1. Hoằng Dương Chánh Pháp trong Xã Hội

VIỆN  NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
HỢP  TUYỂN LỜI   PHẬT   DẠY
TỪ  KINH TẠNG  PALI 
In The Buddha’s Words
An Anthology of Discourses from the Pali Canon
By
BHIKKHU  BODHI
Wisdom Publications – 2005
Việt dịch : Nguyên Nhật Trần Như Mai
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG  ĐỨC 2015

IV

HẠNH  PHÚC THẤY  RÕ  NGAY TRONG ĐỜI  SỐNG HIỆN TẠI

 

1. HOẰNG  DƯƠNG  CHÁNH  PHÁP  TRONG  Xà HỘI

 

  (1)Pháp Vương

Thế Tôn dạy rằng : “ Này những Tỷ kheo, ngay cả một vị Chuyển luân Thánh vương, một đấng pháp vương chơn chánh, cũng không quản lý vương quốc mình mà không có quốc sư phụ tá ”. Khi nghe Ngài nói như vậy, một tỷ kheo đã bạch Thế Tôn : “ Bạch Thế Tôn, nhưng ai là vị quốc sư phụ tá cho vị Chuyển luân Thánh vương, một đấng pháp vương chơn chánh ? ”. Thế Tôn đáp : – Này những Tỷ kheo, đó là Chánh pháp, là qui luật của mọi hành xử chân chính ( 1 ). Trong trường hợp này, vị Chuyển luân Thánh vương, một đấng pháp vương chơn chánh, y cứ vào Giáo pháp, vinh danh Chánh pháp, tôn kính Chánh pháp, xem Chánh pháp là tiêu chuẩn hành vi, là biểu ngữ, là chủ quyền lãnh thổ, cung ứng sự bảo đảm an toàn, sự che chở, sự bảo vệ hợp pháp cho những người phụ thuộc vào ngài. Ngài phân phối sự bảo đảm an toàn, sự che chở, sự bảo vệ hợp pháp cho những người Sát-đế-lỵ phụ thuộc vào ngài ; cho quân đội của ngài, cho những người Bà-la-môn gia chủ, cho dân chúng trong thành phố và vùng quê, cho những sa môn và Bà-la-môn, cho cầm thú và chim muông. Một vị Chuyển luân Thánh vương, một vị pháp vương chơn chánh như vậy là người cung ứng sự bảo đảm an toàn, sự che chở và sự bảo vệ hợp pháp cho tổng thể mọi người, là vị vua chỉ quản lý bằng Chánh pháp mà thôi. Và sự quản lý đó không hề bị lật đổ bởi bất kỳ kẻ thù nghịch nào. – Này những Tỷ kheo, như vậy, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, vị pháp vương chơn chánh đúng Chánh pháp, địa thế căn cứ vào Chánh pháp, vinh danh Chánh pháp, tôn kính Chánh pháp xem Chánh pháp là tiêu chuẩn hành vi, là biểu ngữ, là chủ quyền lãnh thổ, phân phối sự bảo đảm an toàn, sự che chở, sự bảo vệ hợp pháp so với những hành vi về thân, khẩu, ý. ( Ngài dạy như thế này ) : “ Những thân nghiệp như thế này cần phải thực hành thực tế và những thân nghiệp như thế này không nên thực hành thực tế. Những khẩu nghiệp như thế này cần phải thực hành thực tế và những khẩu nghiệp như thế này không nên thực hành thực tế. Những ý nghiệp như thế này cần phải thực hành thực tế và những ý nghiệp như thế này không nên thực hành thực tế ”. Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, vị pháp vương chơn chánh, như vậy là vị phân phối sự bảo đảm an toàn, sự che chở, sự bảo vệ hợp pháp so với những hành vi về thân, khẩu, ý, là vị đã chuyển bánh xe Chánh pháp vô thượng theo đúng Chánh pháp. Và bánh xe Chánh Pháp này không hề bị quay ngược lại bởi bất kể sa môn hay Bà-la-môn nào, bất kỳ vị thiên, Ác Ma, hay Phạm thiên nào, hay bất kỳ ai trong trần gian này ”. ( 2 )

        Tăng Chi Bộ Kinh 2, Ch XIII, Ph. Bệnh (133) Chuyển Luân Vương, tr 551-555.

(1)  Đảnh lễ sáu phương

        1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ngụ tại thành Vương Xá (Rājagaha), trong vườn Trúc Lâm (Veluvana), thuộc Khu Vực Bảo Tồn Loài Sóc (Kalandakanivaāpa). Lúc ấy, Sigālaka ( Thi-ca-la-việt), con của người gia chủ, đã thức dậy sớm và đi ra khỏi thành Vương Xá,  áo quần và tóc thấm nước, chắp tay đảnh lễ các phương hướng khác nhau: hướng đông, hướng nam, hướng tây, hướng bắc, hướng Hạ và hướng Thượng.

2. Và Thế Tôn, lúc ấy thức dậy sớm, đắp y và ôm bình bát đi vào thành Vương Xá để khất thực. Sau khi thấy Sigālaka đảnh lễ những phương hướng khác nhau, ngài nói : “ Này con trai của gia chủ, tại sao ngươi dậy sớm và đảnh lễ nhiều phương hướng khác nhau ? – Bạch Thế Tôn, cha của con khi sắp chết đã bảo con làm như vậy. Vì thế, do kính trọng lời dạy của cha con, những lời dạy con rất tôn vinh, rất thiêng liêng so với con, nên con đã thức dậy sớm để đảnh lễ sáu phương hướng như thế này. – Nhưng này con trai của gia chủ, đó không phải là phương pháp đúng đắn để đảnh lễ sáu phương theo lao lý của những bậc Thánh. – Bạch Thế Tôn, như vậy làm thế nào để đảnh lễ sáu phương theo đúng pháp luật của những bậc Thánh ? Thật lành thay nếu Thế Tôn hoàn toàn có thể giảng dạy cho con phương cách đúng đắn để đảnh lễ sáu phương theo đúng pháp luật của những bậc Thánh. – Vậy thì, này con trai của gia chủ, hãy lắng nghe kỹ, ta sẽ giảng. – Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Sigālaka vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau : 27. – Này con trai của gia chủ, những bậc thánh đệ tử hộ trì sáu phương như thế nào ? Sáu điểm này được xem như là sáu phương. Phương đông chỉ cha mẹ. Phương nam chỉ những bậc thầy. Phương tây chỉ vợ con. Phương bắc chỉ bè bạn. Phương dưới chỉ gia nhân, thợ thuyền, người giúp việc. Phương trên chỉ Sa môn, Bà-la-môn. 28. – Có năm cách người con phải phụng dưỡng cha mẹ như phương đông. ( Người con phải tâm lý rằng ) : ‘ Tôi đã được cha mẹ nuôi dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại cha mẹ. Tôi sẽ làm tròn bổn phận so với cha mẹ. Tôi sẽ gìn giữ truyền thống lịch sử mái ấm gia đình. Tôi sẽ sống xứng danh là người thừa kế. Sau khi cha mẹ tôi qua đời, tôi sẽ cúng dường phẩm vật để hồi hướng công đức cho cha mẹ. ’ Và cha mẹ được con phụng dưỡng như phương đông, sẽ có năm cách để đáp trả lại : cha mẹ sẽ ngăn cản con làm điều ác, ủng hộ con làm điều thiện, dạy con có kinh nghiệm tay nghề, cưới vợ thích hợp cho con, và vào đúng thời gian sẽ trao quyền thừa kế cho con. Bằng cách này, phương đông được che chở, trở nên an bình và thoát khỏi sự sợ hãi. 29. – Có năm cách người đệ tử phải phụng dưỡng những bậc thầy như phương nam : bằng cách đứng lên chào thầy, hầu hạ thầy, lắng nghe thầy, Giao hàng thầy, nắm vững những kỹ năng và kiến thức thầy đã dạy. Và những bậc thầy được đệ tử phụng dưỡng như phương nam, sẽ có năm cách đáp trả lại : những thầy sẽ giảng dạy tận tình, bảo vệ những đệ tử nắm vững được những gì họ cần phải nắm vững, dạy cho đệ tử thông suốt vững vàng những nghề nghiệp, trình làng đệ tử với những bè bạn đồng nghiệp, phân phối sự bảo đảm an toàn cho đệ tử về mọi mặt. Bằng những này, phương nam được che chở, trở nên an bình và thoát khỏi sợ hãi. 30. Có năm cách người chồng phải đối xử với vợ như phương tây : tôn trọng vợ bằng cách không xem thường vợ, chung thủy với vợ, trao quyền hành cho vợ, khuyến mãi vợ những món đồ trang sức đẹp. Và người vợ được chồng đối xử như vậy sẽ có năm cách để đáp lại : bằng cách tổ chức triển khai tốt đẹp việc làm nội trợ, đối xử tử tế với gia nhân, trung thành với chủ với chồng, giữ gìn gia tài của chồng, khôn khéo và cần mẫn trong mọi việc cần phải làm. Bằng cách này, phương tây được che chở, trở nên an bình và thoát khỏi sự sợ hãi.

        31.  Có năm cách một người nam phải đối xử với bạn bè và người đồng sự như phương bắc: bằng cách tặng quà cho bạn, nói lời ái ngữ, quan tâm đến an sinh của bạn, đối xử với bạn như với chính mình, và giữ lời hứa.  Người bạn và người đồng sự được đối xử như vậy sẽ có năm cách đáp trả lại : chăm sóc bạn khi bạn lơ đãng, là nơi nương tựa cho bạn khi bạn sợ hãi, không bỏ rơi bạn khi bạn gặp khó khăn,  quan tâm đến con cái của bạn. Bằng cách này, phương bắc được che chở, trở nên an bình và thoát khỏi sự sợ hãi.

32. Có năm cách một gia chủ phải đối xử với nô bộc và công nhân của mình như phương Hạ : bằng cách sắp xếp việc làm theo năng lực của họ, lo cung ứng thực phẩm và lương tiền cho họ, chăm nom khi họ ốm đau, san sẻ thức ăn ngon với họ, và cho họ nghỉ phép đúng lúc. Những nô bộc và công nhân được gia chủ đối xử như vậy, sẽ có năm cách đáp trả lại : họ phải thức dậy sớm hơn chủ, đi ngủ muộn hơn chủ, chỉ nhận những gì chủ cho, làm thật tốt việc làm của mình, là những người mang lại danh thơm tiếng tốt cho gia chủ. Bằng cách này, phương Hạ được che chở, trở nên an bình và thoát khỏi sự sợ hãi. 33. Có năm cách một gia chủ phải đối xử với Sa môn và Bà-la-môn như phương Thượng : bằng cách bày tỏ lòng hòa ái về thân, khẩu, ý ; lan rộng ra cửa đón những vị ấy, cúng dường những vị ấy những phẩm vật thiết yếu. Các Sa môn, Bà-la-môn được gia chủ đối xử như phương Thượng sẽ có năm cách để đáp trả lại : ngăn cản không để gia chủ làm điều ác, khuyến khích gia chủ làm điều thiện, có lòng từ bi so với gia chủ, giảng dạy cho gia chủ những gì người ấy chưa được nghe, và chỉ bày cho gia chủ con đường đưa đến cõi thiên. Bằng cách này, phương Thượng được che chở, trở nên an bình và thoát khỏi sự sợ hãi.

                Trường Bộ Kinh II, Kinh số31: Kinh giáo thọ Thi-Ca-La-Việt, tr 529-545 

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp