho cả người trong đạo và ngoài đời.  Đây cũng là cửa ngõ để vào cảnh giới Phật hay vào Địa ngục.  Rất đơn thuần, không có gì cao siêu hay khó hiểu.  Và cũng chỉ là một ứng dụng của luật Nhân Quả mà thôi.

Biết yêu thương mọi người thì phải cứu giúp người – đói cho ăn, rách cho mặc, bệnh cho thuốc, đi đường hiểm trở thì chỉ vào lối an lành – nghĩa là làm cho người vui và giúp cho người hết khổ. Đó là hạnh nguyện, là bản hoài của chư Phật. Thì khi thành Phật, ta cũng phải làm như Phật. 

Ta và chúng sinh vốn đồng một thể, như tay mặt và tay trái. Tay mặt có yếu tố, tay trái tự nhiên phải giúp – không hỏi tại sao.  Nên Phật gọi điều này là: “Vô duyên đại từ; Đồng thể đại bi”, nghĩa là: làm cho người khác vui mà không cần duyên cớ; cứu giúp người khác ra khỏi cảnh khổ đau, vì ta với người vốn là một (đôi khi ta khổ, ta cũng cần người khác cứu). Và cứu giúp người khác thì được phước báu gì? 

Trong kinh, Phật hỏi A Nan: Cúng dường một đức Phật, có phước báu không? A Nan đáp: Dạ, có vô lượng phước báu! Phật hỏi tiếp: Vậy cúng dường 3.000 chư Phật trong 3 đời, có nhiều phước báu hơn không? A Nan đáp: Dạ, có vô lượng phước báu hơn nữa! Phật từ tốn dạy: Này A Nan, nhưng cứu giúp một người đói rách, khổ nạn, phước báu còn gấp nhiều lần hơn cúng dường 3 ngàn chư Phật trong 3 đời!

Tóm lại: Học Phật là để biết ta là người làm chủ vận mệnh mình; biết luật Nhân Quả bao trùm mọi hoạt động và sinh hoạt của nhân sinh trong thiên hà; biết ta có Trí tuệ để chọn đi con đường sáng; biết Từ bi để yêu thương ta cũng như yêu thương mọi người. Nhờ vậy mà ta tự Giải thoát khỏi mọi phiền não, hệ lụy trong đời, đạt tới cảnh giới 

thân tâm

an nhàn và thanh tịnh. Và đó là cảnh giới của chư Phật.

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp