ĐẠO GIÁO VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM – Di tích lịch sử – văn hoá Hà Nội

  1. Từ Đạo gia đến Đạo giáo

1.1. Đạo giáo được hình thành trong trào lưu nông dân khởi nghĩa vùng Nam Trung Hoa vào thế kỉ II sau công nguyên, cơ sở lí luận của nó là ĐẠO GIA – triết thuyết do Lão Tử đề xướng và Trang tử triển khai xong ( học thuyết Lão-Trang ) .
Lão Tử người nước Sở ( vùng Bách Việt ), tên là Nhĩ, tự là Đam ( nên còn gọi là Lão Đam ), sống vào thời gian thế kỉ Vl-V trCN, gần như là đồng thời với Khổng Tử ( lớn tuổi hơn Khổng Tử ). Ông từng làm quan đảm nhiệm thư viện nhà Chu, sau lui về ở ẩn ; không biết mất năm nào, tương truyền về già cưỡi con trâu xanh đi về phía tây vào núi rồi biến mất. Tư tưởng của Lão Tử được trình diễn trong cuốn Đạo đức kinh. Sách gồm 81 chương chia làm hai thiên thượng và hạ bàn về Đạo kinh và Đức kinh .
Đạo của Lão Tử là một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên : “ Người bắt chước Đất, Đất bắt chước Trời, Trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước TỰ NHIÊN ”. Nó là nguồn gốc của vạn vật. Đức là bộc lộ đơn cử của đạo trong từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật, nhưng làm cho vật nào thành ra vật ấy và sống sót được trong ngoài hành tinh là do Đức. Nếu Đạo là cái tĩnh vô hình dung thì Đức là cái động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là thực chất của ngoài hành tinh thì Đức là sự cấu trúc và sống sót của thiên hà .

Sự sinh hóa từ Đạo ra Đức, từ Đức trở về Đạo ở Lão Tử thấm nhuần sâu sắc tinh thần biện chứng âm dương của triết lí nông nghiệp. Được chi phối bởi luật quân bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách rất hợp lí, công bằng, chu đáo, và do vậy mà mầu nhiệm. Hợp lí, vì, theo Lão Tử, lẽ tự nhiên giống như việc giương cung, cao thì ghìm xuống; thấp thì nâng lên. Công bằng, vì nó luôn bớt chỗ thừa mà bù vào chỗ thiếu. Chu đáo, vì nó như cái lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt. Bởi vậy mà nó mầu nhiệm tới mức không cần tranh mà chiến thắng, không cần nói mà ứng nghiệm. Mọi sự bất cập hay thái quá (mất quân bình) đều trái với lẽ tự nhiên và, do vậy, sẽ tự điều chỉnh theo luật âm dương chuyển hóa: “Vật hễ bớt thì nó thêm, thêm thì nó bớt”.

Từ đây, Lão Tử suy ra triết lí sống tối ưu là muốn thao tác gì, phải đi từ điểm trái chiều, phải vô vi ( không làm ). Vô vi không có nghĩa là trọn vẹn không làm gì, mà là hòa nhập với tư nhiên, đừng làm gì thái quá. Vì làm thái quá thì theo luật âm khí và dương khí “ vật cực tắc phản ”, tác dụng thu được còn tệ hại hơn là trọn vẹn không làm gì. Triết lí vô vi vận dụng vào đời sống cá thể là “ chỉ vì không tranh nên thiên hạ không ai tranh nổi với mình ”. Áp dụng vào đời sống xã hội, Lão Tử không ưng ý lối quản lý cưỡng chế, áp đặt đương thời, ông nói muốn dân yên ổn thì quản lý một nước phải “ giống như kho một nồi cá nhỏ ” : cá nhỏ nên để yên, không cạo vẩy, không cắt bỏ ruột, khi kho không khuấy đảo – cạo, cắt, khuấy đảo chỉ tổ làm cho cá nát .
1.2. Công lao của Lão Tử chính là đã học thuyết hóa những tư tưởng triết lí của truyền thống lịch sử văn hóa nông nghiệp phương Nam : ĐẠO chẳng phải cái gì khác ngoài sự phạm trù hóa triết lí tôn trọng tự nhiên ; còn ĐỨC chính là sự phạm trù hóa luật âm khí và dương khí đổi khác. Khổng Tử và Lão Tử đều đảm nhiệm sức sống của văn minh nông nghiệp, nhưng trong khi Khổng Tử tìm cách tích hợp nó với văn minh gốc du mục thì Lão Tử dựa trọn vẹn vào nó. Khổng thì “ nhập thế ”, “ hữu vi ”, còn Lão thì “ xuất thế ”, “ vô vi ”. Không phải không có lí do khi có người coi Lão Tử là “ ông tổ triết học của dòng Bách Việt ” ( Nguyễn Hữu Lương, 1971 ) .
Cũng chính vì học thuyết của Lão Tử kiến thiết xây dựng trên cơ sở triết lí âm khí và dương khí của văn hóa nông nghiệp là cái mà truyền thống cuội nguồn văn hóa gốc du mục chưa hề biết đến do đó Hegel từng nhận xét rằng tư tưởng của Khổng Tử thì nghèo nàn, còn Lão Tử mới xứng danh là người đại diện thay mặt cho ý thức phương Đông cổ đại .
Không phải ngẫu nhiên mà trong khi Khổng Tử luôn được tưởng tượng như một ông quan phương Bắc mũ cao áo dài thì Lão Tửnhư một ông già nông dân phương Nam chất phác chân đất cưỡi trâu ( hình 6.21 ). Trong khi tiểu sử cụ Khổng được người sau biết rất rõ thì lai lịch cụ Lão mờ mờ ảo ảo. Trong khi Khổng ôm mộng “ bình thiên hạ ” thì Lão hài lòng với những “ nước nhỏ dân ít ” như những làng quê mang tính hội đồng ở bên trong và tính tự trị ở bên ngoài, nhỏ tới mức “ nước láng giềng trông thấy nhau, tiếng gà gáy chó sửa cùng nghe ”, và tự trị tới cả “ dân đến già chết mà không đi lại với nhau ” .
Trong khi Khổng Tử dù đã phối hợp tinh hoa của văn hóa nông nghiệp với truyền thống cuội nguồn của văn hóa gốc du mục mà Nho giáo của ông vẫn không được dùng thì dễ hiểu là triết lí trọn vẹn dựa trên truyền thống lịch sử nông nghiệp phương Nam của Lão Tử càng không hề được sử dụng. Lão Tử phàn nàn : “ Lời nói của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm. Thế mà thiên hạ không ai hiểu, không ai làm ” .
1.3. Mãi đến Trang Tử ( khoảng chừng 369 – 286 trCN ), học thuyết của Lão Tử mới lại được người đời quan tâm. Trang Tử tên thật là Trang Chu, người nước Tống ( nay thuộc tỉnh Hà Nam ), suốt đời phủ nhận làm quan, cuối đời sống ẩn dật tại núi Nam Hoa, tư tưởng của ông được ghi lại trong sách Nam Hoa kinh .
Trong nghành nghề dịch vụ nhận thức, tăng trưởng tư tưởng biện chứng của Lão Tử, Trang Tử đã tuyệt đối hóa sự hoạt động, xóa nhòa mọi ranh giới giữa con người và vạn vật thiên nhiên, giữa phải và trái, giữa sống sót và hư vô, đẩy phép biện chứng tới mức cực đoan thành một thứ tương đối luận .
Một ví dụ rất nổi bật cho thuyết tương đối ngụy biện của Trang Tử là câu truyện Trang Chu hóa bướm ghi trong Nam Hoa kinh : Một hôm Trang Chu chiêm bao thấy mình là bướm, thích chí bay luôn, quên mình là Chu. Chợt tỉnh dậy, quá bất ngờ thấy mình là Chu. Và rồi sợ hãi chẳng còn biết Chu chiêm bao thấy mình là bươm hay bướm chiêm bao thấy mình là Chu nữa !
Trong nghành xã hội, nếu như Lão Tử chỉ dừng ở mức không ưng ý cách quản lý hữu vi, thì Trang Tử thù ghét kẻ thống trị đến cực độ ; ông không chỉ bất hợp tác với họ mà còn nguyền rủa, châm biếm họ là bọn đại đạo ( kẻ trộm lớn ) : “ Kẻ trộm gươm thì chết, người trộm nước thì làm vua chư hầu. Cửa vua chư hầu mà còn có nhân nghĩa nữa sao ? ”
Nhưng Trang Tử đề xuất kiến nghị giải pháp gì ? Ông đã đẩy phép vô vi với chủ trương sống hòa mình với tự nhiên của Lão Tử tới mức cực đoan thành chủ nghĩa yếm thế thoát tục, quay trở lại xã hội nguyên thủy : “ Núi không đường đi, đầm không cầu thuyền, muôn vật chung sống, làng xóm liên tục cùng ở với cầm thú ” .
1.4. Trong cảnh loạn li cuối thời Đông Hán ( thế kỉ II ), tư tưởng của Lão Tử cộng với chất duy tâm mà Trang Tử đưa vào đã trở thành cơ sở cho việc thần bí hóa đạo gia thành ĐẠO GIÁO. Chủ trương vô vi cùng thái độ phản ứng của Lão-Trang so với chủ trương áp bức bóc lột của những tầng lớp thống trị khiến cho Đạo giáo rất thích hợp để dùng làm vũ khí niềm tin tập hợp nông dân khởi nghĩa .
Đạo giáo thờ “ Đạo ” và tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là “ Thái Thượng Lão Quân ”, coi ông là hóa thân của “ Đạo ” giáng sinh xuống cõi trần. Nếu mục tiêu của việc tu theo Phật giáo là thoát khổ thì mục tiêu của việc tu theo Đạo giáo là sống lâu. Đạo giáo có hai phái : ĐẠO GIÁO PHÙ THỦY dùng những pháp thuật trừ tà trị bệnh hầu hết giúp cho dân thường mạnh khỏe. ĐẠO GIÁO THẦN TIÊN dạy tu luyện, luyện đan, dành cho quý tộc cầu trường sinh bất tử. Kinh điển của Đạo giáo gọi là Đạo tạng ; ngoài sách về nghi lễ, giáo lí, Đạo tạng còn gồm có cả những sách thuốc, dưỡng sinh, bói toán, tướng số, coi đất, thơ văn, bút kí, … tổng số lên tới trên năm nghìn quyển .
Đạo giáo khởi đầu bằng Ngũ đấu mễ đạo ( Đạo 5 đấu gạo ) – một thứ Đạo giáo phù thủy do Trương Đạo Lăng sáng lập. Trương Đao Lăng tu luyện ở vùng núi Tứ Xuyên, ông lấy Lão Tử làm ngọn cờ, dùng bùa chú và phương thuật, nước phép và cỏ dại chữa bệnh để lôi cuốn mọi người vào đạo nhằm mục đích chống lại những thế lực phong kiến Đời Tam Quốc, Trương Giác cũng dùng những phương thuật, bùa phép để tập hợp nông dân triển khai khởi nghĩa Hoàng cân ( nghĩa quân đầu chít khăn vàng làm tín hiệu ) chống lại chính sách quản lý đương thời .
Đạo giáo thần tiên hướng tới việc tu luyện thành thần tiên trường sinh bất tử. Tu tiên có hai cách : nội tu và ngoại dưỡng. Ngoại dưỡng là dùng thuốc trường sinh, gọi là kim đan ( hay linh đan, thu được trong lò bằng cách luyện từ một số ít khoáng chất như thần sa, hùng hoàng, từ thạch, vàng ). Nội tu là rèn luyện thân thể, dùng những phép tịch cốc ( nhịn ăn ), dưỡng sinh, khí công, … lấy thân mình làm lò luyện, luyện tinh thành khí, luyện khí thành thần, luyện thần quay trở lại hư vô ( Đạo ). Con người, cũng như vạn vật, là từ “ Đạo ” mà sinh ra ; do đó tu luyện là quay trở lại với “ Đạo ” .

  1. Sự thâm nhập và phát triển của Đạo giáo ở Việt Nam

2.1. Đạo giáo xâm nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỉ II. Sách Đạo Tạng kinh ghi : “ Sau khi vua Hán Linh đế băng hà, xã hội ( Trung Quốc ) rối loạn, chỉ có đất Giao Châu là yên ổn. Người phương Bắc chạy sang lánh nạn rất đông, đa số là những đạo sĩ luyện phép trường sinh theo cách nhịn ăn ”. Nhiều quan lại Trung Quốc sang ta quản lý đều sính phương thuật ( như Cao Biền đời Đường từng lùng tìm yểm huyệt, hy vọng cắt đứt những long mạch để triệt nguồn nhân tài Việt Nam ) .
Trong khi Nho giáo chưa tìm được chỗ đứng ở Việt Nam thì Đạo giáo đã tìm thấy ngay những tín ngưỡng tương đương có sẵn từ lâu. Từ thời xưa người Việt Nam từ miền núi đến miền xuôi đã rất sùng bái ma thuật, phù phép ; họ tin rằng những lá bùa, những câu thần chú … hoàn toàn có thể chữa bệnh, trị tà ma, hoàn toàn có thể làm tăng sức mạnh, gươm chém không đứt … Tương truyền Hùng Vương là người giỏi pháp thuật nên có uy tín thu phục 15 bộ lập nên nước Văn Lang. Ngay những nhà sư cũng phải học những phép trị bệnh, trừ tà thì mới đưa Phật giáo xâm nhập sâu vào dân chúng vốn có tín ngưỡng ma thuật được. Vì vậy, dễ hiểu là tại sao Đạo giáo, trước hết là Đạo giáo phù thủy, đã xâm nhập nhanh gọn và hòa quyện thuận tiện với tín ngưỡng ma thuật truyền thống tới mức không còn ranh giới. Do vậy mà tình hình Đạo giáo ở Việt Nam rất phức tạp, khiến cho không ít nhà nghiên cứu đã quy hết mọi tín ngưỡng truyền thống Việt Nam cho Đạo giáo và, ngược lại, người Việt Nam sính đồng bóng, bùa chú thì lại chẳng hề biết Đạo giáo là gì .
Một sự độc lạ nữa không kém phần quan trọng giữa Nho giáo và Đạo giáo là : Trong khi Nho giáo vốn mang thực chất của một công cụ tổ chức triển khai xã hội và, với Hán Nho, nó đã thực sự trở thành vũ khí của kẻ thống trị thì Đạo giáo, trên cơ sở thuyết vô vi, lại sẵn mang trong mình tư tưởng phản kháng giai cấp thống trị. Vì vậy, cũng giống như ở Nước Trung Hoa, vào Việt Nam, Đạo giáo ( phù thủy ) đã được người dân sử dụng làm vũ khí chống lại kẻ thống trị. Ngay khi xâm nhập, nó đã là vũ khí chống lại phong kiến phương Bắc rồi. Phong trào nông dân khởi nghĩa ở những tỉnh Nam Trung Hoa vào thế kỉ II đều có liên hệ với những cuộc khởi nghĩa nông dân hai Q. Giao Chỉ, Cửu Chân. Vào thời kì phong kiến dân tộc bản địa ở Việt Nam, Đạo giáo thường được dùng để lôi cuốn nông dân tham gia vào những cuộc bạo động chống lại cường hào ác bá địa phương và quan lại TW : Thời Lí Nhân Tông có Lí Giác đứng đầu cuộc bạo động ở Diễn Châu ( Nghệ An ), là kẻ học được phép lạ hoàn toàn có thể “ biến cỏ cây thành nguồn ”. Năm 1379 ( đời Trần Phế Đế ), ở Bắc Giang có Nguyên Bổ xưng vương, hiệu là Đường Lang Tử Y. Đời Hồ có Trần Đức Huy dùng phương thuật lôi cuốn phần đông người theo, bị Hồ Quý Li dẹp năm 1403 .

Thời chống Pháp, để đối phó với kẻ địch có ưu thế về súng đạn, nhiều cuộc khởi nghĩa đã tích cực sử dụng ma thuật phù thủy làm vũ khí tinh thần: Mạc Đĩnh Phúc (cháu 18 đời nhà Mạc) khởi nghĩa năm 1895 ở các tỉnh miền biển Bắc Bộ, tuyên truyền là mình có phép làm cho súng Pháp quay trở lại bắn Pháp. Võ Trứ (quê ở Bình Định) và Trần Cao Vân (quê ở Quảng Nam) lãnh đạo nghĩa quân người Kinh và người Thượng đeo bùa mang cung tên, dao rựa đánh giặc. Nguyễn Hữu Trí đóng trụ sở ở núi Tà Lơn (Nam Bộ), tôn Phan Xích Long làm Hoàng đế, đồn rằng ông là con vua Hàm Nghi và có nhiều phép màu, nhất là phép làm cho súng địch không nổ. Rồi phong trào lập “hội kín” ở Nam Kì lôi cuốn hàng vạn người tham gia…

2.2. Bên cạnh việc thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão quân, thần Trấn Vũ ( Huyền Vũ ), Quan Thánh đế ( Quan Công ), thần điện của Đạo giáo phù thủy Việt Nam còn thờ nhiều vị thần thánh khác do Việt Nam kiến thiết xây dựng. Trần Hưng Đạo được coi là có tài trừ tà ma cứu nạn cho dân nên được tôn là Đức Thánh Trần ; Liễu Hạnh được coi là nàng tiên có nhiều phép thần thông luôn phù hộ cho dân nên được tôn là Bà Chúa Liễu. Trong tâm thức dân gian, Thánh và Chúa luôn sóng đôi bên nhau ( Tháng 8 giỗ Cha, tháng 3 giỗ Mẹ ) – đó chính là mẫu sản phẩm của lối tư duy cặp đôi theo triết lí âm khí và dương khí ( xem II – § 1.4 ) .
Thờ đức Thánh Trần và Tam phủ, Tứ phủ thường gắn liền với đồng cốt ( đồng bóng ). Người thờ đức Thánh Trần gọi là Thanh đồng ( Ông đồng ) ; còn những Bà đồng thì thờ Tam phủ, Tứ phủ, gọi là thờ Chư vị. Lên đồng còn gọi là hầu bóng, mỗi lần người ngồi đồng được thần thánh nhập vào phán bảo hoặc chữa trị … gọi là một giá đồng. Những phụ nữ số phận long đong lận đận được khuyên là có số thờ phải đến đội bát hương ở đền hay phủ, xin làm con công đệ tử của thánh thần .
Ngoài ra, những pháp sư còn hay thờ những thần : Tam Bành, Độc Cước, Huyền Đàn, ông Năm Dinh, Quan Lớn Tuần Tranh .
Tam Bành tương truyền vốn là ba bọc sừng-sỏ-sắt do một bà me quê ở Huyện Vụ Bản ( Tỉnh Nam Định ) sinh ra vào thời vua Lê Thánh Tông. Bà mẹ sợ quá đem chôn. Rồi Sừng-Sỏ-Sắt hóa thành tinh, rất rất thiêng và có công đánh giặc nên được vua phong là Tam Danh đại tướng âm binh. Các pháp sư thờ hình người có ba đầu gọi là Tam Danh, dần dấn đọc chệch thành Tam Bành .
Thần Độc Cước là con một pháp sư nổi tiếng ở Từ Sơn ( TP Bắc Ninh ). Tương truyền đứa trẻ mới ba tuổi đã đánh trống động tới Trời, Trời sai thiên tướng xuống lừa lúc nó ngủ chém xẻ đôi người. Bố nó đem chôn, tương truyền 100 ngày sau đứa bé sống lại, chỉ còn đầu mình với một tay một chân nên được gọi là Độc Cước. Ở núi Sầm Sơn ( Thanh Hóa ) có đến thần Độc Cước thờ một vết bàn chân lớn in thủng mặt đá ; tương truyền thần bắt tà ma rất linh ứng .
Huyền Đàn là vị thần tương truyền Open vào thời Đinh, cưỡi cọp đen, múa gươm, đánh đâu thắng đó, được Ngọc Hoàng xếp vào sẽ 12 thiên tướng .
Ông Năm Dinh ( hay Ngũ Dinh quan lớn ) là thần Ngũ Hổ có sức mạnh trấn trì tà ma. Ông Năm Dinh được thờ trong điện dưới dạng bức tranh Ngũ Hổ .
Quan lớn Tuần Tranh tương truyền là một cặp rắn thần nở từ trứng do hai ông bà già ở Tứ Kì ( Thành Phố Hải Dương ) nhặt được. Lớn lên, cặp rắn quấn quýt lấy hai người nhưng lại hay ăn gà. Sợ hàng xóm biết, ông phải đem ném chúng xuống sông Tranh, nơi đó nước trở nên xoáy mạnh và rất rất thiêng. Quan lớn Tuần Tranh được thờ trong điện dưới dạng hai con rắn bằng giấy ( là Thanh Xà và Bạch Xà – đặt tên theo màu Ngũ hành ! ) .
Các đạo sĩ từng được nhà nước phong kiến rất là coi trọng chẳng ném gì tăng sư. Các vị qua thời Đinh, Lê, Lí, Trần đều chọn cả tăng sư lẫn đạo sĩ vào triều làm cố vấn ; bên cạnh tăng quan, có cả chức đạo quan .
Vào thế kỉ XVII, dưới thời vua Lê Thần Tông, Open một phe phái Đạo giáo Việt Nam có quy mô rất lớn gọi là Nội Đạo. Người sáng lập ra Nội Đạo là Trần Toàn, quê ở Quảng Xương ( Thanh Hóa ), nguyên là một quan to triều Lê, không theo nhà Mạc, từ quan về quê tu tiên, giúp dân trừ ma quỷ suốt hai vùng châu Hoan và châu Ái. Ông mở đạo trường ở Hoằng Hóa, có 10 vạn Fan Hâm mộ, được tôn là Thượng sư. Tương truyền ông từng dùng bùa phép chữa khỏi bệnh mọc lông cọp cho vua Lê Thắn Tông, cứu sống con Chúa chết đã hai ngày. Vua và Chúa sai dựng nhà ở quê cho Toàn và tự tay vua ghi ba chữ Nội Đạo Tràng. Ba người con trai của Toàn đều giỏi đạo pháp, được tôn là “ Tam Thánh ”. Phái đạo này tăng trưởng vào Nghệ An và ra Bắc ; đến tận thế kỉ XX hãy còn sống sót nhiều TT ở Thanh Hóa, Nghệ An, Thành Phố Hải Dương, Hưng Yên, TP. Hà Nội. Thậm chí tới sau cuộc chiến tranh quốc tế lấn thứ nhất, ở Giảng Võ ( TP.HN ) hằng năm còn có tới mấy vạn Fan Hâm mộ đến trường Nội đạo để cúng lễ, chữa bệnh !
2.3. Trong Đạo giáo thần trên thì phái luyện thuốc trường sinh ( ngoại dưỡng ) hầu hết phổ cập ở Nam Trung Hoa nhưng hầu hết thần sa mà những đạo sĩ Trung Quốc sử dụng để luyện đan đều được những lái buôn mua từ Giao Chỉ ( thường là phải đổi bằng vàng ). Năm 42, Mã Viện đưa quân sang Giao Chỉ, ngoài việc dẹp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, còn có mục tiêu tìm kiếm những mỏ thần sa. Sau trận chiến tại mặt trận Mê Linh – Cấm Khê khiến Hai Bà Trưng phải tự vẫn tại cửa sông Hát, rồi đàn áp đẫm máu bộ phận còn lại của nghĩa quân ở Cửu Chân ( Thanh Hóa ), Mã Viện liên tục tiến sâu vào tận vùng mà nay là Quảng Nam và đã tìm thấy mỏ thần sa khổng lồ tại Cù Lao Chàm, mỏ này khai thác đến hết đời Tống mới cạn. Đời Đông Tấn ( 326 – 334 ), Cát Hồng khước từ tước vị do triều đình tấn phong, chỉ xin sang làm tri huyện ở Câu Lậu ( Thành Phố Hải Dương ) để tìm đan sa luyện thuốc. Thế kỉ XIII ( đời Nguyên ), nhà sư Thích Đại Sán đi du khảo vùng Đông Dương đã xác nhận rằng xứ Giao Chỉ là nơi có nhiều thần sa, và mỏ thần sa ở Cù Lao Chàm là lớn nhất. Đạo giáo thần tiên ở Việt Nam chỉ Open lẻ tẻ, riêng biệt, như trường hợp Đạo sĩ Huyền Vân tu ở núi Phụng Hoàng ( Thành Phố Hải Dương ) đời Trần Dụ Tông ( ở ngôi 1341 – 1369 ), được vời vào triều để dâng vua thuốc trường sinh .
Mang tính phổ cập trong Đạo giáo thần tiên ở Việt Nam là phái nội tụ. Người Việt thờ Chủ Đồng Tử ( người thời vua Hùng, tương truyền đã từng lên núi tu luyện, được ban gậy thần và sách ước, sau thành tiên bay lên Trời ) làm ông tổ của Đạo giáo Việt Nam, gọi là Chử Đạo Tổ. Lịch sử và truyền thuyết thần thoại Việt Nam từng ghi lại sự tích nhiều đạo sĩ tu luyện thành tiên, tương truyền có nhiều phép lạ .
Đời Trần Thuận Tông ( ở ngôi 1388 – 1398 ) có Từ Thức quê ở Thanh Hóa, khi làm quan ở Tiên Du ( TP Bắc Ninh ) đã tương hỗ một người con gái, sau về quê ở ẩn tương truyền thành tiên và được kết hôn với tiên nữ Giáng Hương là cô gái mà ông tương hỗ khi xưa. Đời Trần-Hồ có người tu tiên ớ núi Nưa ( Nông Cống, Thanh Hóa ), người đương thời gọi là Hoàng Mi tiên sinh, từng tiên đoán đúng chuẩn hậu vận của cha con họ Hồ ; tương truyền đến thời Lê, Nguyễn sau này đôi lúc vốn có người còn gặp .
Đời Lê có thư sinh Trần Tú Uyên tương truyền là có như mong muốn kết hôn với tiên nữ Giáng Kiều tại xóm Bích Câu ( Thành Phố Hà Nội ), sau hai vợ chồng cưỡi hạc bay lên trời ; tại nền nhà cư dân lập đền thờ ( gọi là “ Bích Câu đạo quán ” ) tương truyền rất rất thiêng, từng báo mộng cho vua Lê đánh thắng quân Chiêm Thành. Vua Lê Thánh Tông ( ở ngôi 1460 – 1497 ) có lần đi chơi Hồ Tây đã xướng họa thơ văn cùng một thiếu nữ xinh đẹp rồi đưa lên xe rước về cung, tương truyền nàng chính là tiên nên khi về đến cửa Đại Hưng ( nay là cửa Nam, TP.HN ) thì bay lên trời mất. Vua thương nhớ cho cất tại đó một lều gọi là Vọng tiên lâu ( nay là “ Vọng tiên quán ” ở 120B Hàng Bông ) ; người đời đặt tên cho cô là Bồi Liễn tiên nương ( = nàng tiên đi cùng xe vua ). Đời Lê Thần Tông ( ở ngôi 1619 – 1643 và 1649 – 1662 ) có Phạm Viên quê ở Nghệ An lên núi Hồng Lĩnh hái thuốc tương truyền đã gặp tiên học đạo, có tài biết trước hỏa hoạn, biết trước ngày cha từ trần, từng cho một lão ăn mày cây gậy có phép lạ tự xin được tiền để sống …
Thanh Hóa đời Nguyễn đã sưu tầm và ghi lại sự tích 13 ông tiên và 14 bà tiên Việt Nam trong sách Hai chân biên ( xuất bản năm 1847 ) .
Giới sĩ phu Việt Nam xưa thường cùng nhau tổ chức triển khai phụ tiên ( hay cầu tiên, cầu cơ ) để cầu hỏi cơ trời, hỏi chuyện thời thế, đại sự cát hung … Nhiều đàn phụ tiên từng nổi danh một thời như đền Ngọc Sơn ( Thành Phố Hà Nội ), đền Tản Viên ( Sơn Tây ), đền Đào Xá ( Hưng Yên ) … Nhiều nhà Nho nhà cửa khang trang đã lập đàn phụ tiên tại tư gia. Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền ( 1868 – 1925 ) khi làm đốc học Tỉnh Ninh Bình thậm chí còn đã từng lập đàn phụ tiên ngay tại công đường. Đầu thế kỉ XX, những đàn cầu tiên ( gọi là thiện đàn ) mọc lên khắp nơi đã đóng một vai trò quan trọng trong việc cổ vũ ý thức dân tộc bản địa và yêu nước, chống Pháp. Nhiều đàn cầu cơ ở miền Nam đã là một trong những tiền đề dẫn đến sự hình thành đạo Cao Đài .
Để lập đàn chỉ cần đặt một án nhỏ trên để một đỉnh đốt trầm, một bình cắm hoa ; trước án bày một mâm đựng gạo kín khắp mặt mâm và một cành đào vót nhọn, gọi là hạc bút để viết trên mâm gạo. Một nho sinh sức học tầm thường chỉ cần dù biết viết, đầu phủ khăn điều bịt kín mặt, tay cầm hạc bút chờ sẵn ( gọi là cầm kê ). Sau khi đốt hương trầm cầu khấn, nếu có tiên giáng bút thì người cầm kê, đầu vẫn trùm khăn kín, sẽ viết rất nhanh từng chữ, hai người ngồi phụ hai bên sẽ đọc to và chép ra giấy. Nếu có chữ nào đọc sai thì kê bút sẽ gõ vào mâm và viết lại. Cứ thế đến hết bài thơ .

Tương truyền khi người cấu tiên hỏi những việc thuộc thiên cơ mà tiên thánh không thể tiết lộ (công danh, thi cử, đề thi…) thì chỉ sau khi việc xong mới vỡ lẽ rằng nội dung giáng but đã nói rất rõ và chính xác. Nhất Thanh (1973) có kể về trường hợp hai bạn học có tiếng hay chữ ở Thanh Hóa phụ tiên hỏi đề khoa thi Hương thời Thiệu Trị, mãi đến gần sáng đêm thứ hai, tiên thánh mới giáng bút ba chữ “Đông chấn thù” rồi thăng ngay. Hai người suy nghĩ cả tháng trời mà vẫn không hiểu ra sao vì chưa từng gặp ba chữ ấy trong sách vở của Bách gia bao giờ. Đến khi vào thi thấy đề ra là “Đông thú Trần” mới vỡ lẽ, vì nếu giáng là “Đông trấn thù” (trấn và chấn khác nhau cả nghĩa và mặt chữ) thì dã có thể nói lái mà đoán được rồi.

Gần với Đạo giáo thần tiên là khuynh hướng ưa thanh tĩnh, nhàn lạc. Hầu hết những nhà nho Việt Nam đều mang tư tưởng này. Sinh không gặp thời, gặp chuyện bất bình trong chốn quan trường hay khi về già, những cụ thường lui về ẩn dật, tìm nụ cười nơi vạn vật thiên nhiên, bên chén rượu, khi cuộc cờ, hay làm thơ xướng họa – sống một cách điều độ với niềm tin thanh thản trong khung cảnh vạn vật thiên nhiên trong hành chính là một cách dưỡng sinh vậy. Đường Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phan Huy ích, Nguyễn Công Trứ … đều là những ví dụ nổi bật .
Ở Việt Nam, Đạo giáo như một tôn giáo đã tàn lụi từ lâu. Dấu vết hoạt động giải trí ở đầu cuối của nó là sự kiện một nhóm Fan Hâm mộ xuất bản vào năm 1933 ở TP HCM một bộ sách mang tên Đạo giáo viết theo ý thức tôn giáo gồm 3 tập. Đến nay, những hiện tượng kỳ lạ như đồng bóng, đội bát nhang, bùa chú … tuy vẫn lưu truyền, nhưng chúng chỉ còn là những di sản của tín ngưỡng dân gian truyền thống lịch sử mà thôi .
Hits : 5934

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp