Tâm linh và vũ trụ – Phật giáo A Lưới

Ngày nay, khoa học đồng thuận với đạo học về sự tương quan giữa con người và vũ trụ, một sự tương quan mật thiết mà ý thức con người gắn liền với sự hình thành, tồn tại và thăng hoa; chỉ có con người mới đủ năng lực hòa nhập và chủ động. Tuy mọi loài động vật khác, thực vật và khoáng vật cũng không ra ngoài sự liên kết đó, nhưng sự tồn tại và phát triển của chúng trong một hạn giới khách quan và vô thức (so với con người). Con người là dấu ấn của sự tiến hóa từ các loài hạ đẳng qua thời gian lâu dài, một sự tiệm tiến do giao tiếp mà thuật ngữ nhà Phật gọi là: “xúc cảnh sanh tình”. Một con ốc ma, con cuốn chiếu khi bị vật cản, chúng tự co cụm tìm hướng khác để bò, chúng tìm đến thức ăn và ẩn mình vào ban ngày; Mỗi loài có một phản xạ cá biệt. Cây cỏ biết tìm ánh sáng mà tránh bóng rợp. Các loài giây leo có khuynh hướng bò lên mà không chúi xuống. Tất cả loài có sự sống đều phát triển hướng đi lên. Sự phát triển đều mang tính tự tồn và hướng thượng; Từ sinh vật nhỏ nhiệm đến to lơn, từ vật thể vĩ mô như vũ trụ đến  vi mô như hạt Higgs, chúng đều có một cái biết tự thể qua sự vận hành, tồn tại và giao thoa; loài càng phát triển cao càng có tính chấp thủ, tự vệ, vì thể có động thái phản kháng, tranh chấp và triệt tiêu lẫn nhau, xa dần sự hồn hậu của bản nhiên. Như thế, cái biết của bản năng và cái biết của ý thức không do sự cấu tạo của não bộ, mà não bộ là kết quả tiến hóa của linh thức ( sinh thể năng lượng) mà thành.
 
Ngoài cá tính đó, tất cả vạn loại đều chịu một ảnh hưởng chung của năng lượng vũ trụ, năng lượng vũ trụ là nguồn lực sinh tồn vô thủy vô chung. Trường năng lượng là loại vật chất vi tế, tần số dao động cực nhanh cực mạnh thì tính thanh khiết càng cao. Tần số dao động chậm thì các tinh thể vật chất thô càng đậm đặc, hình thành cơ cấu vật lý, vì thế mà thực vật, khoáng sản, mọi sinh vật đều mang một năng lượng sinh học, một phần năng lượng được chiết xuất từ năng lượng vũ trụ. Cũng thế, chấn động lực tâm thức cao, sẽ thanh tẩy mọi tạp thức uế trược, nâng tâm thức lên cấp độ vi tế, kích hoạt tuyến Tùng để khai quang trí huệ. Do tính trọng trược u trệ của cảnh giới vật chất thô mà không gian bị hạn chế, năng lượng sinh thức cũng thế, tâm ô nhiễm tạp loạn thì tinh thần u ám thiếu minh tuệ. Ngược lại, tâm thức khai quang hòa đồng cùng năng lượng vũ trụ, bấy giờ năng lượng siêu thức trở thành không gian đa chiều và thời gian phi tuyến tính. Tính tương thích giữa năng lượng sinh học của vật chất thô và năng lượng vũ trụ vật chất vi tế tuy hai mà một, như sóng và nước tuy một mà hai.
 
Trường năng lượng vũ trụ chính là trường năng lượng siêu thức trong mỗi cá thể, do tần số dao động thấp mà năng lượng sinh học bị ứ trệ bế tắt (chủng tử ẩn tàng trong tạng thức) sinh ra bệnh hoạn. Tần số dao động thấp  là do ý tưởng vô minh cản trở sự lưu thông năng lượng sinh học. Một hành giả thành tựu là hành giả hòa nhập với trường lực vũ trụ, giải tỏa mọi bế tắt tâm sinh lý, mọi huyệt mạch và tâm thức được câu thông, năng lượng sinh thức sẽ thăng tiến nếu chưa khai triển được năng lượng siêu thức tuyệt đỉnh (hóa giải nghiệp thức). Như vậy tâm linh là con đường thăng hoa của vật chất thô để tiến vào lãnh địa vi tế của tâm thức, hoàn toàn khoa học mà không mang tính huyền thoại mê tín. Ngày nay, nhiều dạng đi vào thế giới tâm linh, tùy căn cơ và sở trường của từng hành giả mà sự thành tựu dưới nhiều dạng thức.
 
Nghiệp thức và chuyển hóa
Kỷ thuật khoa học tăng trưởng cực nhanh, đưa con người đến thế giới hưởng thụ và cảm xúc, kéo theo nhiều tập khí ô trược làm ảnh hưởng sức khỏe cá nhân, và, cộng nghiệp chúng sanh tác động đến môi trường sống, làm biến đổi khí hậu và năng lượng sạch. Nông nghiệp sử dụng thuốc trừ sâu diệt cỏ thì  một số loại sâu bọ côn trùng mới phát sanh; cũng thế thuốn men, thực vật biến đổi gen, thực phẩm mới và sự hưởng thụ cũng tạo cho cơ thể phát sanh những loại virus mới để thích ứng với cơ năng sinh hoạt, vì thế mà bệnh tật mới phát sanh. Cứ thế mà con người chạy cút bắt lòng vòng trong đau khổ. Nhà Phật bảo: “cái nầy có thì cái kia có, cái nầy sanh thì cái kia sanh, cái nầy diệt thì cái kia diệt”. Vậy thiên tai dịch bệnh không thể dùng phương tiện vật chất trừ tuyệt, vì đó là hậu quả tất yếu của tâm thức, cái gì sanh phải từ cái đó để diệt; Do tâm tham dục hưởng thụ, độc ác, ích kỷ phát sanh thì cũng từ  những yếu tố đó để chuyển hóa. Virus là những nghiệp báo của tâm thức cấu thành, tâm thức được chuyển hóa trong sáng, yêu đời, vị tha, năng động vô cầu thì tự nhiên mọi nghiệp thức không có dịp để phát triển.
 
 Khoa học tâm linh xác nhận tâm linh là kho tàng ẩn dấu mọi huyền bí và quyền năng vũ trụ, tâm linh quyết định khai sinh hiện tượng chứ không phải hiện tượng sinh khởi tâm linh. Nghĩa là năng lượng vũ trụ (năng lượng siêu thức) cấu thành vũ trụ vật lý. Thời đại duy vật quan niệm vật chất khai phát tâm linh là một quan niệm bị bế tắt, khoa học huyền bí chứng minh cho thấy tâm linh quyết định năng lượng vật chất thô; trường năng lượng vũ trụ, tâm từ và trí huệ xuất thế gian cũng chỉ là một. Vì thế, Phật giáo gọi là “nhất thiết duy tâm tạo”
 
Đây là tiến độ song hành giữa năng lượng vũ trụ và năng lượng sinh thức:
– Năng lượng vũ trụ là trường lực dao động thường hằng để duy trì sự sống. Tần số dao động thấp thì kết tụ các tinh thể nguyên tử cấu thành vật chất (các hạt cơ bản ).
– Năng lượng siêu thức là tính thể uyên nguyên của một cá thể; khi năng lượng siêu thức suy giảm tần số dao động tinh túy thì vô minh tạp niệm sinh khởi, năng lượng sinh thức là môi trường cho khuynh hướng tiến hoặc lùi để quyết định là Thánh hoặc phàm của một cá thể.
 
Theo các nhà khoa học thì:  Các yếu tố vật lý luôn dao động, đấy là điều vô cùng quan trọng. Đặc trưng dao động của các yếu tố này thể hiện các thuộc tính Vật chất của Hạt cơ bản. Các đặc trưng dao động của các yếu tố này thể hiện năng lượng, thể hiện khối lượng,  thể hiện điện tích, thể hiện các lực của tự nhiên: lực mạnh, lực yếu, lực điện từ và lực hấp dẫn,… của Hạt cơ bản. Mà tần số dao động càng cao thì năng lượng càng lớn! Nhưng, cũng từ cái thấy của khoa học, các hạt cơ bản chỉ là chuổi dài mà “Các Hạt cơ bản được mô tả bằng Chuỗi. Hạt electron, các loại hạt quark là Chuỗi. Hạt nhân Nguyên tử được cấu tạo từ các hạt neutron, hạt proton; các hạt neutron và các hạt proton được cấu tạo từ 3 hạt quark. Hạt nhân Nguyên tử sẽ là tổ hợp không nhiều lắm các Chuỗi.”  ( vũ trụ-tính không – Nguyễn Hiếu sưu tầm)
Như thế,  hiện tượng vật lý thô đã hàm tàng tính Không thì sinh thể năng lượng vật lý vi tế là gì??? Thế giới mà mắt thường không nhìn thấy, (ngoại trừ Thiên nhãn, huệ nhãn và Phật nhãn) tuy chưa chứng minh được, nhưng khoa học vẫn phải chấp nhận có sự tồn tại nơi thế giới vô hình như các tôn giáo thường đề cập, đó là sự sống của trường năng lượng vi tế hay gọi là năng lượng siêu thức. Sinh thể năng lượng vi tế đó song song với sinh thể năng lượng vật lý thô, cùng tồn tại và ảnh hưởng lẫn nhau.
 
Não bộ kết tập các kinh nghiệm, các ý tưởng làm hạt giống thiện ác lưu trử vào tạng thức, chuyển hóa những cảm thọ thành hạt giống buồn vui để hạt nhân đó ấp ủ gặp cơ duyên thuận lợi sẽ trổ quả hiện báo, sanh báo hoặc hậu báo. Nếu là sanh báo hoặc hậu báo, những hạt giống đó truyền tải vào năng lượng sinh thức, tồn tại trong một sinh thể năng lượng, khi tần số dao động của năng lượng sinh thức hội tụ trong một sinh thể vật lý, chủng tử đó ẩn tàng một thời gian đến khi cơ thể vật lý đủ khả năng cảm thọ, tư duy và hành hoạt để tạo duyên mới trong môi trường mới thì những hạt nhân đó mới phát sanh ra quả hoặc thiện hoặc ác hoặc vô ký; trong thời gian trổ quả, nghiệp thức tạo thêm chủng tử mới để làm giây xích tiếp tục kết nối những sinh mạng vật lý hoặc sinh thể năng lượng kế tục mà luân hồi miên viễn.
 
Nếu hiện kiếp, một sinh thức tuy chứa nhiều tạp nghiệp, nhưng do phúc báu nhiều đời, gặp được minh sư, chư Bồ Tát, Thánh Tăng, được pháp hành chuyển hóa nghiệp thức, kết hợp với năng lượng  dương của vũ trụ, bấy giờ năng lượng siêu thức có cơ may được đánh thức để hội nhập vào biển tuệ giác, cội nguồn bản lai, còn gọi là Như Lai tạng tánh, đồng nghĩa với lòng từ vô lượng mà các đấng giáo chủ, các minh sư đều có; cơ thể năng lượng của các ngài là cơ thể vô lượng quang, đồng bản thể với năng lượng từ bi tuyệt đối.
 
Như vậy Tính không của chư Phật, nhất là Bồ tát Quán thế Âm thấu suốt thế gian có mâu thuẩn với năng lượng hằng hữu của vũ trụ hay quang năng thường trụ của mười phương Thánh hiền? Hãy nghe lại đoạn kinh Bát Nhã:
“Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không…”
 
Như đã trình bày phần trên, dưới ánh sáng khoa học vật lý thì mọi hình thái đều cấu thành bởi các nguyên tử, phân tử, hạt nhân…mà tự thân của chúng tồn tại một khoảng trống không như những bong bóng xà phòng bay lơ lửng trong không gian, tự thân chúng chỉ là ảo ảnh, không có một thật thể trường tồn. Cũng thế, bọt bèo trên sóng biển chỉ tồn tại nhờ sự dao động của nước, nước lắng yên thì chúng cũng biến mất. Trên biển năng lượng vũ trụ, do nghiệp thức dao động mà sanh thân ngũ uẩn, chính vì thế mà cái nhìn tuệ giác của chư Phật và Bồ Tát đã thấy thân ngũ uẩn vật lý nầy là không, ngay cả sanh lão bệnh tử, cảm thọ buồn vui cũng là không thật có; đã không thật có thì: “ vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn” chính vì dùng trí tuệ tuyệt đối như thế mà ba đời chư Phật vượt thoát ảo giác, đạt đến chánh đẳng chánh giác hoàn toàn.
 
Tính không của nhà Phật và cái không của khoa học vật lý trong hiện tượng giới chỉ là bề mặt nổi trong biển năng lượng vật lý thô. Nhưng khoa học đã bị bế tắt ngay trước bức tường không thật đó, chưa có phương cách vượt qua như trí tuệ Bát Nhã của nhà Phật. Trong khi đó, Phật giáo cũng như một số giáo phái tâm linh đều đưa ra những pháp hành giúp hành giả thoát khỏi sự khống chế của vọng thức; nghĩa là dùng mộng để diệt mộng. Ngoài lý thuyết giúp cho con người hiều được cái vọng tiền trần và cái vọng nghiệp thức, nhà Phật còn có những phương cách chuyển hóa tâm linh để câu thông năng lượng sinh thức với năng lượng siêu thức mà thoát khỏi biển dao động của năng lượng âm trong vũ trụ. Cũng có những giáo phái tâm linh ( không phải tôn giáo) không có lý thuyết dài giòng, đưa ra pháp hành trực tuyến, đòi hỏi hành giả tuyệt đối tin tưởng và hành trì miên mật, giúp cho vọng thức ngưng bặt để vào đại định, kích hoạt tuyến Tùng trổi dậy mà khai thông tuệ giác. Có những môn phái từ tướng đi vào tánh như Kim Cang Thừa, có những pháp môn dùng tâm quán tâm như Vipassana; có pháp dùng âm thanh để đi vào tánh nghe thường trụ như Lăng Nghiêm đại định tu chứng viên thông hay phản văn văn tự tánh; cũng có pháp trụ tướng để hiển tánh; có pháp nương ánh sáng đi vào quang năng, cũng có pháp quán thân ngũ uẩn để hiển lộ trí tuệ, Sant Mat cũng sử dụng khả năng nghe và nhìn để kích hoạt nguồn sinh lực nội thể, khai thông tuyến Tùng bằng luồng điện âm dương nội thân mà hòa nhập vào năng lượng dương của vũ trụ; có pháp dùng tuệ tri để quán xét tự thân, có pháp dùng một vấn nạn mà xoáy sâu vào định lực như tham thoại đầu… đó là những pháp hành câu thông với năng lượng dương của vũ trụ đưa đến giải thoát từng phần hoặc toàn phần. Dù là pháp hành nào cũng  đưa hành giả nhập vào dòng âm lưu từ bi vô điều kiện; tình thương sẽ lan tỏa tự nhiên, không còn dám xâm hại đến bất cứ một sanh mạng nào, kể cả cỏ cây đất đá, đó là lòng từ ái vô biên đối với mọi loài, và trí huệ ngày càng phát triển linh hoạt, tinh thần thư thái an lạc.Tuy nhiên không thiếu tà sư ngoại đạo sử dụng năng lượng âm để dẫn dắt hành giả thành tựu những hiệu quả của âm trược, mục đích danh, lợi và tình,  lún sâu vào trầm luân đọa lạc.
 
Trường năng lượng vũ trụ là quang năng tự  tánh, là nguồn gốc vũ trụ, là một hiện thực của “chân không diệu hữu”, vượt khỏi ý niệm nhị nguyên của thời gian và nhị biên của không gian; vì thế, cái nhìn của Bồ Tát Quán Thế Âm đối với hiện tượng thế gian là không thật về tướng. Ngài nương giả tướng để hiển tánh, tánh thường hằng thường trụ không phải là trạng thái bất động khô cứng mà là dạng sóng dao động miên tục, như giòng sông biểu hiện sự miên tục luân lưu của các tinh thể nước. Sóng mặt trời chuyển vận ánh sáng đi muôn nơi; sóng điện thoại, sóng âm thanh…đều là bản chất của sóng năng lượng, chúng nằm trong bề mặt của từ trường vũ trụ. Hạnh nguyện của hành giả quán âm là nương vào âm lưu nội tại để hóa giải mọi khổ ách trọng trược của nghiệp thức mà thăng hoa. Phẩm Phổ môn kinh Pháp Hoa có nói trong đoạn kệ:…”hoặc tù cấm xiềng xích, tay chân bị gông cùm, do sức niệm quán âm, tháo rã đặng giải thoát”…(HT Trí Tịnh dịch); hành giả miên mật quán sát âm lưu nội thể thì mọi gông cùm dục vọng trói buộc  đời sống tự động tiêu tan. Mọi dục vọng thế gian là loại năng lượng âm trược biến thể của giòng âm lưu vô minh nhất thời như bọt bèo trên mặt nước lúc dao động, khi năng lượng dương hóa giải thì tự động  chúng được chuyển hóa và hành giả được giải thoát mọi ràng buộc. Thế vào đó là “Từ Tâm” xuất hiện. Từ tâm là lòng từ, là tình thương vô điều kiện, là lực hút. Từ trường là lực hút của vũ trụ, nếu không có lực hút thì vạn vật sẽ phân tán. Từ tính là giòng hút của nam châm. Từ là tình thương là lực hút mà các Bồ Tát các Thánh tăng, các minh sư phát triển không giới hạn. Tình thương phàm tục là lực hút có điều kiện, do vậy thường bị phản xạ đưa đến hậu quả bất trắc, nhưng tình thương của Thánh hiền là chiếc bánh mầu nhiệm, càng phát ra, càng tăng thêm. Như vậy, năng lượng vũ trụ là một từ trường mặc nhiên luôn có lực hút những tâm thức hướng thượng và giải thoát, là vòng đai bảo vệ cho những hành giả thoát khỏi trường lực của năng lượng âm.
 
Trường năng lượng âm – dương
– Hiện tượng vật lý thô, cảnh giới nầy gọi là dương; dương là sự hiển lộ cho mọi người thấy biết. Cơ năng vật lý của mọi sinh vật đều hàm tàng năng lượng; năng lượng sinh học luôn dao động để duy trì sự tồn tại của hình thể, chúng nằm trong dạng sóng năng lượng vũ trụ; khi tần số dao động chuyển đổi thì  đương thể bị biến đổi. Quỷ đạo trái đất chịu ảnh hưởng nhất định của từ trường vũ trụ; vì một biến cố nhỏ nào đó của vũ trụ tuyến, làm quả đất lệch độ thì toàn bộ sinh vật trên hành tinh cũng ảnh hưởng theo, hoặc thiên tai động đất, sóng thần, bệnh dịch, hỏa hoạn, chiến tranh…chúng được bao phủ bởi năng lượng vũ trụ mà Franz Anton Mesmer 1734-1815 gọi là chất lỏng. Vì năng lượng sinh học của động vật, nhất là con người, chịu ảnh hưởng mạnh của trường lực vũ trụ nên, theo Mesmer : Đặc tính của cơ thể động vật là có thể cảm nhận được ảnh hưởng của các thiên thể và tác động của những gì bao quanh nó, vì nó có những đặc tính giống như của nam châm. Vì thế tôi quyết định đặt tên cho nó là từ tính động vật (magnétisme animal).
Mesmer là nhà thấu thị, dùng năng lượng sinh học chữa bệnh, ông ta xác định: Sau cùng, học thuyết này đặt người thầy thuốc ở địa vị người có thể đánh giá đúng sức khỏe cho một cá nhân và làm cho anh ta tránh được các bệnh tật. “Như thế, nghệ thuật chữa bệnh sẽ đạt được sự hoàn thiện cuối cùng“.
Đối với giáo lý nhà Phật, điều nầy không hoàn toàn đúng, bệnh là kết quả của nghiệp thức kết tập trong quá khứ; các chủng tử đó tiềm phục, đến khi có đủ duyên thì phát khởi. Dùng năng lượng sinh học của một người để trấn áp nghiệp thức của bệnh nhân không cho phát khởi, không có nghĩa triệt tiêu được nghiệp nhân của bệnh nhân mà chỉ có nghĩa gia hạn việc trả quả. Chính vì thế, ông cha ta có câu: “Nhất đại lương y, tam đại suy”, vì can thiệp vào nghiệp quả của người khác; tuy nhiên, vì hạnh nguyện của Bồ Tát, một Minh sư chứng đắc có khả năng dùng năng lực để trì hoản việc trả quả của đệ tử vì mục đích trợ duyên cho đệ tử tu tập hầu đệ tử chuyển hóa nghiệp quả của mình thì việc đó sẽ khác. Cho nên Trường sinh học nhân điện dùng chữa bệnh thuần túy chẳng khác giúp cho bệnh nhân trốn nợ mà không giúp cho họ tự thân tu tập để chuyển hóa nghiệp quả. Nợ thì không thể trốn theo luật nhân quả, không trả trước phải trả sau. Một bệnh nhân hao tốn một số tiền chữa trị và đau khổ vì căn bệnh, đó là cách trả quả; trả xong hay còn là do phước nghiệp quá khứ cùng với hành trạng hiện kiếp của đương sự. Nếu trả quả mà không hao tốn vật chất, không đau khổ tinh thần, thể xác không chịu một tác động, một áp lực nào thì không thể xem là trả quả, ngoại trừ các Thánh nhân, các bậc tu chứng trong lúc trả quả mà tinh thần vẫn chủ động an lạc. Vì vậy, khi nhận thức được tính liên đới về một sinh mạng với năng lượng dương của vũ trụ thì hành giả tự mình kết hợp tâm thức, pháp hành và đời sống sinh học để cân bằng tâm sinh lý, vừa hóa giải nghiệp thức, vừa tránh kết tụ thêm tập khí xấu, đồng thời tiến hóa trên con đường giải thoát tâm linh. Năng lượng sinh học trong  cơ thể động vật, nhất là con người, có hai khuynh hướng do chính chúng ta quyết định. Trong trạng thái cơ học, do hấp thu một số thực phẩm dương tính thì sức khỏe và tinh thần sẽ thanh thái, năng động và nhạy bén. Ngược lại âm chất nhiều sẽ đem đến bạc nhược trì trệ, trầm cảm và bệnh hoạn. Trong phạm vi năng lượng sinh thức, luôn tư duy theo chiều hướng tích cực, trong sáng, thánh thiện, vị tha thì năng lượng dương ngoại biên dễ tiếp cận hỗ trợ chuyển hóa tâm linh, giúp hóa giải nghiệp thức nhẹ nhàng hơn. Bằng ngược lại, tâm tưởng luôn  có chiều hướng tiêu cực, xấu xa, sát hại, ích kỷ, bỏn xẻn, độc ác…thì tương thích với năng lượng âm ngoại biên thâm nhập, mở đường cho những bất thiện, tai nạn, bệnh tật và xui rủi theo vào. Dương  có khuynh hướng đi lên, sáng tỏ, thánh thiện; âm có khuynh hướng đi xuống, độc ác, đen tối u ám.

– Hiện tượng vật lý vi tế, còn gọi là sinh vật năng lượng vô hình, cảnh giới nầy tạm gọi là cỏi âm, một dạng sống ẩn tàng mà mắt thường không thấy được, ngoại trừ huệ nhãn, thần nhãn, Phật nhãn hay các nhà thấu thị, một dạng sóng năng lượng có tần số dao động nhanh hơn, mạnh hơn thể vật lý thô. Sinh vật năng lượng nầy vẫn mang âm tính. Nhà tiên tri nổi tiếng thế giới người Bungari là bà Vanga (1911-1996), bị mù lúc 14 tuổi, đã cho biết về thế giới vô hình như sau:
– Bà đã nhìn thấy hình ảnh của các vong linh và nghe thấy tiếng nói của họ;
– Bà đã chứng kiến các vong linh bày tỏ cảm nghĩ của mình cũng như trả lời các câu hỏi được đưa ra.
 
Việt Nam sau 1980, cũng xuất hiện nhiều nhà ngoại cảm mà nổi tiếng nhất là Phan thị Bích Hằng; việc tìm mộ và thấy nghe được thế giới cỏi âm trở thành chuyện thường ngày đối với các nhà ngoại cảm có khả năng cao. Sinh vật năng lượng âm nầy có đủ tính chất lúc mang thân người ở cỏi dương; các chủng tử thiện, bất thiện, các cảm thọ hỷ nộ ái ố đều tồn tại ở dạng sóng âm nên người dương không nghe thấy được. Tuy nhiên, cơ năng vật lý vi tế đó vẫn còn lưu trữ những ký ức về một thân thể vật lý thô trước khi chết, cho dù thời gian vài mươi năm hoặc lâu hơn thế nữa, do tính chấp thủ của nghiệp thức mà những ký ức đó vẫn chưa phai mờ, và cơ năng vật lý vi tế âm đó không có khả nănhg cập nhật thông tin như lúc còn xác thân vật lý thô, vì vậy các nhà thấu thị thường biết họ ăn mặc, nói năng và ước muốn theo tập quán trước khi bỏ xác.
Chính vì vậy mà Phật giáo chú trọng đến việc siêu độ cho những vong thức đang tồn tại trong cảnh giới mộng tưởng đen tối lạc lõng đó. Nếu thời gian tồn tại trong cỏi âm mà vong thức còn bảo lưu những cảm thọ bất thiện thì chính họ cảm nhận những khổ đau dằn vật. Đa số quần chúng Phật tử lầm lẫn giữa cảnh giới Trung ấm và cảnh giới hạ âm thức. Cỏi trung ấm là giai đoạn chờ đợi đủ yếu tố để chuyển sinh hoặc vào cỏi dương hoặc xuống cỏi hạ âm thức. Hạ âm thức là cỏi có tần số dao động nhanh nhưng năng lượng đen do tụ khí từ những chủng tử bất thiện hoặc cực ác. Thân thể năng lượng nhuốm màu đen tối hoặc đỏ rực, tùy nghiệp duyên chiêu cảm. Những trai đàn chẩn tế rất quan trọng cho các hạ âm thức hoặc trung ấm thức, với điều kiện sám chủ và ban kinh sư thành tâm hướng đến họ. Có những sám chủ lãnh hậu quả đột tử là do ngồi đàn mà tâm phóng dật, không đem lại lợi ích cho chư vong nên bị sự phẩn nộ của lực lượng âm phản phục.
Chư linh thánh thiện mang thân ánh sáng mờ nhạt, chư linh trọng trược  thì thân là một tụ khí u ám. Tất cả sinh vật vi tế mang thân năng lượng đều giao thoa không hề bị cản trở chướng ngại như thân vật lý thô, nhưng họ có một hạn giới ngăn cách nhau tùy mức độ dao động của thân năng lượng do phước nghiệp của mỗi chủng loại cấu thành. Có một năng lượng siêu thức cấp độ cao mang thân ánh sáng cực đại hòa cùng năng lượng vũ trụ có tâm thức, vượt khỏi mọi chi phối, đó là chư Phật, chư đại Bồ Tát, chư minh sư Thánh hiền.
 
Quán âm và hóa giải

Ngoài việc chẩn tế, mỗi pháp hành đều có công dụng giúp tự thân thăng hoa mà còn tác hưởng đến thân tộc và những vi sinh năng lượng, giải trừ nghiệp thức khi biết giải tỏa những kiết sử đang cố chấp; một linh thức được thanh lọc các tập khí càng nhiều thì cấp độ thăng hoa vào trường năng lượng dương càng cao. Một hành giả chân tu, thường hướng đến năng lượng thanh khiết bằng thân khẩu ý thì năng lượng sinh thức tỏa sáng cho những vi sinh thể chung quanh mình. Những thân tộc quá vãng có mối liên kết với nghiệp thức hành giả cũng ảnh hưởng trường năng lượng dương của hành giả mà thăng hoa. Vì Vậy được gọi –“Nhất nhân đắc đạo, cửu huyền thăng”, nếu hành giả chưa chứng đắc toàn phần, quá trình đắc pháp và hành pháp cũng ảnh hưởng đến thân quyến, bè bạn, Oan gia trái chủ để họ cùng thăng tiến trong trường năng lượng dương của vũ trụ. Người bình thường khi cầm một vật, dấu tay để lại trên vật đó, thì hành giả thành tựu cũng để lại những vệt sáng trên bất cứ đồ vật nào khi chạm tay qua.
 
Hành giả quán âm ngoài hạnh nguyện phục vụ chúng sanh một cách vô ngã qua ngưỡng vọng âm thanh thường tục, còn quán sát âm lưu nội tại miên tục không gián đoạn, không tuyến tính, để độ tận chúng sanh tánh tự thân  về bản chất bỉ thử nhân ngã, không đúng sai, không có chiều kích của không gian và thời gian, luôn là thực tại và hiện tại; không bị chi phối bởi vọng tưởng, không bị chi phối bởi tiền trần thức, không có cảm thọ trần tục…đó là trạng thái tĩnh trong động của tần số năng lượng tâm thức, không lạc vào ngoan không, vì thế Như Lai là không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, luôn là hiện thực, hiện tại và bây giờ! Chúng sinh do vọng tưởng dao động nên mọi thực tại bị méo mó, đưa đến nhận thức thiếu trung thực. Tâm thức các hành giả thành tựu hay chư Phật và Bồ Tát luôn là mặt hồ tĩnh lặng phản chiếu mọi thực tại một cách trọn vẹn và trung thực, vì thế – “viễn ly điên đảo mộng  tưởng, cứu cánh Niết bàn” .
 
Trường năng lượng vốn là bản năng vô tính của trường lực vũ trụ; khi năng lượng tâm thức khởi động thì năng lượng sinh thức tác động đến năng lượng vi sinh để hiển thị ánh sáng nếu thị giác hoạt động, và năng lượng vi sinh hiển thị dao tầng sóng âm nếu thính giác khởi hiện; chính vì thế, một hành giả thiền tập thường xuất hiện ánh sáng hoặc nghe được âm thanh vi diệu khi mà bán cầu não được kích hoạt bởi vi sóng năng lượng sinh thức. Quán âm là pháp của Bồ Tát Quán Thế Âm hay hành giả quán âm hành tập, hòa nhập vào từ trường vũ trụ để phát triển tâm từ và quán sát các loại hình khổ đau của chúng sanh hay nhu cầu tục đế mà hóa giải bằng ánh sáng tuệ tri hầu đưa đến tuệ giác. Như vậy, tâm linh hay năng lượng vũ trụ đều là một thể tính; hàm chứa quang năng tự tánh và âm lưu nội tại, là chấn động lực của tần số đồng pha; hành giả dù đi trên con đường nào với mục đích hội nhập năng lượng vũ trụ, hay hiển lộ Phật tánh, trở về bản lai diện mục, bất cứ ngôn từ diễn đạt nào, cũng đều thoát khỏi cái không thật của khối vật chất thô và vọng tưởng vi tế âm của trường năng lượng. Đó là cách hóa giải cái gọi là: “nhất thiết hữu vi pháp – như mộng huyển bào ảnh – như lộ diệc như điển”. chủng tử tập khí, nhân quả ở dạng sóng vi tế, nhìn thấy nghe biết ở dạng sóng quang và dạng sóng âm, chúng tồn tại mức độ dao động để duy trì một tinh thể mà ta cứ ngỡ là tĩnh lặng, kể cả khoáng vật, thật ra luôn chuyển động trong cơ chế nhịp nhàng mà tồn tại. Nhờ vậy mà chủng tử quá khứ có thể xuất hiện trong não bộ đôi khi không do học tập mà có, từ đó, thần đồng xuất hiện hoặc vô sư trí có mặt. Như máy thu thanh, có thể rà trúng tầng sóng bất chợt, do sóng âm bàng bạc trong vũ trụ, cũng thế, sóng não tiếp cận với tri kiến bất chợt khi sóng quang, sóng âm đồng pha với sóng não trong một giai tầng nhât định. Đó là trường hợp của các nhà thấu thị, ngoại cảm, nhưng với những hành giả tâm linh có thể chủ động khi mà định lực đủ khả năng hướng đến một chủ đích theo ý muốn. Ta hiểu tâm thức  cũng là tạo hóa của hiện tượng vật lý thô và vật lý vi tế trong trường năng lượng vũ trụ. Vì vậy cổ nhân từng bảo : con người là chủ tế  của vũ trụ. Kết cuộc của mọi hành trình tâm linh đều là dải năng lượng từ bi phủ trùm vạn vật. Phật tính, Đạo hay bất cứ tôn giáo chân chính nào cũng hàm tàng tình thương vô điều kiện; trí tuệ vô biên; Tình thương và trí tuệ là dạng năng lượng trong từ trường quang âm  vũ trụ.
 

                                                           MINH MẪN
                                                             31/10/2012

Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh