TT. Thích Chân Quang thuyết giảng đề tài: Tình cảm

Vừa qua, TT Thích Chân Quang – Phó ban Kinh tế Tài chánh T.Ư GHPGVN đã có bài thuyết giảng về chủ đề TÌNH CẢM dành cho hơn 1000 thiền sinh tham dự khóa tu tại chùa Pháp Vân (Hà Nội), và khoảng 2000 phật tử các nơi xa gần đồng tham dự.

Vào đầu đề tài, Thượng tọa đánh giá và nhận định : Khi ta ngồi thiền, nghiệp xưa mang đến những chướng ngại cả thân lẫn tâm, làm ta đau chân, hôn trầm, vọng tưởng không yên. Nhưng nếu ta cứ ngồi mãi cho đến khi hết đau, bớt vọng tưởng thì khi đó nghiệp xưa đã nhẹ, và dù chưa chắc sẽ chứng được Thánh quả, nhưng sẽ được cái chết an lành không đau đớn vào cuối đời. Còn những người không ngồi thiền chịu đau thì cái nghiệp vẫn còn nằm đó, chờ thời cơ để xảy ra, thường đến lúc già, bệnh, chết trong đau đớn bệnh tật .

Nói về đề tài “Tình cảm”. Tình cảm là gì? Vĩnh viễn không bao giờ định nghĩa được. Giống như trọng lực, sức hấp dẫn vậy, ta biết là có tồn tại đấy nhưng đến ngày nay vẫn chưa ai có thể định nghĩa. Nhưng chỉ cần con người biết và chấp nhận thôi là đã mở ra một chân trời khoa học. Thế giới cõi âm hay hiện tượng luân hồi tái sinh cũng vậy, không cần định nghĩa, không cần chứng minh, ta ghi nhận, biết rằng có tồn tại, chỉ như vậy cũng đủ trở thành một môn khoa học.

Tình cảm, dù không định nghĩa được nhưng ta biết là có, địa thế căn cứ vào những biểu lộ của nó như : thương mến ai thì ta vui khi được gần bên, nhớ nhung khi xa cách, thích chăm nom v.v … Và con người có rất nhiều loại tình cảm như : thương, ghét, chán chường, sợ hãi, đam mê, tức giận, si dại, nhớ nhung, thù hận, chán nản, khinh thường, kính trọng, trung thành với chủ, phản bội …
Trong những loại tình cảm, tình yêu nam nữ là bản năng tự nhiên rất mạnh, đi vào vô số trong thơ, văn, nhạc, họa. Vì thuộc về bản năng nên tình cảm này không cần được giáo dục. Cũng có những loại tình cảm do giáo dục mà thành, ví dụ như tình yêu nước, hay như người phật tử đã hiểu đạo sâu thì lòng tôn kính Phật là sâu đậm thiết tha vô cùng .
Đa phần tất cả chúng ta bị nhầm lẫn tình cảm ( động từ ) với cảm xúc ( danh từ ). Tình cảm có thương có ghét, còn cảm xúc là cảm xúc khổ, cảm xúc vui, cảm xúc dễ chịu và thoải mái, cảm xúc không dễ chịu, cảm xúc tự do, tức bực, đau đớn … .

Tình cảm là một loại “ hành vi ” nên nó thuộc về Hành ấm của tâm hồn – nơi khởi lên những hoạt động giải trí suy luận, đo lường và thống kê, săn lùng, phát minh sáng tạo khác .
Tình cảm ( ái ) là một mắt xích trong giáo lý Mười Hai Nhân Duyên ( giáo lý quan trọng của đạo Phật ). Trong Mười Hai Nhân Duyên, “ Ái sinh thủ – thủ sinh hữu ”. Để mọi người hiểu rõ điều này, Thượng tọa lý giải :
“ Ái ” : tình cảm ; “ Thủ ” : hành vi tạo nghiệp cho đời sau. “ Ái sinh thủ ” tức là khi có tình cảm, ta khởi đầu tạo nghiệp cho đời sau. “ Hữu ” : đời sống kiếp sau được vẽ lên, tạo ra. “ Thủ sinh hữu ”, tức là từ mỗi hành vi tạo nghiệp, ta sẽ vẽ lên một bức tranh cho đời sống kiếp tiếp nối. Ví dụ, ta làm một điều bất thiện, bức tranh đó có thêm một nét của sự đau khổ. Làm một điều thiện, bức tranh đó thêm một nét niềm hạnh phúc .
Mà điều gì sinh ra “ ái ” ( tình cảm ) ? đó chính là “ thọ ” ( cảm xúc ). Con người thông thường thấy cảm xúc và tình cảm đi sát bên nhau, vậy mà Phật vẫn tách chúng ra làm hai. Ví dụ khi được ai khen, ta có cảm xúc vui ( thọ ), rồi mới có tình cảm thích lời khen, thích luôn người khen ( ái ). Hoặc ai gây ra cho ta cảm xúc khổ ( thọ ), ví dụ sỉ nhục ta, thì ta tức bực, ghét bỏ, ghét người đó, ghét luôn sự tình đó ( ái ) .
Nhưng vì cảm xúc ( thọ ) và tình cảm ( ái ) Open có vẻ như đồng thời nên tất cả chúng ta hay nhầm lẫn chúng với nhau. Chúng ta thấy Đức Phật vĩ đại là vậy, Ngài tinh xảo, thâm thúy, từng điều nhỏ như sợi tóc Ngài vẫn chia chẻ ra, ta phải tư duy rất nhiều mới hiểu được. Khi hiểu rồi ta sẽ biết nhìn tâm mình một cách tinh xảo hơn. Ví dụ hãy quan sát cái tâm của mình khi ngồi thiền, sẽ thấy :

Chân ta bắt đầu đau (xúc)
Ta “khó chịu” (thọ)
Ta “ghét” ngồi thiền (ái)
Ta bỏ chân ra không ngồi nữa (thủ)
Tạo cái nghiệp lười biếng, giải đãi cho đời sau (hữu)

Còn khi tâm đã thanh tịnh, cái đau cũng Open ( xúc ) nhưng cảm xúc không dễ chịu ( thọ ) đã bị hủy hoại, bị khống chế. Vì thế ta không ghét ngồi thiền ( ái ), không kéo chân ra ( thủ ), và như vậy ta liên tục ngồi, liên tục tinh tấn và tạo được thiện nghiệp cho đời sau ( hữu ) .
Đó là trường hợp có “ xúc ” mà không có “ thọ ” của những người có tâm thanh tịnh. Trong đời sống cũng vậy, ví dụ khi giật mình bị ai tông xe vào, họ ngã xuống, mình mẩy trầy xước ( xúc ), nhưng tâm họ không hề không dễ chịu ( thọ ), nên không có giận ( ái ). Rồi mới dữ thế chủ động xin lỗi trước, không mắng lại người kia ( thủ ) nên không tạo nghiệp ( hữu ). Hay khi được khuyến mãi ngay món quà giá trị ( xúc ) lòng họ cũng bình thản, không bị cảm xúc vui sướng khởi lên, chỉ biết ơn chừng mực mà thôi ( thọ ) .
Và giá trị của thiền là chặn xúc cảm ( thọ ). Nghĩa là ta vẫn tiếp xúc với cuộc sống, nhưng giữa mọi buồn thương giận ghét, giữa thiện ác tốt xấu xen kẽ ta không bị xúc cảm chi phối sai xử nữa, chỉ còn lại lý trí, đạo lý, đạo đức để ứng xử với nhau mà thôi .
Một đặc thù nữa của tình cảm là nếu lê dài sẽ gây căng thẳng mệt mỏi. Tình cảm là một hoạt động giải trí của tâm, nên luôn làm tâm hao nguồn năng lượng như những hoạt động giải trí đi lại, làm lụng, suy tính khác. Ta không hề thương ai, nhớ ai, ghét ai mãi được vì tâm sẽ mỏi mệt, đó là quy luật .

Hiểu quy luật này rồi ta đừng đòi hỏi người khác phải thương mình mãi, hãy giữ khoảng cách vừa chừng, đừng đòi hỏi, để cho người kia tránh được cảm giác mệt mỏi và đôi bên còn giữ lại được cái duyên với nhau. Hoặc lòng kính Phật là một tình cảm mãnh liệt hơn mọi tình yêu trên đời này, và tất nhiên không tránh khỏi làm tâm hao năng lượng. Vì vậy, khi lễ kính Phật, ta đừng khờ dại khởi lên cảm xúc, chỉ cần ý niệm tôn kính Phật tuyệt đối mà thôi. Vậy mà lại bền.

Trên đời có những người có nguồn năng lượng nội tâm tràn trề làm người khác thấy hấp dẫn lạ kỳ. Ngược lại có những người mờ nhạt, nguồn năng lượng yếu ớt, người khác không quan tâm lắm. Và tất cả chúng ta đều mong mình có nguồn năng lượng nội tâm để hoàn toàn có thể liên kết với mọi người, mang ảnh hưởng tác động của điều thiện đến, tạo nên cái phước. Vậy nguồn năng lượng này được tạo nên bằng cách nào ?
Bằng những tình cảm chân chính. Đối tượng ta đặt tình cảm rất quan trọng, nếu đặt sai ta mất nguồn năng lượng ngay, cũng giống như khi ta mang tiền cho người không xứng danh thì ta mất tiền, hết phước vậy. Cũng vậy, tình cảm nếu được đặt đúng đối tượng người dùng sẽ khiến cho phước ta tăng lên, nguồn năng lượng nội tâm cũng tăng thêm. Đối tượng đó hoàn toàn có thể là những con người thiện lành, có tu tập trên cuộc sống này, hoặc là bậc Thánh với đức hạnh thanh tịnh sáng chói, nhất là Đức Phật. Ai mỗi ngày lễ Phật với lòng thương kính tuyệt đối ( chỉ cần ý niệm, không cần cảm hứng quay quắt ) sẽ từ từ tăng cái phước, nguồn năng lượng nội tâm tràn trề. Còn nếu đặt nhằm mục đích người giả dối, không tu tập, không có thiện pháp, như thế nguồn năng lượng của ta cũng giảm dần, khuôn mặt héo hắt, đời sống cứ bớt suôn sẻ dần .
Ta đã nói rằng người tu thiền thì có cái tâm thanh tịnh đủ để diệt cảm xúc không dễ chịu, khổ sở ( thọ ) trước ngoại cảnh. Đến mức độ định sâu hơn, cái tâm thanh tịnh đó sẽ diệt luôn cả tình cảm ( ái ). Họ không thương ghét lặt vặt, chỉ sống bằng đạo lý, đạo đức, trí tuệ mà thôi. Nhưng như vậy có khô khan quá chăng, bởi lòng từ bi của một người tu thì làm cho người đó đẹp như một cánh hoa, mềm như một làn sương, êm dịu như cơn gió .
Thật ra, nếu sống gần một bậc Thánh nhân, ta sẽ niềm hạnh phúc vô cùng vì vị đó yêu thương ta, nhưng không phải thương vì tình thương ghét lặt vặt thường thì, mà vì đạo đức, đạo lý mà thôi. Họ cao xa vời vợi nhưng vẫn rất đỗi thân thiện bình dị ấm cúng .
Lại nữa, với người kém bản lĩnh thì tình cảm ép chế lý trí, còn người bản lĩnh luôn dùng lý trí trấn áp tình cảm. Sự độc lạ này là do “ phước ” mà thành. Với người vừa tạo phước, vừa tu tập thiền định thì dù vẫn còn thương ghét, nhưng họ vẫn có sức mạnh của lý trí giúp họ trấn áp tình cảm, kể cả với người từng có ân huệ đời trước. Họ có bày tỏ tình cảm đấy nhưng vẫn trong chừng mực, không bị mù quáng cuốn theo nghiệp xưa rồi yêu dấu quay quắt cuồng nhiệt, tạo thêm nghiệp mới .

Phải hiểu rằng có ba nguồn tạo ra tình cảm.
+ Một là “nghiệp xưa” (oán thù quá khứ tạo ra sự ghét bỏ căm thù trong đời này, ân nghĩa quá khứ tạo ra tình thương hiện tại).
+ Hai là “bản năng” (ta say mê, muốn chiếm hữu người có sắc đẹp, ngoại hình, tài năng…).
+ Ba là “đạo đức”. Ta vẫn tử tế với cuộc đời, vẫn trải tình thương bao la, sâu sắc nhưng là vì đạo đức, chứ không phải vì nghiệp duyên, cũng không vì bản năng.

Và bậc Thánh là bậc có nhiều Thánh tính cao đẹp, trong đó có đặc thù là cư xử rất tình cảm, nhưng lòng thanh thản và đầy lý trí. Các Ngài không rơi vào cái cảm tính như phàm phu, tức là hay động tâm thương ghét lặt vặt không đáng. Mà hãy nhớ rằng, khi tình cảm thương ghét khởi lên rồi, chắc như đinh ta không nhìn nhận đúng về con người, không giải quyết và xử lý thỏa đáng về mọi việc được. Vì vậy mới có câu : tình sanh thì trí cách, nghĩa là hễ tình cảm nổi dậy thì trí tuệ lập tức bị che lấp .
Thông thường tình cảm xấu đi như giận ghét, tham lam, thù hận, khinh bỉ, phản bội v.v … luôn khiến ta dễ tạo nghiệp. Tuy nhiên không phải luôn luôn như vậy. Ví dụ nghe ai xúc phạm Đức Phật, nếu ta giữ lòng bình thản thì lại không đúng, lúc đó ta đang gieo cái nghiệp trở thành cây đá, bởi chỉ cây đá mới vô tâm đến mức độ như vậy. Dù ta không manh động, không hồ đồ, không sôi trào, vút vắt, loạn động, nhưng cũng không được trơ trơ, bỏ mặc .
Tình cảm thương hay ghét, nếu được sử dụng đúng đều sẽ tạo thành phước, và tạo nên nguồn năng lượng nội tâm tràn trề can đảm và mạnh mẽ .
Tóm lại, từng câu từng chữ trong bài Pháp thoại này đều tiềm ẩn những ý nghĩa thâm thúy. Qua bài Pháp thoại mà Thượng tọa thuyết giảng với nội dung thật logic, thật kĩ lưỡng, ngặt nghèo. Vấn đề chính được chia chẻ nhỏ ra, cộng với việc gợi ý, có nhiều ví dụ thực tiễn làm sáng tỏ từng yếu tố, từng nhận định và đánh giá hay quan điểm mà Người đưa ra, khiến mọi người hiểu được sâu hơn về góc nhìn của tình cảm .

Đây là đề tài nói về tâm không phải dễ hiểu, nhưng với biện tài, Thượng tọa đã giúp cho mọi người đều có năng lực nhìn nhận, hiểu ra nhiều góc nhìn của tình cảm thông qua nhiều điều đáng suy gẫm. Từ đó giúp mọi người có động lực để tu, tránh tạo nghiệp .

Với sự nghiệp hoằng Pháp của mình, Thượng tọa đã nâng bước trên sự tu tập cho người phật tử, khiến mọi người nhận biết tu như thế nào để có thể thành tựu con đường tâm linh của mình. Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm là chúng ta có tinh tấn nổ lực tu tập hay không thôi. Sự mong muốn của chúng ta dù tốt đẹp đến đâu mà chính mình không siêng năng, không nổ lực thực hành sống đúng đạo lý và tu tập những công phu về tâm linh một cách liên tục, đầy đủ thì không ai giúp mình thoát khổ được./.

Tuệ Đăng

Dưới đây là 1 số hình ảnh khóa tu thiền chùa Pháp Vân :

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp