Chiếc nón lá trong đời sống văn hóa của người Việt

văn hóa nón lá

Cùng với chiếc áo bà ba, chiếc “nón lá” đã theo chân người phụ nữ miệt quê miệt vườn, cùng với chiếc xuồng ba lá, bồng bềnh theo con nước lớn nước ròng, dầm dãi nắng mưa sớm chiều…

Nón lá đã trở thành một đồ vật không thể thiếu trong trang phục của người phụ nữ

Từ lâu chiếc nón lá đã trở thành một vật phẩm không hề thiếu trong phục trang của người phụ nữ miền Nam nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung .

“Trời mưa thì mặc trời mưa

Em không có nón thì chừa em ra ”
( Ca dao )
Chiếc nón là hình ảnh quen thuộc và thân thiện với mọi người, vừa là để đội đầu che mưa che nắng hơn thế còn để làm duyên nữa. Chiếc nón lá đã Open trong thơ cổ :
“ Dáng tròn vành vạnh vốn không hư ,
Che chở bát ngát khắp bốn bờ .
Khi để ( đội ) tưởng nên dù với tán ,
Khi ra thì nhạt ( lạt ) nắng cùng mưa .
Che đầu bao quản lòng tư túi ,
Giúp chúa nào quen nghĩa sớm trưa .

                              Vòi vọi ngồi trên ngôi thượng đỉnh,

Ai ai lớn nhỏ đội ơn nhờ. ”

Nón lá có mặt mọi ngóc ngách đời sống

Từ khi xuất hiện với công dụng là “ cái nón ”, thì chiếc nón đã theo chân người nông phu ra đồng, theo người phụ nữ đi sớm về trưa, được bà dùng để quạt đưa cháu vào giấc ngủ, được những bà mẹ vỗ về đội vào đầu và nắm tay dìu con đến trường .
Nón cùng với người lính thú xông pha ngoài chiến trận, nón theo tài tử giai nhân đi trẩy hội, nón theo cung phi vào cung cấm, nón theo những nàng công chúa, những bà hoàng đi chùa cầu duyên cầu tự .
Nón cũng được những bà mẹ sụt sùi nước mắt đặt nhẹ lên đầu người con gái yêu dấu trước khi lên xe hoa về nhà chồng …
Chiếc nón còn xuất hiện trong sách vở thi ca, qua câu hò tiếng hát của người tầm trung để ngợi ca tình yêu trai gái … và trở thành một phần không hề thiếu trong đời sống vô cùng đẹp và lãng mạn của người Việt .

Nón lá xưa nón nón lá nay có sự thay đổi

Nhiều loại nón rất lâu rồi, nay không còn được sử dụng và mai một. Có loại nón được cải cách cho tương thích với thời đại và thị hiếu nghệ thuật và thẩm mỹ của con người, làm cho chiếc nón vượt lên khỏi công dụng “ che mưa che nắng ”, trở thành đồ trang sức đẹp, làm duyên cho người phụ nữ .
Có thể nói không có dân tộc bản địa nào có chiếc nón, như chiếc “ nón lá ” gắn bó, thân mật với con người như dân tộc bản địa Việt Nam !
Tên gọi chiếc nón ở nước ta rất nhiều mẫu mã. Theo thường thì, chiếc nón khi sinh ra được đặt tên theo vật tư làm ra nó. Như nón lá, nón rơm, nón đệm, nón lá buông, nón dứa, nón gõ, nón quai thao, nón móp, nón bài thơ … Chiếc nón cũng được đặt tên theo hình dạng, như nón chóp, nón dấu, nón mê, nón mẻ, nón thúng, nón chân tượng giống chân voi …
Nón cũng còn được đặt tên theo địa phương sản xuất, như nón Nghệ, nón Huế, nón Tây Ninh, nón Tân Hiệp ( Mỹ Tho ) …

“Chợ Dinh bán áo con trai,

Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim. ”
( Ca dao Huế )
Nón chuyên dùng thì có tên như “ nón tu lờ ” của những nhà sư, “ nón ngựa ” dùng cỡi ngựa, “ nón cụ ”, nón quai thao dành cho cô dâu, “ nón dấu ” dành cho lính thú đời xưa …